Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUYỀN VỀ MÔI TRƢỜNG TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUYỀN VỀ MÔI TRƢỜNG TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số:

60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS TƢỜNG DUY KIÊN

Hà Nội – 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các luận
điểm, nội dung nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ THU HẰNG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ......................................................................................... 4
3. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................... 5
3.1. Mục tiêu tổng quát .......................................................................................... 5
3.2. Mục tiêu cụ thể ................................................................................................ 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 6
5. Tính mới của đề tài............................................................................................. 6
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................... 7
6.1. Nội dung .......................................................................................................... 7

6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................. 7
7. Kết cấu của luận văn .......................................................................................... 8
CHƢƠNG 1............................................................................................................ 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUYỀN VỀ MÔI TRƢỜNG .............................. 9
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển khái niệm Quyền con ngƣời về Môi trƣờng 9
1.1.1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về Quyền con ngƣời về Môi trƣờng ...... 9
1.1.2. Sự phát triển khái niệm Quyền về Môi trƣờng .......................................... 20
1.1.3. Mối quan hệ giữa Quyền con ngƣời với Môi trƣờng ................................. 25
1.2. Nội dung Quyền con ngƣời về Môi trƣờng................................................... 32
CHƢƠNG 2.......................................................................................................... 45


QUYỀN VỀ MÔI TRƢỜNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ....................... 45
2.1. Quyền con ngƣời về Môi trƣờng trong các văn kiện quốc tế ....................... 45
2.1.1. Quyền con ngƣời về Môi trƣờng trong Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con
ngƣời năm 1948.................................................................................................... 45
2.1.2. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Công ƣớc quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 ....................................................................... 47
2.1.3. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Tuyên bố Stockholm năm 1972 ... 49
2.1.4. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Tuyên bố Rio năm 1992............... 51
2.1.5. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Chƣơng trình Nghị sự 21 ............. 53
2.2. Quyền con ngƣời về Môi trƣờng trong pháp luật của một số nƣớc .............. 55
CHƢƠNG 3.......................................................................................................... 58
QUYỀN VỀ MÔI TRƢỜNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM .................... 58
3.1. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Hiếp pháp năm 2013 ....................... 58
3.2. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Luật bảo vệ môi trƣờng năm 2014.. 63
3.3. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Luật tài nguyên nƣớc năm 2012 ..... 66
3.4. Quyền con ngƣời trong Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 ............... 74
3.5. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Luật sử dụng năng lƣợng tiết kiệm và
hiệu quả năm 2010. .............................................................................................. 77

3.6. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong Luật Đất đai năm 2013.................... 81
3.7. Quyền con ngƣời về môi trƣờng trong các văn bản dƣới luật ...................... 85
3.8. Nhận xét chung các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền con ngƣời về
môi trƣờng ............................................................................................................ 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 99


LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Môi trƣờng đã, đang và sẽ trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng
nhất đối với các nƣớc phát triển cũng nhƣ đang phát triển. Vấn đề quyền con
ngƣời về môi trƣờng cũng vì thế mà dần trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các quốc gia, vì chỉ khi môi trƣờng trong lành, quyền con ngƣời về môi trƣờng
nói riêng và quyền con ngƣời nói chung mới có thể đƣợc đảm bảo một cách hiệu
quả.
Thật vậy, môi trƣờng có sự ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống của mỗi con
ngƣời. Hiểu theo cách thuần túy nhất, môi trƣờng ở đây chính là nguồn nƣớc, là
cây xanh hay chính là không khí mà chúng ta hít thở hàng ngày…Nó là các yếu
tố tác động và ảnh hƣởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi con ngƣời. Theo
nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, con số 3 là con số chuẩn để đo
ngƣỡng giới hạn cuối cùng của con ngƣời bình thƣờng trong hoạt động nhịn thở
và nhịn uống. Tức là nếu nhƣ không có nƣớc uống trong 3 ngày, không có oxi để
thở quá 3 phút thì con ngƣời sẽ chết. Chỉ một ví dụ đơn giản đã có thể chứng
minh cho chúng ta thấy đƣợc, môi trƣờng chính là yếu tố quyết định đến chất
lƣợng sống và quyền sống của con ngƣời.
Trái đất nóng lên, băng tan, hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trƣờng…đang
là những vấn đề vô cùng nghiêm trọng ảnh hƣởng từng ngày đến toàn thế giới.
Đứng trƣớc thực trạng đáng báo động của môi trƣờng buộc cộng đồng quốc tế
phải có những cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của môi trƣờng, quyền con

ngƣời về môi trƣờng. Nhận thức đƣợc điều đó, rất nhiều các quốc gia đã ban
hành các đạo luật cho riêng mình nhằm bảo vệ môi trƣờng. Nhiều công ƣớc quốc
1


