ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TẠ QUỐC TUẤN
TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN
TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ s ở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TẠ QUỐC TUẤN
TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN
TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ s ở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn
HÀ NỘI - 2016
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Tạ Quốc Tuấn
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI LỢI
1
8
DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI
HÀNH CÔNG VỤ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1.
1.2.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.
1.4.4.
1.5.
1.5.1.
Quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ từ n ăm 1945 đến trước khi có Bộ luật hình sự
năm 1985
Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
trong Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung Bộ
luật hình sự năm 2009
Khái niệm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
công vụ
Khung hình phạt của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ
Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ
Khách thể
Mặt khách quan
Chủ thể
Mặt chủ quan
Các trường hợp phạm tội cụ thể
Phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công
vụ thuộc khoản 1 Điều 281
4
8
11
14
17
29
29
29
32
40
43
47
47
1.5.2. Phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
48
vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 281 Bộ
luật hình sự
1.5.3. Phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
61
vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 281 Bộ
luật hình sự
1.5.4. Hình phạt bổ sung của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
65
khi thi hành công vụ
Chương 2:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
69
HÌNH SỰ VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN
TRONG KHI THI HÀNH CÔNG Ụ
V TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
Tình hình tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
69
công vụ từ năm 2010 đến 2014
2.2.
Áp dụng hình phạt đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
71
trong khi thi hành công vụ
2.2.1. Áp dụng hình phạt chính
71
2.2.2. Áp dụng hình phạt bổ sung "cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định"
72
2.2.3. Việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1
74
Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 đối với tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ
2.3.
Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng tội lợi dụng chức
75
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Chương 3:
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
80
VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG
KHI THI HÀNH CÔNG VỤ TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
3.1.
Yêu cầu hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự việt nam
năm 1999 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ
5
80
3.2.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung
83
3.3.
Một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự việt nam năm 1999 về tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng Chương XXI
Bộ luật hình sự 1999
Tăng cường năng lực, trình đ ộ chuyên môn và ý thức pháp
luật, trách nhiệm của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân để đảm bảo việc giải quyết
vụ án được thực hiện đúng quy định của pháp luật
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và đẩy mạnh công
tác phê bình, tự phê bình
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát
Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức cán bộ
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật, đấu tranh kiên
quyết và tích cực đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Tập trung, giải quyết dứt điểm các vụ án đã được phát hiện và
quy định việc xử lý trách nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo,
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tội phạm
84
3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.
3.3.4.
3.3.5.
3.3.6.
3.3.7.
3.3.8.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
84
84
86
87
87
88
88
89
91
92
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội của đất nước tiếp tục được giữ vững, nền kinh tế tiếp tục phát triển đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức
tạp và chưa có chiều hướng giảm, các tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng còn xảy ra nhiều. Trong đó nổi lên là tội phạm
về tham nhũng đã gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, chính trị của đất nước,
làm giảm lòng tin trong nhân dân [25, tr. 4]. Tình hình tội phạm có nhiều diễn
biến phức tạp, xảy ra ở nhiều ngành, cấp, lĩnh vực khác nhau. Nhiều vụ án đặc
biệt nghiêm trọng xảy ra và nghiêm trọng hơn, loại tội này còn xảy ra ngay tại
các cơ quan, tổ chức của Nhà nước. Có thể nói tội phạm tham nhũng là vấn đề
được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ từ 20 - 25/01/1994 khóa VII
của Đảng chỉ rõ tệ quan liêu, tham nhũng là một trong bốn nguy cơ của cách
mạng nước ta. Đặt vấn đề như thế có nghĩa tội tham nhũng nói chung không
chỉ là một tệ nạn xã hội thông thường, chỉ tác hại thuần túy về mặt kinh tế mà
đã trở thành vấn đề chính trị pháp lý, là nguy cơ uy hiếp sự tồn vong của chế độ.
Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chỉ thị, nghị quyết, đã tiến hành
nhiều cuộc vận động lớn và được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ, tuy
nhiên đến nay loại tội phạm này không những không bị đẩy lùi, mà có lúc, có
nơi còn phát triển nghiêm trọng hơn.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục xác định tham nhũng là một trong các
nguy cơ lớn , đó là: Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm
trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong
nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ.
