Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đề cương ôn tập và thi cuối kì môn WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.08 KB, 26 trang )

TÀI LIỆU ÔN TẬP WTO
I, HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1, Bán phá giá là gì?
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng
hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của
hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Cụ thể, nếu một sản phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X nhưng lại
được xuất khẩu sang nước B với giá Y (Ytừ nước A sang nước B.
Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Và các “vụ
kiện chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết quả của các
vụ kiện) là một hình thức để hạn chế hành vi này.
2, “Vụ kiện” chống bán phá giá là gì?
Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện pháp chống
bán phá giá (nếu có) mà nước nhập khẩu tiến hành đối với một loại hàng hoá nhập khẩu
từ một nước nhất định khi có những nghi ngờ rằng loại hàng hoá đó bị bán phá giá vào
nước nhập khẩu gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước
nhập khẩu
Mặc dù thường được gọi là “vụ kiện” (theo cách gọi ở Việt Nam), đây không phải thủ
tục tố tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành chính và do cơ quan hành chính nước
nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này nhằm giải quyết một tranh chấp thương mại giữa một
bên là ngành sản xuất nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài; nó
không liên quan đến quan hệ cấp chính phủ giữa hai nước xuất khẩu và nhập khẩu.
Vì trình tự, thủ tục và các vấn đề liên quan được thực hiện gần giống như trình tự tố tụng
xử lý một vụ kiện tại toà nên thủ tục này còn được xem là “thủ tục bán tư pháp”. Ngoài
ra, khi kết thúc vụ kiện, nếu không đồng ý với quyết định cuối cùng của cơ quan hành
chính, các bên có thể kiện ra Toà án (lúc này, vụ việc xử lý tại toà án thực sự là một thủ
tục tố tụng tư pháp).
3, Những yếu tố cơ bản của một “vụ kiện chống bán phá giá”
Đối tượng của vụ kiện là một loại hàng hoá nhất định nhập khẩu từ một hoặc một số nước


xuất khẩu;
“Nguyên đơn” của vụ kiện là ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu sản xuất ra sản
phẩm tương tự với sản phẩm bị cho là bán phá giá gây thiệt hại;


“Bị đơn” của vụ kiện là tất cả các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất và xuất khẩu loại
hàng hoá/sản phẩm là đối tượng của đơn kiện;
Cơ quan xử lý vụ kiện là một hoặc một số cơ quan hành chính được nước nhập khẩu trao
quyền điều tra chống bán phá giá và quyết định việc áp dụng biện pháp chống bán phá
giá.
4, Thuế chống bán phá giá là gì?
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng phổ biến nhất,
được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập
khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó.
Về bản chất, đây là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào
sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp dụng biện pháp chống
bán phá giá.
5, Vấn đề chống bán phá giá được quy định ở đâu?
Trong WTO, các nguyên tắc về chống bán phá giá được quy định tại:
Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại (GATT) (bao gồm các nguyên tắc
chung về vấn đề này);
Hiệp định về chống bán phá giá (Agreement on Antidumping Practices - ADA) chi tiết
hoá Điều VI GATT (các quy tắc, điều kiện, trình tự thủ tục kiện - điều tra và áp dụng
biện pháp chống bán phá giá cụ thể)
Mỗi nước lại có quy định riêng về vấn đề chống bán phá giá (xây dựng trên cơ sở các
nguyên tắc chung liên quan của WTO). Các vụ kiện chống bán phá giá và việc áp thuế
chống bán phá giá thực tế ở các nước tuân thủ các quy định nội địa này.
6, Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá là gì?
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài bán phá giá là nước nhập khẩu có thể
áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá đó.

Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ có thể
thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra
chống bán phá giá , ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:



Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%);
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc
bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản
xuất trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);




Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói
trên;

Biên độ phá giá được tính như thế nào?
Biên độ phá giá được tính toán theo công thức:
Biên độ phá giá = (Giá Thông thường – Giá Xuất khẩu)/Giá Xuất khẩu
Trong đó:
- Giá Thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất khẩu (hoặc
giá bán của sản phẩm tương tự từ nước xuất khẩu sang một nước thứ ba; hoặc giá xây
dựng từ tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí quản lý, bán hàng và khoản lợi nhuận
hợp lý – WTO có quy định cụ thể các điều kiện để áp dụng từng phương pháp này);
- Giá Xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu
(hoặc giá bán cho người mua độc lập đầu tiên).
7, Sản phẩm tương tự
Sản phẩm tương tự với sản phẩm bị điều tra là:




Sản phẩm giống hệt (có tất cả các đặc tính giống sản phẩm đang bị điều tra);
Sản phẩm gần giống (có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm đang bị điều
tra), trong trường hợp không có sản phẩm giống hệt.

8, Yếu tố “thiệt hại” được xác định như thế nào?
Việc xác định “thiệt hại” là một bước không thể thiếu trong một vụ điều tra chống bán
phá giá và chỉ khi kết luận điều tra khẳng định có thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất
nội địa nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu mới có thể xem xét việc áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá.




Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới 02 dạng: thiệt hại thực tế, hoặc
nguy cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);
Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức đáng kể;
Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân tíchtất cả
các yếu tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa (ví dụ tỷ lệ
và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu, thay đổi về
doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)

9, Ai được quyền kiện chống bán phá giá?
Một vụ kiện chống bán phá giá chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu bởi các
chủ thể có quyền khởi kiện là:






Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu (hoặc đại diện của
ngành); hoặc
Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ;

Hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế đều được khởi xướng từ đơn kiện của
ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu.
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:




Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất
50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến ủng
hộ hoặc phản đối đơn kiện; và
Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít
nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong
nước.

10, Trình tự một vụ kiện chống bán phá giá?
Một vụ kiện chống bán phá giá thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác minh các yêu
cầu trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
đối với hàng hoá bị kiện hay không.
Có thể tóm tắt các bước cơ bản của “vụ kiện chống bán phá giá” như sau:













Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng
cứ ban đầu);
Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ chối
đơn kiện, không điều tra);
Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá và về thiệt hại (qua bảng câu hỏi gửi
cho các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên tự cung
cấp);
Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dụng biện pháp tạm thời
như buộc đặt cọc, ký quỹ...);
Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc bán phá giá và về thiệt hại (có thể bao gồm điều
tra thực địa tại nước xuất khẩu);
Bước 6 : Kết luận cuối cùng;
Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá (nếu kết luận cuối cùng
khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại) ;
Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống bán phá giá (hàng năm cơ quan điều tra có
thể sẽ điều tra lại biên phá giá thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức
thuế)
Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế chống bán
phá giá hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm
dứt việc áp thuế hay tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).

11, Mức thuế chống bán phá giá được tính toán như thế nào?



Về cách thức áp dụng:





Về nguyên tắc, mức thuế chống bán phá giá được tính riêng cho từng nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên phá giá của họ;
Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được lựa chọn để tham
gia cuộc điều tra nhưng hợp tác với cơ quan điều tra thì mức thuế chống bán phá
giá áp dụng cho họ không cao hơn biên phá giá trung bình của tất cả các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra;
Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu không hợp tác, gian lận trong quá trình
điều tra thì sẽ phải chịu mức thuế cao mang tính trừng phạt.

Về thời điểm tính mức thuế chính thức :
Có hai cách xác định mức thuế chống bán phá giá:




Cách tính thuế cho khoảng thời gian sắp tới (EU theo cách này): Mức thuế
chính thức sẽ được xác định ngay trong Quyết định áp thuế ban hành khi kết thúc
điều tra và có hiệu lực cho hàng hoá liên quan nhập khẩu trong khoảng thời gian
sau đó;
Cách tính thuế cho khoảng thời gian đã qua (Hoa Kỳ theo cách này): Mức thuế
nêu tại Quyết định áp thuế ban hành sau khi điều tra chỉ là tạm thời; hết mỗi năm
kể từ ngày có Quyết định này, cơ quan điều tra sẽ xác định biên phá giá thực tế
của các nhà xuất khẩu trong năm đó và quyết định mức thuế chính thức cho họ
(nếu mức này cao hơn mức thuế tạm tính thì doanh nghiệp phải nộp bổ sung; nếu

thấp hơn sẽ được hoàn trả).