tế đƣợc ban hành nhằm gắn kết và nâng cao tính bảo vệ môi trƣờng liên kết và
có đƣợc những kết quả đáng ghi nhận.
Tại Việt Nam, cùng với xu hƣớng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, với
những kết quả đã đạt đƣợc của một đất nƣớc đang phát triển nhƣ tốc độ phát
triển kinh tế tăng, đời sống của con ngƣời đƣợc nâng cao, hội nhập quốc tế đạt
nhiều kết quả đáng tự hào…thì cũng kéo theo rất nhiều các vấn đề về môi trƣờng
nhƣ ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trƣờng nƣớc, sự suy giảm nghiêm trọng đa
dạng sinh học…và rất nhiều vấn đề khác liên quan đến môi trƣờng, có những
ảnh hƣởng tiêu cực đến đời sống con ngƣời. Đặc biệt, đối với các nƣớc đang
phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thì nguy cơ môi trƣờng lại càng nóng
bỏng khi có sự xung đột mạnh mẽ giữa nhu cầu cuộc sống hàng ngày và nhu cầu
phát triển của xã hội với sự cần thiết phải bảo vệ môi trƣờng, đảm bảo quyền con
ngƣời về môi trƣờng đang là dấu hỏi lớn đƣợc đặt ra, phải làm sao để có đƣợc sự
cân bằng và phát triển bền vững.
Hiến pháp năm 2013 của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lần
đầu tiên quy định về quyền con ngƣời về môi trƣờng tại Điều 43 “Mọi người có
quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi
trường".Điều đó cho thấy, quyền đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành là
quyền căn bản của con ngƣời đƣợc quy định cụ thể và rõ ràng trong Hiến pháp
bên cạnh các quyền khác nhƣ quyền đƣợc sống, quyền đƣợc học tập, quyền tự
do, quyền đƣợc nghiên cứu khoa học…Xuyên suốt chiều dài lịch sử, đã có rất
nhiều các văn bản quy phạm pháp luật về môi trƣờng đƣợc ban hành nhƣ Luật
bảo vệ môi trƣờng năm 1993, Luật bảo vệ môi trƣờng sửa đổi bổ sung năm 2005,
Luật bảo vệ môi trƣờng năm 2014, Luật đa dạng sinh học, Luật bảo vệ và phát
triển rừng, Luật đất đai, Luật tài nguyên nƣớc…và rất nhiều các văn bản dƣới

2


luật khác nhƣ: Tiêu chuẩn phát thải cho các phƣơng tiện, tiêu chuẩn môi trƣờng
quốc gia, về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải, chiến lƣợc bảo vệ môi
trƣờng quốc gia đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020…cho thấy tầm quan
trọng trong việc bảo vệ môi trƣờng, đảm bảo quyền con ngƣời về môi trƣờng
trong các chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, nhằm đảm bảo con
ngƣời thực sự đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành, với những tiêu chuẩn chất
lƣợng cuộc sống cao nhất.
Tuy nhiên, những giải pháp đề ra vẫn chƣa thực sự đạt đƣợc hiệu quả rõ
rệt, các quy định của pháp luật vẫn chƣa đƣợc thực thi một cách triệt để, nhận
thức của ngƣời dân chƣa thực sự đƣợc nâng cao về môi trƣờng, về quyền con
ngƣời đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành.
Có thể thấy rằng, vấn đề quyền con ngƣời về môi trƣờng với thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng đang còn rất nhiều vƣớng mắc, trở ngại buộc chúng
ta phải phân tích, tìm hiểu, nhằm đƣa ra những giải pháp tốt nhất, hiệu quả nhất
góp phần giải quyết vấn đề môi trƣờng triệt để theo hƣớng có lợi và gắn liền với
sự phát triển bền vững. Trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có rất
nhiều các quy định quyền con ngƣời về môi trƣờng. Để có thể đƣa ra hƣớng đi
tối ƣu nhằm bảo vệ môi trƣờng, đảm bảo quyền con ngƣời về môi trƣờng thì việc
hiểu đủ, đúng và rõ về các quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam là điều rất cần thiết. Từ đó chúng ta có thể đƣa ra những phân tích từ các
Công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời về môi trƣờng, sau đó lĩnh hội, kế thừa
sao cho phù hợp với pháp luật Việt Nam- một quốc gia đang phát triển thực sự
quan tâm đến vấn đề quyền con ngƣời về môi trƣờng và phát triển bền vững,
đồng thời làm cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quyền con ngƣời về môi trƣờng, pháp luật môi trƣờng trong thời
3



gian tới. Chính từ những lý do và vấn đề đã nêu trên, học viên lựa chọn cho mình
đề tài: “Quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” để
nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với thực tiễn xã hội, môi trƣờng đã, đang và sẽ trở thành vấn đề
đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm, từng có rất nhiều các công trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề này. Tuy nhiên, nghiên cứu môi trƣờng dƣới góc nhìn quyền
con ngƣời về môi trƣờng lại là vấn đề mới mẻ, đặc biệt quyền con ngƣời về môi
trƣờng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam - một vấn đề xoay quanh
và tìm hiểu quyền con ngƣời về môi trƣờng trong pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam lại là chủ đề rất mới trong việc tiếp cận và nghiên cứu. Theo tìm hiểu,
chỉ có một số bài viết, tham luận, nghiên cứu khoa học, tài liệu tập huấn tại một
số hội thảo khoa học, trong đó nổi bật có thể kể đến:
- Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường, TS. Nguyễn Đức Thùy chủ
biên, Tài liệu tập huấn của IUCN Việt Nam, Hà Nội – 2012
- Một số vấn đề pháp lý về quyền được sống trong môi trường trong lành
ở Việt Nam hiện nay, Th.S Bùi Đức Hiển
- Quyền về môi trường – một quyền con người mới trong thời kì hiện đại,
Lƣu Mẫn, Quyền con ngƣời ở Trung Quốc và Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội – 2003
- Mấy góp ý về quyền được sống trong môi trường trong lành trong dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Th.S Bùi Đức Hiển, Tạp chí Nhà nƣớc và
pháp luật, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Số 6/2013, tr.12-18.
- Một số vấn đề cơ bản về quyền con người với môi trường và điều kiện
đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020 vì mục tiêu phát triển con
4


người, Đào Thị Minh Hƣơng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu con