8
Đấu tranh chống tội phạm tham nhũng nói chung đã và đang là một
yêu cầu cấp bách nhằm làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước, nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, tăng cường nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân, tăng cường kỷ cương phép nước.
Trong nhóm tội phạm tham nhũng có thể thấy tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công ụv là loại tội trong những n ăm gần đây
đang có chiều hướng tăng lên cả về quy mô và tính chất, nổi lên nhiều trong
các lĩnh vực về quản lý đất đai thậm chí cả lĩnh vực y tế, giáo dục.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy do đặc điểm của nền kinh tế
thị trường, sự quản lý của Nhà nước và tác động nhiều mặt của tình hình kinh
tế xã hội nên tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ diễn
biến khá phức tạp. Nhiều vụ án đã được phát hiện, điều tra nhưng do tính chất
phức tạp của vụ án và đặc biệt còn thiếu những văn bản hướng dẫn, dẫn đến
có những quan điểm, nhận thức khác nhau về pháp luật giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng, nên nhiều vụ án để kéo dài hoặc có đường lối xử lý khác nhau,
dẫn đến tình trạng pháp luật không được áp dụng thống nhất.
Bộ luật hình sự (BLHS) đã được Quốc hội khóa X thông qua ạt i kỳ
họp thứ 6 ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7
năm 2000 trong đó quy ịđnh tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh được thực trạng công tác đấu
tranh phòng chống loại tội này trong thời gian qua, giúp cho việc điều tra, truy
tố, xét xử được thuận lợi hơn.
Trước khi có BLHS 1999 thì những quy định của BLHS 1985 đối với
tội này còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn; thực tiễn cho thấy nhiều trường
hợp phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn trong việc
áp dụng BLHS để truy cứu đối với người phạm tội. BLHS 1999 quy định
thêm nhiều điểm mới hơn, nếu không được hiểu thống nhất sẽ càng khó khăn
9
hơn trong việc áp dụng BLHS khi giải quyết các vụ án. Mặt khác, đến nay tội
lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại Chương
XXI chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích hoặc hướng dẫn một
cách toàn diện và đầy đủ, nên việc áp dụng qu y định của BLHS đối với tội
này còn hạn chế.
Nghị quyết 37/2012 ngày 23/11/2012 của Quốc hội nêu:
Công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm,
phòng, chống tham nhũng, công tác đi ều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án còn có những hạn chế. Tình hình vi phạm pháp luật và tội
phạm tham nhũng còn diễn biến phức tạp, trên một số lĩnh vực còn
có xu hướng tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô, tính chất. Công
tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm tham nhũng hiệu
quả chưa cao, hiệu lực răn đe, phòng ngừa thấp... [37, Điều 1].
Năng lực và trách nhiệm của một bộ phận cán bộ tư pháp còn y ếu,
nhiều trường hợp tiêu cực, sa sút phẩm chất đạo đức...
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhóm tội về tham nhũng trong
chương các tội về chức vụ. Trong đó tội "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công ụv " quy định tại Điều 281 là một trong những loại tội
thường gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết. Vì vậy việc
nghiên cứu về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
theo Luật hình sự Việt Nam là một yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách
tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
"Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020"; và Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
"Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung "sớm hoàn thiện hệ
10
thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật..." [12]. Do đó, việc nghiên
cứu đề tài này càng làm sáng tỏ về mặt khoa học, góp phần giải quyết một số
vướng mắc, khó khăn khi áp dụng loại tội này trong thực tế.