Theo quy định của WTO, dù theo cách tính nào thì cứ tròn 01 năm kể từ ngày có Quyết
định áp thuế, các bên liên quan trong vụ kiện đều có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền rà soát lại để giảm, tăng mức thuế hoặc chấm dứt việc áp thuế.
12, Thuế chống bán phá giá được áp dụng như thế nào?
- Về thời hạn áp thuế: Theo quy định của WTO, việc áp thuế chống bán phá giá không
được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà
soát lại;
- Về hiệu lực của việc áp thuế:
+ Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với tất cả hàng hoá liên quan nhập khẩu từ nước
bị kiện sau thời điểm ban hành Quyết định
+ Quyết định áp thuế có hiệu lực với cả các nhà xuất khẩu mới, người chưa hề xuất khẩu
hàng hoá đó sang nước áp thuế trong thời gian trước đó; nhà xuất khẩu mới có thể yêu
cầu cơ quan điều tra tính mức thuế riêng cho mình, nhưng trong thời gian chưa có quyết
định về mức thuế riêng thì hàng hoá nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới vẫn thực hiện
Quyết định áp thuế nói trên;


+ Việc áp dụng hồi tố (áp dụng cho những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm ban hành
Quyết định) chỉ được thực hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là thiệt hại
thực tế
13, Phương pháp quy về 0 zeroing của Mỹ là gì
(1) Zeroing chuyển theo nghĩa tiếng Việt có nghĩa là "Quy về không", trong quá trình
tính biên độ phá giá, phương pháp tính toán Zeroing cho phép quy về 0 tất các các giao
dịch có biên độ phá giá âm.
Ví dụ, nếu một nhà xuất khẩu sản phẩm cá tra bị điều tra thực hiện 8 giao dịch xuất khẩu,
trong đó có 3 giao dịch xuất khẩu có biên độ phá giá là 20%, 1 giao dịch có biên độ phá
giá bằng 0 và 4 giao dịch có biên độ phá giá -25% thì nếu không sử dụng phương pháp
zeroing, bình quân biên độ phá giá của nhà xuất khẩu này sẽ là:

(20% + 20% + 20%+ 0% - 25% - 25%- 25%- 25%): 8 = -5% (do kết quả âm nên cá tra
không bị áp thuế).
Tuy nhiên, nếu sử dụng zeroing thì biên độ phá giá trung bình sẽ là:
(20% + 20% + 20% +0% + 0% + 0% + 0% + 0%): 8 =7,5% (do kết quả dương nên cá tra
bị áp thuế 7,5%)
(2) Đây là phương pháp thiên vị cho nước nhập khẩu đặc biệt đối với các nước phát
triển, nó được áp dụng trước khi Đạo luật chống bán phá giá năm 1995 được ban hành,
nhưng đến nay đã được tổ chức thương mại thế giới (trong đó có Mỹ và Việt Nam tham
gia) bác bỏ hoàn toàn, Mỹ là nước cuối cùng vẫn áp dụng phương pháp này, tuy nhiên:
"Tháng 5/2006, Cơ quan Giải quyết Bất đồng (DSB) của WTO đã có kết luận: Phương
pháp Zeroing của Mỹ trái với các nguyên tắc của WTO, theo đó Mỹ đã phải loại bỏ
phương pháp tính toán có phần thiên vị này"
Đến nay phương pháp zeroing không được công nhận nữa.
II, TRỢ CẤP VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG
Hiệp định này quy định 3 loại trợ cấp.


Thứ nhất là trợ cấp bị cấm gồm những khoản trợ cấp sau: khối lượng trợ cấp, theo
luật hoặc trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện
khác, căn cứ vào kết quả xuất khẩu; khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt
hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại.
Trợ cấp bị cấm là đối tượng của những vụ kiện giải quyết tranh chấp. Điểm nổi bật là
lịch trình giải quyết của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) nhanh gọn, và nếu cơ
quan này nhận thấy rằng khoản trợ cấp này là trợ cấp bị cấm, ngay lập tức phải thu
hồi lệnh trợ cấp. Nếu phán quyết không được thực hiện trong thời gian quy định,