ngƣời, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội – 2012
- Pháp luật Quốc tế về quyền tiếp cận thông tin, ThS. Thái Anh Hùng, Hà
Nội – 2015
- Hoàn thiện pháp luật về môi trường để phát triển bền vững, ThS. Bùi
Đức Hiển, Tạp chí Cộng Sản, Hà Nội – 2016
- Môi trường với quyền con người và quyền con người trong bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, ThS. Phạm Thị Tính, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 172,
tr.18-25
Những công trình nêu trên đã cung cấp một lƣợng kiến thức căn bản
quyền con ngƣời về môi trƣờng. Tuy nhiên, chƣa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện từ quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về
vấn đề này, đồng thời lồng ghép thực tiễn và đƣa ra đánh giá về tính thực thi của
pháp luật quyền về môi trƣờng trong các lĩnh vực liên quan, phân tích cụ thể
nguyên tắc Hiến định, từ đó đƣa ra giải pháp khắc phục toàn diện, giúp cho
quyền về môi trƣờng đƣợc kế thừa và thực thi một cách hiệu quả. Vì vậy, việc
nghiên cứu quyền về môi trƣờng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
là một đề tài mang tính mới, có ý nghĩa nhất định về lý luận và thực tiễn.
3.Mục tiêu nghiên cứu
3.1.Mục tiêu tổng quát
Làm rõ những vấn đề lý luận quyền về môi trƣờng đƣợc quy định trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra đƣợc những tiến
bộ, bất cập, hạn chế, đƣa ra những phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm giúp pháp luật
quyền về môi trƣờng đi vào thực tế một cách hiệu quả hơn, góp phần thực thi
nguyên tắc Hiến định quyền con ngƣời đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành.
5


3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nêu và phân tích những nội dung quyền về môi trƣờng trong pháp luật
quốc tế nhƣ: công ƣớc quốc tế và trong pháp luật của một số quốc gia.

- Nêu và phân tích những nội dung quyền về môi trƣờng trong pháp luật
Việt Nam, đặc biệt đi sâu và làm rõ nguyên tắc Hiến định quyền con ngƣời đƣợc
sống trong môi trƣờng trong lành.
- Đƣa ra những phân tích đánh giá quyền về môi trƣờng trong pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam, từ đó làm cơ sở lý luận, giúp hoàn thiện hệ thống
pháp luật quyền con ngƣời về môi trƣờng
- Nêu lên thực trạng bảo đảm thực thi quyền về môi trƣờng trong pháp luật
Việt Nam, đƣa ra những kiến nghị nhằm đảm bảo quyền con ngƣời về môi
trƣờng trong pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Quyền về môi trƣờng là một quyền con ngƣời bên cạnh các quyền về dân
sự, kinh tế, xã hội khác… Chính vì vậy, quyền về môi trƣờng trong đề tài nghiên
cứu này đƣợc tiếp cận dƣới góc độ quyền con ngƣời về môi trƣờng.
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài chính là các vấn đề lý luận và thực tiễn
quyền con ngƣời về môi trƣờng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam,
đặc biệt chú trọng về vấn đề quyền môi trƣờng lần đầu tiên đƣợc quy định tại
Hiến pháp năm 2013.
5.Tính mới của đề tài
Vấn đề môi trƣờng là một trong những vấn đề đã đƣợc các nhà khoa học
nghiên cứu từ nhiều góc nhìn và cho ra đời nhiều đề tài khác nhau. Tuy nhiên,
phần lớn mới chỉ dừng lại ở góc độ gắn liền môi trƣờng với pháp luật và kinh tế.
Trong thời gian gần đây, khi nhận thức môi trƣờng có mối quan hệ mật thiết tới
6


sức khỏe và quyền con ngƣời thì hƣớng tiếp cận quyền về môi trƣờng dƣới góc
độ quyền con ngƣời về môi trƣờng là khá mới mẻ, hơn thế nữa, đề tài nghiên cứu
còn tiếp cận về quyền môi trƣờng từ cả góc độ pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam, từ đó đƣa ra cái nhìn tổng quát, nhằm hoàn thiện, kế thừa có chọn lọc
những điểm ƣu việt của pháp luật quốc tế đối với pháp luật quyền con ngƣời về

môi trƣờng của Việt Nam, với mục tiêu hòa nhập và bắt kịp xu thế thời đại.
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 đƣợc Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 ngày 28 tháng 11 năm 2013 thông qua,
là Hiến pháp mới ban hành, trong đó quyền con ngƣời đƣợc sống trong môi
trƣờng trong lành cũng là một trong những nguyên tắc Hiến định mới đƣợc đƣa
ra. Luận văn nghiên cứu góp phần trong việc thực thi hiệu quả Hiến pháp 2013.
6.Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung
Đƣa ra và phân tích quyền về môi trƣờng trong pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam dƣới góc độ quyền con ngƣời về môi trƣờng. Từ đó tìm ra phƣơng
hƣớng hoàn thiện hệ thống pháp luật quyền về môi trƣờng dƣới góc độ tiếp cận
cũng nhƣ góp phần thực thi nguyên tắc Hiến định quyền con ngƣời đƣợc sống
trong môi trƣờng trong lành.
6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và Pháp luật, về Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền con ngƣời về môi trƣờng. Việc nghiên
cứu đƣợc thực hiện từ góc độ lý luận chung, đặc biệt là vấn đề quyền con ngƣời
về môi trƣờng trong đó chú trọng đến nguyên tắc Hiến định quyền con ngƣời
7


đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành và sử dụng cách tiếp cận liên ngành.Các
phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so
sánh, thống kê...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, cấu trúc luận văn bao gồm 3
chƣơng:Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận Quyền về môi trƣờng
Chƣơng 2: Quyền về Môi trƣờng trong Pháp luật Quốc tế
Chƣơng 3: Quyền về môi trƣờng trong Pháp luật Việt Nam