Đó là lý do để tôi lựa chọn đề tài "tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ theo Luật hình sự Việt Nam (trên c ơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ nằm ở
Mục A Chương XXI phần các tội phạm về tham nhũng. Qua tìm hiểu, nghiên
cứu cho thấy, ở nước ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác
giả về các tội phạm tham nhũng nói chung trong đó phần nào đã đề cập đến
tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công ụv như sách giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, sách Giáo trình của trường Đại học Luật Hà
Nội, Bình luận khoa học hình sự của tác giả Đinh Văn Quế; về các bài viết
trên tạp chí kiểm sát của Nguyễn Duy Giảng (2006); về luận văn tiến sĩ về các
tội phạm tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam của Trần Văn Đạt
(2012), Tình hình nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống các
tội phạm tham nhũng của Trần Công Phàn (2004)...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm tham nhũng nói chung, tuy
nhiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ, tiến sĩ thì chưa có công trình nghiên cứu cụ
thể nào về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
Các công trình nghiên cứu trước đây thường chỉ đi vào phân tích, bao
quát tổng thể toàn bộ nhóm tội về tham nhũng mà không đi sâu, phân tích cụ
thể tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công ụ,v các nhà
nghiên cứu thường tập trung nhiều vào các tội có tính nghiêm trọng hơn và
thường xuyên xảy ra hơn trong thực tế.
11
Có thể nói, đây là lần đầu tiên đề tài nghiên cứu về tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được nghiên cứu dưới góc độ lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật. Do chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể
nào về tội này nên chưa có sự nghiên cứu đầy đủ, toàn diện việc áp dụng pháp
luật của tội này trong thực tiễn, qua đó chưa đưa ra được những giải pháp để
áp dụng thống nhất pháp luật. Chính vì vậy trong thực tiễn áp dụng pháp luật
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì vậy việc nghiên cứu đề tài "Tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ the o Luật hình sự
Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" là
đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội
lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo Luật hình sự
Việt Nam, nêu ra một số lý luận và thực tiễn xét xử, từ đó luận văn đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện những vướng mắc khi áp dụng loại tội này
trong thực tế nhằm nâng cao chất lượng xét xử loại tội này, góp phần đấu
tranh có hiệu quả hơn trong việc phòng ngừa và chống tội phạm về tham
nhũng trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ làm rõ
một số vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử của tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ; qua đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện,
khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử loại tội này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử của tội
lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ dựa trên số liệu những
vụ án được đưa ra xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất những
12
giải pháp, hướng hoàn thiện cụ thể, có tính khả thi nhằm đảm bảo việc xét xử
đối với loại tội này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có tham khảo những công trình nghiên cứu của các giáo sư,
tiến sĩ, thạc sĩ, các bài viết trên tạp chí kiểm sát, báo khoa học pháp luật...
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
xét xử của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trong
05 năm (2010 - 2014) trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được
thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ
thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng
hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp
quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu
trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn đóng góp một số vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, quy định tại Điều 281
BLHS, qua đó đề ra hướng hoàn thiện, để áp dụng thống nhất pháp luật về
loại tội này.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, cá n bộ giảng dạy pháp luật,
13
các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành hình
sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ
cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ đang công tác
tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ
án được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quy định tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ trong Bộ luật hình sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1. QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG
KHI THI HÀNH CÔNG VỤ TỪ N ĂM 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1985
Trước khi BLHS đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
được ban hành thì tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
chưa được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật nào mà chỉ được
quy định rải rác trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Cũng
như khái niệm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công ụv
chưa được quy định.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, mặc dù còn bề
bộn nhiều công việc trọng đại của đất nước nhưng Nhà nước ta đã rất chú
trọng đến việc quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm góp phần giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngày 10 tháng 10 năm 1945 Chủ tịch nước
ban hành Sắc lệnh số 47 về việc "giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc,
Trung, Nam Bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn
quốc". Trong lĩnh vực hình sự, theo quy định của sắc lệnh này thì các đạo luật
của chính quyền cũ tạm thời được giữ lại và được phép thi hành nếu những
điều khoản trong các luật lệ cũ "không trái với nền độc lập của nước Việt
Nam và chính thể dân chủ cộng hòa " [6, Điều 12]. Theo đó trong ĩnh
l vực
hình sự có 3 đạo luật tạm thời được giữ lại và thi hành đó là: Bộ "Luật Hình
An Nam" ban hành năm 1921 được thi hành ở Bắc Bộ; Bộ "Hoàng Việt Hình
Luật" ban hành năm 1933 đư
ợc thi hành ở Trung Bộ; Bộ
chỉnh" ban hành năm 1912 được thi hành ở Nam Bộ.