thành viên khiếu nại được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa. (Xem quy định cụ thể
tại phần “Giải quyết tranh chấp”).
Thứ hai là Trợ cấp có thể đối kháng. Hiệp định quy định rằng không một Thành viên
nào thông qua việc sử dụng trợ cấp gây ra tác động có hại đến quyền lợi của Thành
viên khác, như gây tổn hại cho một ngành sản xuất nội địa của một Thành viên khác,
làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp
hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994 (đặc biệt là những quyền lợi có
được từ những ưu đãi thuế quan có ràng buộc), và gây tổn hại nghiêm trọng đối với
lợi ích của Thành viên khác. “Thiệt hại nghiêm trọng” sẽ được xem là tồn tại trong
trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá cho một sản phẩm vượt quá 5%. Trong
trường hợp này, bên trợ cấp có nghĩa vụ chứng minh rằng những khoản trợ cấp đó
không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với bên khiếu nại. Những thành viên
bị ảnh hưởng tiêu cực bởi trợ cấp có thể đối kháng có thể đưa tranh chấp này lên cơ
quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra
phán quyết có tồn tại tác động tiêu cực, bên trợ cấp phải thu hồi lại khoản trợ cấp
hoặc xóa bỏ những tác động tiêu cực này.
Loại thứ 3 là trợ cấp không thể đối kháng, có thể là trợ cấp không mang tính chất
riêng biệt hoặc mang tính chất riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên
cứu công nghiệp và hoạt động phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ cho các vùng miền
khó khăn, hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù
hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt ra. Nếu một
thành viên cho rằng trợ cấp không thể đối kháng khác sẽ dẫn đến những tác động tiêu
cực nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nội địa, thành viên đó có thể yêu cầu đưa ra
phán quyết và khuyến cáo về vấn đề này.

Một phần của hiệp định này liên quan đến việc áp dụng những biện pháp đối kháng đối
với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Hiệp định đưa ra những quy chế về việc khởi tố các vụ
đối kháng, về việc điều tra bởi các cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia và những quy
định về chứng cứ để đảm bảo rằng tất cả những bên có quyền lợi có thể đưa ra thông tin

và quan điểm của mình. Những quy định cụ thể về việc tính toán tổng số trợ cấp là cơ sở
để xác định thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa. Hiệp định quy định rằng tất cả
các yếu tố kinh tế có liên quan sẽ phải được xem xét trong quá trình đánh giá tình trạng
của ngành công nghiệp và mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và
những thiệt hại suy đoán. Việc điều tra đối kháng phải dừng ngay khi mức trợ cấp nằm
dưới mức tối thiểu (nhỏ hơn 1% theo trị giá) hoặc khi khối lượng hàng nhập khẩu được
trợ cấp trên thực tế hoặc ước tính hoặc thiệt hại là không đáng kể. Trừ trường hợp đặc
biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi trường hợp
không quá 18 tháng, kể từ ngày khởi xướng. Thuế đối kháng phải chấm dứt trong vòng 5
năm áp dụng trừ khi các cơ quan có thẩm quyền thông qua rà soát xét thấy việc ngừng áp
thuế sẽ dẫn đến sự tiếp tục hay tái diễn trợ cấp và thiệt hại.
Hiệp định này cũng công nhận rằng trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong các
chương trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, và trong sự chuyển dịch từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Những nước kém phát
triển và những nước đang phát triển có Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu


người ít hơn 1000 USD sẽ được miễn khỏi những quy tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm và
hưởng miễn trừ đối với trợ cấp bị cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Đối vớ các
nước đang phát triển khác, việc cấm trợ cấp xuất khẩu sẽ có hiều lực trong 8 năm kể từ
ngày hiệp định WTO có hiệu lực và những nước này được hưởng sự miễn trừ đối với trợ
cấp bị cấm trong một khoảng thời gian nhất định ( khoảng thời gian này sẽ ngắn hơn thời
gian của các nước kém phát triển hơn). Việc điều tra đối kháng đối với một sản phẩm
xuất xứ từ một nước thành viên đang phát triển sẽ chấm dứt nếu tổng lượng trợ cấp
không vượt quá 2% (và xuất xứ từ một số nước đang phát triển là 3%) tính trên trị giá sản
phẩm, hoặc nếu khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chiếm ít hơn 4% tổng lượng sản
phẩm tương tự nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu. Đối với những nước đang trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trợ cấp
bị cấm sẽ không bị tính trong vòng 7 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực.
Theo hiệp định về trợ cấp này, trong quá trình đàm phán các quy tắc đặc biệt đối với