8


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUYỀN VỀ MÔI TRƢỜNG

1.1.Lịch sử hình thành và phát triển khái niệm Quyền con ngƣời về
Môi trƣờng
1.1.1.Nhận thức của cộng đồng quốc tế về Quyền con ngƣời về Môi
trƣờng
Có thể nói rằng, từ phƣơng Đông đến phƣơng Tây, tƣ tƣởng về quyền con
ngƣời đã xuất hiện, hình thành và phát triển trong tất cả các nền văn hóa. Đây
không phải là sản phẩm của một giai cấp, tầng lớp, dân tộc hay nền văn hóa nào
mà chính là sự kết tinh của nền văn minh nhân loại.
Trong thời đại ngày nay, ở bất kì một quốc gia nào, quyền con ngƣời cũng
đƣợc chú trọng và quan tâm hàng đầu, trong mọi lĩnh vực, từ vấn đề hoạch định
chính sách, pháp luật đến thiết lập quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia.
Quyền con ngƣời là một giá trị cao quý, cả thế giới đang hƣớng tới xây
dựng một xã hội mà ở đó con ngƣời đƣợc hƣởng một cách thực chất nhất các
quyền lợi của mình – một cách trọn vẹn.
Từ thời cổ đại, chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy những văn bản pháp luật
chứa đựng, đề cập đến việc bảo vệ các giá trị, nhân phẩm của con ngƣời. Đó
chính là các quy định nhằm bảo vệ các quyền của thần dân chống lại các vi phạm
xâm phạm đến các quyền vốn có nhƣ quyền sống, quyền sở hữu, quyền tự do
thân thể…Điển hình là Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780 TCN)- một trong
những bộ luật tiêu biểu nhất cho thời cổ đại với hình phạt vô cùng nghiêm khắc:
tội vu khống ngƣời khác, tội xâm phạm quyền sở hữu…Ngoài ra, có rất nhiều

9



các tác phẩm tôn giáo nổi tiếng thế giới cũng thể hiện tấm lòng yêu thƣơng con
ngƣời nhƣ: Kinh Ko-ran, Luận ngữ, Kinh phật, Kinh thánh…
Tƣ tƣởng quyền con ngƣời đƣợc hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Tuy nhiên, đã có rất nhiều quan điểm trái chiều về quyền con ngƣời, rằng
nó là quyền tự nhiên hayquyền pháp lý. Trên thế giới đã đƣa ra rất nhiều giả
thuyết từ những ngƣời theo các trƣờng phái khác nhau. Cùng với sự phát triển
của thời đại, từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, tƣ tƣởng quyền con ngƣời đã dần
trở thành một vấn đề mang tính chất toàn cầu, đƣợc thể chế hóa một cách toàn
diện và có tính hệ thống. Một loạt các tổ chức quốc tế ra đời nhƣ: Hội chữ thập
đỏ và Trăng lƣỡi liềm đỏ Quốc tế ra đời năm 1863, Hội Quốc liên và Tổ chức
Lao động Quốc tế ra đời ra đời năm 1919. Và đặc biệt từ sau sự ra đời của Liên
hợp Quốc năm 1945 và ban hành Tuyên ngôn thế giới về Quyền con ngƣời năm
1948 thì vấn đề quyền con ngƣời đã trở thành mục tiêu chung của toàn nhân loại.
Mặc dù Tuyên ngôn không đƣa ra định nghĩa về quyền con ngƣời mà đi
thẳng vào nội hàm của vấn đề, nhƣng ngay ở lời nói đầu của Tuyên ngôn: “Việc
thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi
thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình
thế giới” đủ để cho chúng ta thấy quyền con ngƣời là một quyền tự nhiên, vốn có
nhƣng phải đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ.[19]
Ở Việt Nam hiện nay, đã có một số định nghĩa về quyền con ngƣời đƣợc
đƣa ra, nhƣng về căn bản không phải định nghĩa nào cũng hoàn toàn giống nhau,
tựu chung lại chúng đều đƣợc hiểu theo hƣớng quyền con ngƣời là “những nhu
cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [18, tr38]

10



Nói đến quyền về môi trƣờng thực chất để nói tới quyền của con đƣợc
sống trong môi trƣờng trong lành. Đây chính là sự phát triển dựa trên những lý
thuyết về quyền con ngƣời.
Có thể thấy rằng, trong những văn bản pháp luật đầu tiên về quyền con
ngƣời, mặc dù đã có rất nhiều các quy định bao hàm tƣ tƣởng nhằm bảo vệ
những quyền căn bản nhƣ quyền đƣợc sống, quyền đƣợc sở hữu, quyền tự do
thân thể… quyền về môi trƣờng lại chƣa đƣợc các nhà làm luật nghĩ tới, bởi lẽ,
trong thời kì đầu của xã hội nguyên thủy, mục tiêu hƣớng tới của con ngƣời là
khai phá và làm chủ thiên nhiên.
Quyền về môi trƣờng đƣợc phát sinh trên cơ sở lợi ích chung của toàn
nhân loại. Không phải chỉ vì lợi ích của một giai cấp, một nền văn hóa, một cá
nhân hay một quốc gia nào đó. Trong quá trình khai thác và làm chủ thiên nhiên,
để phục vụ cho cuộc sống của toàn nhân loại thì sự xung đột với thiên nhiên lại
diễn ra đồng thời. Khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với quá trình
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóalại kéo theo sự suy thoái của môi trƣờng tự
nhiên. Trong những năm gần đây, cơn giận dữ của mẹ thiên nhiên đã cho chúng
ta giật mình thấy những hậu quả nặng nề do chính chúng ta gây ra: biến đổi khí
hậu, hiệu ứng nhà kính, trái đất nóng lên…gây ra một loạt những hậu quả
nghiêm trọng màchúng ta phải gánh chịu.
Con ngƣời đang ngày càng nhận thức đƣợc những hậu quả nghiệm trọng
mà ô nhiễm môi trƣờng gây ra. Quyền sống căn bản đang bị đe dọa. Chính vì
vậy mà con ngƣời đã nảy ra ý tƣởng về một môi trƣờng trong lành, về quyền và
nghĩa vụ để giữ môi trƣờng trong lành và phát triển bền vững. Làm sao để cải
thiện và giúp cho môi trƣờng phát triển bền vững, đảm bảo cho sự phát triển của
thế hệ tƣơng lai. Cũng chính từ đó quyền về môi trƣờng ra đời.
11