15
"Hình pháp tu
Trong thời kỳ này, để đảm bảo uy tín của cán bộ, công chức Nhà nước
và cơ quan nhà nước, bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của
tập thể và công dân, bảo đảm cho các cơ quan nhà nước hoạt động đúng đắn
và chống tội phạm trong lĩnh vực này, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự về các tội phạm chức vụ. Ví dụ:
Sắc lệnh số 223-SL ngày 17 tháng 11 năm 1946 của Chủ tịch nước trong đó
quy định:
Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ,
hoặc phù lạm hoặc biển thủ công quỹ đều bị phạt khổ sai từ 05 năm
đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù lạm hay biển
thủ. Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công. Người phạm tội còn có
thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản… [7].
Trong sắc lệnh này cũng đã đưa ra khái niệm về người có chức vụ.
Điều 3 của sắc lệnh quy định: "Công chức gồm nhân viên trong Chính phủ,
trong các Ủy ban hành chính các cấp, các cơ quan do nhân dân bầu lên, trong
bộ đội và tất cả các người phụ trách một công vụ" [7, Điều 3]. Ngày 23 tháng 5
năm 1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối
lộ gồm 13 điều luật, trong đó quy định tương đối cụ thể về dấu hiệu đặc trưng
của các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ và lợi dụng ảnh hưởng đối
với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi, quy định về các trường hợp tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt, quy định về hình phạt, về
việc xử lý của hối lộ, xử lý hành vi trả thù người tố giác… Pháp lệnh trừng trị
tội hối lộ là công cụ pháp lý quan trọng góp phần đấu tranh có hiệu quả với
tội hối lộ trong thời gian đó.
Ngoài ra trong th ời gian này còn có Sắc lệnh số 200/SL ngày 08 tháng 7
năm 1948 của Chủ tịch nước coi công chức trong thời kỳ kháng chiến như bị
trưng tập (liên quan đến tội đào nhiệm); Sắc lệnh số 154-SL ngày 17 tháng 11
năm 1950 của Chủ tịch nước ấn định những hình phạt trừng trị việc để tiết lộ
16
bí mật (liên quan đến tội cố ý làm lộ bí mật công tác và tội vô ý làm lộ bí mật
công tác); Sắc lệnh số 267/SL ngày 15 tháng 6 năm 1956 của C hủ tịch nước
quy định trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước
và của nhân dân, cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của Nhà nước
(liên quan đến tội thiếu tinh thần trách nhiệm); Sắc luật số 03/SL/1976 được
Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời ban hành ngày 15 tháng 3 năm 1976
quy định tội phạm và hình phạt trong đó quy định tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn và quy định tội đưa và nhận hối lộ, tuy nhiên Sắc luật không mô tả
dấu hiệu pháp lý của tội phạm, không quy định tình tiết tăng nặng và không
quy định hình phạt bổ sung… Qua việc Nhà nước ban hành một số các sắc
lệnh như trên có thể thấy ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng,
Nhà nước ta đã thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với loại
tội này.
Tuy nhiên, trong tất cả các văn bản pháp luật chưa có văn bản nào quy
định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, mà hành
vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ chỉ được coi là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, ví dụ: tại khoản 4 Điều 19 của Pháp lệnh
trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30 tháng 10 năm 1967 quy định: "lợi
dụng chức quyền để hoạt động phản cách mạng là trường hợp cần xử phạt
nặng" '[54]; hay trong bản tổng kết ngày 10 tháng 8 năm 1970 của Tòa án
nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người cũng quy định: lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để giết người là tình tiết tăng nặng.
Tóm lại, pháp luật hình sự thời kỳ này về cơ bản đáp ứng yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ cách mạng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, đảm bảo hoạt động của các cơ quan nhà nước , tổ chức có hiệu quả.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên việc quy định về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ còn có nhiều hạn chế. Tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ không được quy định trong bất cứ
17
văn bản pháp luật nào; hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
công vụ chỉ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Các tội phạm
về chức vụ nói chung nếu có được quy định thì cũng nằm trong nhiều văn bản
pháp luật đơn hành khác nhau, các dấu hiệu pháp lí, các tình tiết tăng nặng
giảm nhẹ chưa được quy định cụ thể, chưa quy định về khái niệm "tội phạm
chức vụ", còn khái niệm người có chức vụ mặc dù đã được quy định cho một
số tội phạm cụ thể như nhận hối lộ, biển thủ công quỹ… nhưng nhìn chung
chưa cụ thể.