ngành hàng không dân dụng, các sản phẩm hàng không dân dụng không tuân theo giả
định rằng việc trợ cấp theo giá trị vượt quá 5% gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của
các nước thành viên. Ngoài ra, hiệp định cũng quy định rằng việc hoàn trả tài chính trong
lĩnh vực hàng không dân sự phụ thuộc vào mức độ doanh số sản phẩm bán ra và doanh
thu dưới mức mong đợi, bản thân điều này không suy đoán gây thiệt hại nghiêm trọng.

Kiện chống trợ cấp quy định ở đâu?
Các vấn đề về trình tự, thủ tục kiện chống trợ cấp và các điều kiện áp dụng biện pháp đối
kháng được quy định tại:


Hiệp định SCM: Bao gồm các nguyên tắc chung có liên quan đến trợ cấp và biện
pháp đối kháng (mà tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ);



Pháp luật nội địa nước nhập khẩu: Bao gồm các quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục kiện và điều kiện áp dụng biện pháp đối kháng.

Để có các kiến thức chung về kiện chống trợ cấp, doanh nghiệp có thể tìm thông tin tại
Hiệp định SCM. Tuy nhiên, để phục vụ các vụ kiện cụ thể tại mỗi nước, doanh nghiệp
cần tiếp cận pháp luật về chống trợ cấp của nước đó.
Một vụ kiện chống trợ cấp thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác minh các yêu
cầu trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp chống trợ cấp
đối với hàng hoá bị kiện hay không.
Có thể tóm tắt các bước cơ bản của “vụ kiện chống trợ cấp” như sau:
Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng cứ
ban đầu);



Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ chối đơn
kiện, không điều tra);
Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc trợ cấp và về thiệt hại (qua bảng câu hỏi gửi cho các
bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên tự cung cấp);
Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dung biện pháp tạm thời như
buộc đặt cọc, ký quỹ...);
Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc trợ cấp và thiệt hại (có thể bao gồm điều tra thực địa
tại nước xuất khẩu);
Bước 6 : Kết luận cuối cùng;
Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống trợ cấp (nếu kết luận cuối cùng khẳng
định có việc trợ cấp gây thiệt hại);
Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống trợ cấp (hàng năm cơ quan điều tra có thể sẽ điều
tra lại biên độ trợ cấp thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức thuế);
Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế đối kháng hoặc rà
soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm dứt việc áp thuế hay
tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).
Mức thuế đối kháng được xác định như thế nào cho từng nhà xuất khẩu?
Về nguyên tắc, mức thuế đối kháng được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu
nước ngoài và không cao hơn biên độ trợ cấp xác định cho họ;
Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được lựa chọn để tham gia
cuộc điều tra nhưng vẫn hợp tác với cơ quan điều tra thì mức thuế đối kháng áp dụng cho
họ không cao hơn biên độ trợ cấp trung bình của tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu nước
ngoài được lựa chọn điều tra;
Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu không hợp tác, gian lận trong quá trình điều tra
thì sẽ phải chịu mức thuế cao mang tính trừng phạt.
Thuế đối kháng được áp dụng như thế nào?
- Về việc rà soát lại mức thuế: Sau khi áp thuế một thời gian (thường là theo từng năm)
cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra lại để xem xét tăng, giảm mức thuế hoặc chấm dứt
việc áp thuế đối kháng nếu có yêu cầu;
- Về thời hạn áp thuế: Việc áp thuế đối kháng không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày

có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại trừ khi cơ quan có thẩm quyền
thấy rằng việc chấm dứt áp thuế sẽ dẫn tới việc tái trợ cấp hoặc gây thiệt hại;