Theo giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con ngƣời của nhà xuất bản
chính trị quốc gia năm 2009 thì “Quyền về môi trường là quyền được sống trong

môi trường trong lành hay khi nói quyền về môi trường là muốn đề cập đến
quyền của mọi người trong thế hệ hiện tại và tương lai được sống trong môi
trường trong lành, có lợi cho sức khỏe”. Nhƣ chúng ta đã biết, các khái niệm căn
bản liên quan đến quyền con ngƣời chủ yếu gắn với quyền cá nhân và quyền tài
sản. Trong đó quyền cá nhân bao gồm quyền sống, quyền tự do còn quyền tài
sản liên quan đến quyền sở hữu. Ở đây, bản chất của các quyền này thể hiện mối
quan liên hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, còn quyền về môi trƣờng lại đề cập
đến mối quan hệ giữa con ngƣời với thiên nhiên.
Chỉ khi chúng ta có những vấn đề về môi trƣờng, ảnh hƣởng tới đời sống
và các quyền căn bản của con ngƣời, chúng ta mới xác lập quyền về môi trƣờng.
Ban đầu, quyền về môi trƣờng không đƣợc coi là một quyền con ngƣời độc lập
mà nó đƣợc coi là một quyền phát sinh từ quyền con ngƣời truyền thống nhƣ
quyền đƣợc sống, quyền tự do, quyền mƣu cầu hạnh phúc…Tức là quyền về môi
trƣờng trƣớc đây không phải là một quyền độc lập.
Thực chất có thể xếp quyền về môi trƣờng vào nhóm quyền con ngƣời,
nhƣng lại không có quyền nào giống nhƣ quyền về môi trƣờng. Quyền về môi
trƣờng có thể rất gần với quyền sống, nhƣng lại khác xa quyền sống thông
thƣờng, bởi quyền về môi trƣờng vƣợt xa quyền sống. Tại sao lại nói vậy, bởi vì
môi trƣờng có ảnh hƣởng mật thiết đến chất lƣợng cuộc sống của con ngƣời. Môi
trƣờng có trong lành thì chất lƣợng cuộc sống của con ngƣời mới đƣợc nâng cao,
các hoạt động sản xuất nông nghiệp với thuận lợi, thiên tai dịch bệnh khó có cơ
hội bùng phát…Chính vì vậy mà quyền về môi trƣờng cần thiết đƣợc ra đời, nó
xuất phát từ chính nhu cầu của thời đại.
12


Mặc dù vấn đề quyền về môi trƣờng đã đƣợc quan tâm nhƣng nó đƣợc
quan tâm đúng mức hay chƣa lại là vấn đề cần lời giải đáp. Tất cả các quốc gia
đều thừa nhận quyền về môi trƣờng , nhƣng nó đã đƣợc thực hiện hay chƣa lại là
chuyện khác. Hiện nay mới chỉ có rất ít quốc gia thực hiện, một phần bởi quyền

về môi trƣờng là một quyền mới, tuy nhiên với tầm quan trọng và dài lâu thì các
quốc gia nên chú trọng và coi nó là một quyền căn bản. Hiện tại, quyền về môi
trƣờng đã đƣợc công nhận trên bình diện quốc tế nhƣng mới chỉ dừng lại ở
nguyên tắc chỉ đạo trong các tuyên bố hay nghị quyết không bắt buộc với tất cả
các nƣớc.Quyền về môi trƣờng thực tế nên đƣợc quy định trong pháp luật của
từng quốc gia. Bởi lẽ nó xuất phát từ thực tế, quyền có một môi trƣờng trong
lành chính là để đáp ứng nhu cầu sống của con ngƣời. Để có thể thỏa mãn những
quyền cơ bản thì con ngƣời cần đạt đƣợc và duy trì một tiêu chuẩn sống tốt nhất,
mà điển hình là vấn đề môi trƣờng. Hơn nữa, nhu cầu về môi trƣờng trong lành,
lành mạnh là vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ cuộc sống, bảo tồn, nâng
cao chất lƣợng và điều kiện sống. Những chuẩn mực về sức khỏe và phúc lợi sẽ
không thể bền vững trong một môi trƣờng đã bị vắt kiệt những yếu tố duy trì sự
sống. Cần làm sao để có thể vừa khai thác thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống nhƣng vẫn phải đảm bảo sự phát triển bền vững cho tƣơng lai. Sự can thiệp
quá sâu vào môi trƣờng sinh thái có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng,
thậm chí đẩy lùi con ngƣời về quá khứ, tƣớc đi môi trƣờng xã hội, trí tuệ và công
nghệ mà con ngƣời đã dày công xây dựng những năm qua. Con ngƣời muốn phát
triển ổn định thực sự cần có sự hậu thuận của thiên nhiên, muốn vậy, chúng ta
cần có trách nhiệm bảo vệ môi trƣờng sống một cách bền vững.
Tuyên ngôn Quyền con ngƣời thế giới năm 1948, Tuyên bố của Liên hợp
Quốc về Môi trƣờng và Phát triển năm 1972, Tuyên bố Rio năm 1992…là những
13