1.2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1985 VỀ TỘI LỢI DỤNG
CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 27 tháng 6 năm 1985, BLHS đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua, đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng về sự phát triển của pháp luật hình sự nước nhà và là cơ sở pháp lý để
thực hiện việc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. BLHS năm 1985
ra đời trên cơ sở tổng kết, kế thừa kinh nghiệm lập pháp hình sự và kinh
nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm trước đây và dự
kiến tình hình diễn biến của tội phạm trong thời gian tới. Đây là văn bản quy
phạm pháp luật đầu tiên mà trong đó các tội phạm về chức vụ được phân loại
thành một nhóm tội phạm và được quy định thành một chương riêng Chương IX và khái niệm "tội phạm chức vụ" cũng đã được chính thức ghi
nhận, đồng thời đây cũng là lần đầu tiên tội lợi dụng chức vụ quyền hạn được
quy định là một tội danh, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công cuộc đấu
tranh chống loại tội phạm này.
Theo quy định của Điều 219 của BLHS 1985 thì "các tội phạm về
chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức xã hội do người có chức vụ thực hiện trong khi thi hành
nhiệm vụ" [29], đồng thời luật cũng xác định "người có chức vụ là người do
bổ nhiệm, do dân cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
18
lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định
và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ" [29, Điều 219].
Trong BLHS 1985, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
công vụ được quy định tại Điều 221 thuộc phần các tội phạm về chức vụ (bộ
luật này chưa có sự phân biệt tội phạm nào là tội phạm về tham nhũng, tội
phạm nào là tội phạm về chức vụ khác).
Điều 221 quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền
trong khi thi hành công vụ như sau:
Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng
chức vụ, quyền hạn hoặc vượt quá quyền hạn làm trái công vụ gây
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội hoặc lợi ích
hợp pháp của công dân, nếu không thuộc trường hợp quy định tại
các Điều 156, 238 và 239, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm [29].
Theo đó, hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn và hành vi lạm quyền
trong khi thi hành công ụv đều được quy định chung trong một điều luật Điều 221, tuy nhiên do chưa có nhiều thực tiễn xét xử đối với tội phạm này,
nên lúc đầu Điều 221 chỉ quy định một khung hình phạt, không quy định các
tình tiết là yếu tố định khung hình phạt.
Trong quá trình thực hiện BLHS 1985 cũng là những năm thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước với nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng XHCN đã nảy si nh nhiều vấn đề phức tạp trong xã hội. Tệ tham
nhũng, lãng phí là vấn đề được cả xã hội quan tâm, lên án. Do yêu cầu của
thực tiến đấu tranh chống tội phạm nên từ năm 1989 đến năm 1997, Quốc hội
đã bốn lần sửa đổi, bổ sung BLHS vào các ngày: 28/2/1989; ngày 12/8/1991,
ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997, trong đó quy định tại Điều 221 được sửa
đổi bổ sung ba lần vào các ngày: 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997
theo hướng tách hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ ra thành điều
19
luật riêng - Điều 221a; khi này Điều 221 được quy định như sau: "Người nào
vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái
công vụ gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, của xã hội, quyền hoặc lợi ích hợp
pháp của công dân, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm… " [30].
Như vậy, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
được cấu tạo lại thành nhiều khoản khác nhau, mức hình phạt cũng nghiêm
khắc hơn nhiều so với Điều 221 chưa sửa đổi bổ sung: Điều 221 ban đầu quy
định mức hình phạt cao nhất là 05 năm tù, sau khi được sửa đổi bổ sung lần
thứ 3 vào ngày 10/5/1997 thì mức cao nhất đối với tội phạm này lên tới 20
năm tù. Việc tăng mức hình phạt từ 05 năm tới 20 năm tù thể hiện chính sách
hình sự nghiêm khắc của Đảng và Nhà nước ta đối với loại tội phạm này, góp
phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, đồng thời giáo dục đạo đức cách mạng
cho đội ngũ công chức, qua đó góp phần tạo niềm tin trong nhân dân với sự
nghiệp lãnh đạo của Đảng.
Ngoài ra, trong giai đoạn này các cơ quan bảo vệ pháp l uật ở Trung
ương đã có một số văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong cả
nước, trong đó có Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/3/1993 của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an), Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của BLHS năm 1985. Cụ thể trong mục b phần 2 về đường lối xử
lý thì các ột i có tính chất tham nhũng cần phải bị xử lý nghiêm khắc, một
trong số các tội được Thông tư này liệt kê có "Tội lợi dụng chức vụ quyền
hạn hoặc lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 221)" [48].
Tóm lại, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là
tội phạm chỉ được quy định từ khi BLHS năm 1985 được ban hành. Việc quy
định tội này tại một điều luật cụ thể trong bộ luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho công cuộc đấu tranh chống loại tội phạm này. Ban đầu, nhà làm luật quy
định hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn và hành vi lạm quyền trong khi thi
20
hành công vụ chung trong một điều luật và chỉ quy định một khung hình phạt,
không quy định các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Nhưng sau ba lần
BLHS được sửa đổi, bổ sung thì hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ
đã được tách ra thành điều luật riêng, Điều 221 quy định về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn cũng được chia thành nhiều khoản khác nhau, mức hình phạt cũng
nghiêm kh ắc hơn so với Điều 221 chưa sửa đổi bổ sung: mức chênh lệch lên tới
20 năm tù. Điều này phần nào thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc, không
khoan nhượng của Đảng và Nhà nước ta trước việc đấu tranh phòng và chống
tội phạm lợi dụng chức vụ quyền hạn, đồng thời củng cố lòng tin của nhân dân
đối với chế độ ta và từng bước làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.
1.3. TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH
CÔNG VỤ TRO NG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ LU
ẬT SỬA
ĐỔI, BỔ
SUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2009
Kế thừa kinh nghiệm lập pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm kể từ
khi có BLHS năm 1985 và trư
ớc đó, cũng như dự kiến tình hình tội phạm
trong thời gian tiếp theo, ngày 21 tháng 12 năm 1999, Quốc hội nước ta đã
thông qua BLHS mới, trong đó tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành công vụ được quy định tại Điều 281 thuộc mục A - các tội phạm về
tham nhũng, thuộc chương XXI - các tội phạm về chức vụ.
Cũng như BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của BLHS năm 2009 đều xếp tội lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi thi hành công vụ vào nhóm tội phạm về chức vụ, tuy nhiên trong
phần tội phạm về chức vụ của BLHS năm 1985 chưa có sự phân nhóm thành
các tội phạm về tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ như ở BLHS
năm 1999. Sự phân hóa thành các tội phạm về tham nhũng và các tội phạm
khác về chức vụ trong BLHS năm 1999 xuất phát từ yêu cầu của thực tế đấu
tranh phòng, chống nhóm tội phạm này và sự thống nhất với Pháp lệnh chống
tham nhũng đã được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 2 năm 1998.
21
Trong Pháp lệnh chống tham nhũng đã liệt kê 11 hành vi tham nhũng
được xây dựng trên cơ sở Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS ngày
10/5/1997 về các tội tham nhũng, ma túy và các tội phạm tình dục đối với trẻ
em, trong đó có hành vi "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi ". Tuy nhiên trong quá trình soạn thảo BLHS năm
1999 ban soạn thảo đã xem xét lại 07 hành vi đích thực là tham nhũng thì
được quy định trong mục A chương XXI, còn lại thì chuyển sang chương
khác cho phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội, một trong 07 hành vi đó
có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
Để phù hợp với quy định tại BLHS năm 1999, ngày 28/4/2000, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của
pháp lệnh chống tham nhũng, trong đó chỉ còn quy định 07 hành vi được coi
là tham nhũng. Một trong 07 hành vi đó là lợi dụng chức vụ quyền hạn trong
khi thi hành công vụ vì vụ lợi. Trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLHS năm 2009, tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
được giữ nguyên như quy định tại BLHS năm 1999.