cơ sở pháp lý quan trọng quyền con ngƣời về môi trƣờng trên thế giới. Trƣớc và
sau khi có Dự thảo Tuyên ngôn Quyền con ngƣời về môi trƣờng năm 1994,
nhiều nƣớc trên thế giới đã tiếp cận quyền về môi trƣờng thông qua việc ban
hành các quy định, điều luật công nhận quyền con ngƣời đối với môi trƣờng
cũng nhƣ xây dựng cơ chế thực thi quyền. Bảo vệ môi trƣờng theo hƣớng cho
phép nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi

ngƣời tiếp cận môi trƣờng nhƣ nguồn lực phát triển và môi trƣờng sống. Đây
chính là cách tiếp cận quyền căn bản và dần trở thành cơ sở trong việc ban hành
các chính sách pháp luật nói chung và các chính sách, pháp luật về môi trƣờng
nói riêng.
Việc xây dựng cơ sở pháp lý và thực thi quyền con ngƣời với môi trƣờng
căn bản dựa trên ba bƣớc tiếp cận:
-Thứ nhất: Huy động và sử dụng các quyền đang có đã đạt đƣợc mục đích
bảo vệ môi trƣờng
-Thứ hai: Giải thích lại các quyền hiện có, tính đến các mối quan tâm đến
môi trƣờng
- Thứ ba: Tạo ra các quyền mới bao gồm đủ các đặc tính về môi trƣờng
Bên cạnh đó còn có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Bảo vệ môi trƣờng
có thể đạt đƣợc kết quả không chỉ thông qua việc khẳng định các quyền con
ngƣời hiện tại mà còn có thể qua sự phát triển của quyền con ngƣời mới liên
quan đến môi trƣờng hoặc một quyền chung đối với môi trƣờng. Chính điều đó
đòi hỏi quyền con ngƣời về môi trƣờng cần đƣợc nâng tầm sao cho bình đẳng
với các quyền khác của con ngƣời. Không chỉ từ nguồn gốc của quyền con ngƣời
phát triển lên mà còn có sự ngang tầm cần thiết đúng với xu thế phát triển của
thời đại ngày nay.
14


Việc sử dụng một phần các quyền con ngƣời sẵn có từ dân sự, chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa là vô cùng cần thiết. Điều đó đã đƣợc quy định cụ thể
trong Tuyên ngôn thế giới về Quyền con ngƣời năm 1948, Công ƣớc Quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị ( ICCPR) hay Công ƣớc Quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR)
Điều 1 của Công ƣớc Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ( ICCPR)và
Công ƣớc Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966
(ICESCR)quy định: “Vì lợi ích của mình, các dân tộc có quyền tự do định đoạt

nguồn tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm phương hại
đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế, quốc tế mà dựa trên nguyên tắc
các bên cùng có lợi và nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kì hoàn cảnh
nào cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc”
[20,21]
Đây chính là một sự cảnh báo thể hiện tầm quan trọng về vấn đề bảo vệ
môi trƣờng và lên án các quốc gia đang góp phần gây nên tình trạng ô nhiễm môi
trƣờng khi mà vào những năm 1960, các vấn đề môi trƣờng bị xếp vào hàng thứ
yếu, các chính sách về môi trƣờng chủ yếu mang tính nhỏ lẻ nhằm chống lại
những ô nhiễm cục bộ theo thời gian và không gian. Nguyên nhân của chúng dễ
dàng có thể nhận thấy, đó chính là các chất thải, nƣớc thải gây ra các vấn đề nhƣ
ô nhiễm khí quyển dẫn đến các rủi ro về nông nghiệp, công nghệ… hầu nhƣ
không đƣợc xử lý. Điển hình là thảm họa về môi trƣờng do các hoạt động kinh tế
gây nên nhƣ: tác động ô nhiễm do thủy ngân ở Nhật Bản vào những năm 1950
và dẫn đến ảnh hƣởng lâu dài tới môi trƣờng. Chính vì vậy đã dẫn đến nhiều
tranh cãi về vấn đề môi trƣờng song song với vấn đề phát triển kinh tế. Các tranh
luận về tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên bắt đầu tạo ra nhận thức rằng
15


với những điều kiện hiện tại của sự tăng trƣởng không thể tiếp tục tồn tại nếu
nhƣ không có những biện pháp, giải pháp nhằm tạo sự phát triển bền vững cũng
nhƣ bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trƣờng.
Chính vì vậy, từ các quyền con ngƣời căn bản, tại hai công ƣớc trên chúng
ta có thể tận dụng và gắn kết với việc bảo vệ môi trƣờng, đảm bảo quyền về môi
trƣờng. Đơn cử là quyền tham gia chính trị, tham gia hiệp hội, quyền tự do ngôn
luận, tự do cá nhân… sẽ cho phép chúng ta đƣợc nói lên các vấn đề về ô nhiễm
môi trƣờng khi mà hàng ngày, hàng giờ họ đang phải đối mặt. Với công ƣớc
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 đã đƣa ra khuôn khổ
pháp lý và đạo đức bảo vệ môi trƣờng thông qua một loạt các quy định, các