Do yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, ngày 29 thán g 11
năm 2005, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng và
sau đó là Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng
ngày 23/11/2012. Tại Điều 3 của Luật này đã liệt kê 12 nhóm hành vi tham
nhũng, gồm:
- Tham ô tài sản;
- Nhận hối lộ;
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ
vì vụ lợi;
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi;
22
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước
vì vụ lợi;
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi
phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi [32].
Trải qua 20 năm kể từ khi BLHS năm 1985 - BLHS đầu tiên của Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra đời, qua bốn lần sửa đổi bổ sung BLHS
năm 1985 tới khi có BLHS năm 1999 rồi khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của BLHS năm 2009, hay trong pháp lệnh chống tham nhũng ngày
26/2/1998, Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh chống tham
nhũng ngày 28/4/2000, trong Luật phòng, chống tham nhũng ngày 29 tháng
11 năm 2005 và sau đó là Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống tham nhũng ngày 23/11/2012… đều quy định về hành vi lợi dụng chức
vụ quyền hạn và thống nhất xếp hành vi này thuộc nhóm hành vi có tính chất
tham nhũng. Điều này thể hiện sự đồng bộ trong pháp l uật, cũng như việc
nhận thức hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn là hành vi nguy hiểm cho xã
hội cao độ làm suy yếu chế độ XHCN, trực tiếp làm giảm lòng tin trong nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLHS năm 2009 đã quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thành
công vụ đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh được thực tế công tác đấu tranh
phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian qua, giúp cho công tác điều tra,
truy tố, đặc biệt là công tác xét xử loại tội phạm này thuận lợi hơn trước đây.
23
1.3.1. Khái niệm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ
Bộ luật hình sự 1999 quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ như sau:
1. Người nào vì v ụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi
dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì
bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm
đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ năm năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định
từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến
ba mươi triệu đồng [31, Điều 281].
Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ có ba dấu
hiệu đặc trưng bắt buộc: 1. Lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái với công vụ;
2. Gây thiệt hại cho lợi ích của các cơ quan nhà nước , các tổ chức xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; 3. Mối quan hệ nhân quả giữa việc
lợi dụng chức vụ, quyền hạn và thiệt hại do hành vi đó gây ra..
Theo đó lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là
trường hợp người có chức vụ, quyền hạn trong khi thực thi quyền hạn của
mình đã lợi dụng quyền hạn để làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Quyền hạn mà
24
người có chức vụ lợi dụng là những quyền năng gắn với mỗi chức danh trong
phạm vi chức danh đó. Nếu người đó lại làm một việc vượt quá thẩm quyền
của mình (tức là lạm quyền) thì phải xử lý theo Điều 282 BLHS.
Trong BLHS năm 1999 và Lu
ật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLHS năm 2009, Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
là một trong số 14 tội danh được quy định trong chương XXI - các tội phạm
về chức vụ và là một trong số 07 tội danh được quy định tại mục A - các tội
phạm về tham nhũng. Ngoài các đặc điểm chung của nhóm các tội phạm về
chức vụ, nhóm các tội phạm về tham nhũng thì tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ còn có những đặc điểm riêng mà qua việc hiểu
đúng khái niệm của tội này chúng ta có thể phần nào phân biệt tội này với các
tội phạm khác.
"Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành
vi lợi dụng, chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, do vụ lợi hoặc động
cơ cá nhân khác" [53, tr. 377]. Còn hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ được hiểu là vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, người
có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng quyền hạn của mình để làm trái với chức
năng, nhiệm vụ công tác được giao.
Tại Điều 277 BLHS quy định:
Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện
trong khi thực hiện công vụ.
Người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu
cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc
không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và
có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ [31].
Có thể thấy trước khi giải thích về người có chức vụ thì Điều 277 có
giải thích "Người có chức vụ nói trên đây" tức là "người đã có hành vi xâm
25