quyền về sức khỏe, quyền đƣợc hƣởng lợi từ các tài nguyên thiên nhiên, quyền
có điều kiện sống tối thiểu…
Có thể thấy Tuyên ngôn về Nhân quyền (UDHR) năm 1948 cùng với hai
công ƣớc ra đời năm 1966 là Công ƣớc Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR) và Công ƣớc về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa (ICESCR) đã tạo
thành một hành lang vững chắc với những quy định về nhân quyền quốc tế. Đây
chính là những quy định, cũng chính là sự đảm bảo cho một loạt các quyền con
ngƣời về các vấn đề trên nhiều lĩnh vực nhƣ bảo vệ quyền về sức khỏe, vệ sinh,
thực phẩm và tiếp cận nƣớc sạch… Là tiền để vững chắc để có thể đảm bảo
quyền về môi trƣờng sau này.
Tại Stockholm năm 1972, Hội nghị về Môi trƣờng và phát triển của Liên
hợp Quốc đã thừa nhận quyền đƣợc hƣởng một cuộc sống với mức sống đủ cho
sức khỏe và hạnh phúc, quyền lƣơng thực, nƣớc sạch…Với Tuyên bố: “Con
người có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống đầy đủ trong
môi trường chất lượng, cho phép con người có cuộc sống khỏe mạnh”. Về căn
16


bản thì với Tuyên bố này, cũng đã có sự xác nhận quyền về môi trƣờng là một
quyền căn bản và cần phải có của nhân loại.
Tiếp sau đó, năm 1986, với Tuyên ngôn về Quyền phát triển cũng đã đƣa
ra khẳng định quyền phát triển là quyền phổ biến và không thể chuyển nhƣợng,
là bộ phận thiết yếu của quyền con ngƣời, vì vậy các quốc gia cần áp dụng các
biện pháp cần thiết để hiện thực hóa quyền phát triển, bảo đảm bình đẳng về cơ
hội cho tất cả mọi ngƣời trong tiếp cận các nguồn tài nguyên cơ bản. Và trong
Nghị quyết 54/175 cũng đã một lần nữa khẳng định “Quyền thực phẩm và nước
sạch là các quyền con người cơ bản và thúc đầy các quyền này là yêu cầu đạo
đức bắt buộc cho cả các chính phủ và cộng đồng quốc tế”. Ở đây có thể thấy rất
rõ mối quan hệ giữa quyền phát triển và quyền về môi trƣờng là một trong những
mối quan hệ mật thiết. Con ngƣời, muốn đảm bảo quyền phát triền cần phải có

một môi trƣờng trong lành, đảm bảo tiêu chuẩn sạch đáp ứng những nhu cầu cơ
bản nhất nhƣ hít thở, nguồn nƣớc…[41]
Sau đó, với kế hoạch Mar de Plata cũng thừa nhận nƣớc là một quyền con
ngƣời: Tất cả mọi ngƣời có quyền tiếp cận bình đẳng về nƣớc uống, đủ về số
lƣợng và chất lƣợng, đáp ứng nhu cầu cơ bản của con ngƣời.
Đến năm 1990 tại Hội nghị thƣợng đỉnh Thế giới về trẻ em, trong kế
hoạch hành động cũng đã kêu gọi sự hợp tác giữa các quốc gia và quốc tế nhằm
đạt đƣợc sự tiếp cận toàn cầu đối với nƣớc uống và các phƣơng tiện vệ sinh vì sự
sống còn và phát triển của trẻ em. Cũng trong năm 1990 này, trong Nghị quyết
45/94, sự cần thiết về môi trƣờng một lần nữa đƣợc khẳng định: “Tất cả các cá
nhân có quyền sống trong môi trường được bảo đảm tối thiểu cho sức khỏe và
hạnh phúc”. Nhƣ vậy, cùng theo thời gian và các vấn đề phát sinh thì môi trƣờng
đang ngày càng đƣợc các quốc gia và toàn thế giới quan tâm. Họ cũng đã nhận
17


thức đƣợc rằng, để đảm bảo các quyền căn bản của con ngƣời, để con ngƣời có
thể sống hạnh phúc thì phải đảm bảo một môi trƣờng trong lành và lành mạnh.
Năm 1992 cũng đánh dấu nhiều sự chuyển biến tích cực trong chính nhận
thức của cộng đồng quốc tế. Với tuyên bố Dublin của Hội nghị về nƣớc vì sự
phát triển bền vững đã tái khẳng định quyền về nƣớc là một quyền căn bản của
con ngƣời, quyền đƣợc tiếp cận với nƣớc sạch, vệ sinh và giá hợp lý tại nguyên
tắc thứ tƣ. Cũng trong năm 1992, trong Hội nghị thƣợng đỉnh về Môi trƣờng và
Phát triển tại Rio de Janeiro, ở nguyên tắc đầu tiên cũng đƣa ra những quy định
thể hiện sự quan tâm và cần thiết đối với quyền về môi trƣờng. Nguyên tắc 1 có
nói: “Con người có quyền có cuộc sống lành mạnh trong sự hòa hợp với thiên
nhiên”. Không chỉ ở Hội nghị Rio năm 1992, quyền con ngƣời đƣợc sống trong
môi trƣờng lành mạnh và có sự hòa hợp với thiên nhiên còn đƣợc đề cập ở rất
nhiều các văn kiện khác nhau nhƣ: Công ƣớc khung về Biến đổi khí hậu, Công
ƣớc về Đa dạng sinh học…[42]

Bên cạnh đó, tại Hội nghị Rio năm 1992 còn nhấn mạnh sự tham gia của
đông đảo các thành phần từ phụ nữ, thanh niên cho đến các cộng đồng địa
phƣơng…Đây là một sự móc nối quan trọng, là yếu tố tiên quyết giúp cho quyền
về môi trƣờng đƣợc vững chắc và đạt đƣợc hiệu quả nhất định khi có sự ủng hộ,
tham gia thực hiện một cách hiệu quả nhất với đông đảo các giai cấp, tầng lớp.
Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết tạo nên sự phát triển bền vững mà chúng
ta đang hƣớng tới.
Vấn đề môi trƣờng trong thời gian này đã đƣợc quan tâm một cách đúng
mức nhất, các quốc gia đã có sự nhìn nhận sâu sắc và lƣờng trƣớc hậu quả khi bà
mẹ thiên nhiên nổi giận, một loạt các văn kiện quốc tế đƣợc ban hành nhƣ: Công

18


ƣớc về kiểm soát chất thải nguy hại xuyên biên giới, bảo vệ tầng ô zôn; Nghị
quyết về tiếp cận nƣớc sạch…
Quyền về môi trƣờng trong cộng đồng quốc tế đang ngày càng đƣợc ghi
nhận mạnh mẽ. Ở cấp độ khu vực, trong Hiến chƣơng của Châu Phi về quyền
con ngƣời; Nghị định thƣ bổ sung Công ƣớc nhân quyền liên Mỹ về các quyền
kinh tế, văn hóa và xã hội, Công ƣớc Châu Âu về tiếp cận thông tin, sự tham gia
và tiếp cận tƣ pháp trong các vấn đề môi trƣờng…Ở cấp độ quốc gia, đã có hơn
100 quốc gia ghi nhận quyền về môi trƣờng hoặc nghĩa vụ của các quốc gia
trong việc ngăn chặn sự tổn hại môi trƣờng.
Tiếp đó năm 2003, Hiến chƣơng Trái đất đã thông qua, bao gồm những
nguyên tắc về việc xây dựng một xã hội công bằng, bền vững và hòa bình. Trong
đó có rất nhiều các quyền liên quan đến vấn đề môi trƣờng nhƣ quyền tiếp cận
nƣớc, không khí, nơi ở và đất đai không bị ô nhiễm…
Đến năm 2010, Nghị quyết 64/292 – Nghị quyết về Quyền con ngƣời với
nƣớc sạch và vệ sinh môi trƣờng đã đƣợc thông qua, nhằm tái khẳng định tầm
quan trọng đối với vấn đề nƣớc sạch và vệ sinh môi trƣờng. Môt trong những

vấn đề đã đƣợc khẳng định ở rất nhiều các văn kiện trƣớc đó.
Trong những năm tiếp theo, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội thì
vấn đề môi trƣờng ngày càng đƣợc thế giới quan tâm. Một loạt các vấn đề phát
sinh từ môi trƣờng, những hậu quả song song với sự phát triển đòi hỏi chúng ta
làm thế nào để có sự phát triển bền vững, để những thế hệ tƣơng lai vẫn có thể
đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành? Đó là câu hỏi lớn đặt ra không chỉ với
cá nhân, một quốc gia mà là toàn xã hội, chúng ta cần chung tay bảo vệ môi
trƣờng nhằm đảm bảo quyền con ngƣời về môi trƣờng.

19


Tại Hội nghị Rio+20 vào năm 2012, Liên hợp Quốc vẫn kêu gọi cộng
đồng quốc tế có những hành động quyết liệt hơn nhằm bảo vệ môi trƣờng. Trong
những năm đầu thế kỉ XIX này, một loạt các vấn đề nhƣ khan hiếm nƣớc ngọt,
giá lƣơng thực tăng cao, sự khắc nghiệt của các thảm họa thiên nhiên ngày càng
gia tăng, kéo theo đó là chất lƣợng cuộc sống của con ngƣời cũng dần suy giảm
khi mà biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ô zôn… gây ra một loạt
các thiên tai dịch họa. Số ngƣời dƣới ngƣỡng nghèo trên thế giới có thể tăng lên
rất nhiều lần vào những năm tới nếu nhƣ chúng ta không tập trung giải quyết các
vấn đề về môi trƣờng – vấn đề có sự ảnh hƣởng nghiêm trọng và trực tiếp nhất
tới sự phát triển của con ngƣời.
Suốt những thập kỉ qua, quyền con ngƣời nói chung và quyền con ngƣời
về môi trƣờng nói riêng đã phát triển và ngày càng đƣợc thế giới khẳng định tầm
quan trọng của nó đối với đời sống xã hội cũng nhƣ sự phát triển bền vững.
Trong Báo cáo phát triển con ngƣời năm 2011 đã khẳng định một cách rõ ràng
“Một môi trường sạch và an toàn là quyền chứ không phải ân huệ”. Từ đó có thể
thấy trong thời kì phát triển ngày nay, chất lƣợng cuộc sống tốt là điều mà mỗi
cá nhân, mỗi quốc gia và toàn thế giới đang hƣớng tới. Con ngƣời trong xã hội
hiện đại không chỉ hƣớng tới ăn no, mặc ấm mà còn hƣớng tới một xã hội mà

chất lƣợng cuộc sống đƣợc nâng cao, cơ sở vật chất, chế độ giáo dục phát triển
và đặc biệt là môi trƣờng sống trong lành, đất, nƣớc, không khí và thực phẩm
sạch cũng là những vấn đề vô cùng cần thiết.
1.1.2.Sự phát triển khái niệm Quyền về Môi trƣờng
Quyền về môi trƣờng đƣợc xuất phát từ chính thực tại xã hội, khi mà vấn
đề môi trƣờng đang từng ngày từng giờ ảnh hƣởng tới đời sống và sự phát triển
của loài ngƣời.
20


×