- Về hiệu lực của việc áp thuế: Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với hàng hoá liên
quan nhập khẩu sau thời điểm ban hành Quyết định; việc áp dụng hồi tố (áp dụng cho
những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm ban hành Quyết định) chỉ được thực hiện nếu
thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là thiệt hại thực tế.
III, HIỆP ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TỰ VỆ
1, Biện pháp tự vệ là gì?
Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng
hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm
trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu
tư hay sở hữu trí tuệ.
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng
khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về điều kiện, thủ tục,
cách thức áp dụng biện pháp tự vệ).
Doanh nghiệp cần chú ý đến công cụ này để có thể yêu cầu Chính phủ sử dụng nhằm bảo
vệ lợi ích của mình trước hàng hoá nhập khẩu nước ngoài khi cần thiết.
2, Tại sao biện pháp tự vệ được hợp pháp hoá trong WTO?
Được sử dụng để “đối phó” với hành vi thương mại hoàn toàn bình thường (không có
hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh) nên về hình thức, việc áp
dụng biện pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại chính sách tự do hoá thương mại của WTO.
Tuy vậy, đây là biện pháp được thừa nhận trong khuôn khổ WTO (với các điều kiện chặt
chẽ để tránh lạm dụng). Lý do là trong hoàn cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do
hoá thương mại theo các cam kết WTO, các biện pháp tự vệ là một hình thức “van an
toàn” mà hầu hết các nước nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn. Với chiếc van
này, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất
nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn.

3. WTO quy định về biện pháp tự vệ ở đâu?
Các nguyên tắc về việc sử dụng biện pháp tự vệ trong WTO được quy định tại:



Điều XIX GATT 1994; và
Hiệp định về biện pháp tự vệ (Hiệp định SG).

Các nước thành viên khi xây dựng pháp luật nội địa về biện pháp tự vệ có nghĩa vụ tuân
thủ các nguyên tắc này của WTO.
Các vụ kiện, việc điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ trên thực tế được tiến hành theo
pháp luật nội địa của từng nước nhập khẩu, phù hợp với quy định liên quan của WTO.
4. Điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ là gì?
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và
chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:






Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị
thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và
Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại
hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.

Điều kiện chung: Việc tăng đột biến lượng nhập khẩu gây thiệt hại nói trên phải là hiện
tượng mà nước nhập khẩu không thể lường trước được khi đưa ra cam kết trong khuôn
khổ WTO.

Song song với các điều kiện chung này, một số nước khi gia nhập WTO phải đưa ra
những cam kết riêng liên quan đến biện pháp tự vệ. Trường hợp của Việt Nam, không có
ràng buộc hay bảo lưu nào lớn về các biện pháp tự vệ này, do đó việc áp dụng biện pháp
tự vệ ở Việt Nam đối với hàng hóa nước ngoài, nếu có, sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định
của WTO về vấn đề này
Để áp dụng biện pháp tự vệ, sự gia tăng về số lượng của hàng hoá nhập khẩu phải đáp
ứng các điều kiện sau:




Sự gia tăng này là gia tăng tuyệt đối (ví dụ lượng nhập khẩu tăng gấp 2 lần) hoặc
tương đối so với sản xuất trong nước (ví dụ lượng hàng nhập khẩu hầu như không
tăng nhưng cùng thời điểm đó lượng hàng sản xuất trong nước lại giảm mạnh);
Sự gia tăng này phải mang tính đột biến (diễn ra đột ngột, nhanh và tức thời)

(Chú ý là theo điều kiện chung, sự gia tăng nhập khẩu này phải thuộc diện “không dự
đoán trước được” vào thời điểm nước nhập khẩu đàm phán tham gia Hiệp định SG)
5. Xác định yếu tố “thiệt hại nghiêm trọng” như thế nào?
Một trong các điều kiện để có thể áp dụng biện pháp tự vệ là phải điều tra chứng minh
được rằng ngành sản xuất nội địa phải chịu thiệt hại nghiêm trọng từ việc hàng nhập khẩu
tăng ồ ạt. Cụ thể:





Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới 02 dạng: thiệt hại thực tế, hoặc
nguy cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);
Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức nghiêm trọng (tức là ở mức cao hơn so

với thiệt hại đáng kể trong trường hợp của các vụ kiện chống bán phá giá, chống
trợ cấp);
Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân tích tất cả
các yếu tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa (ví dụ tỷ lệ
và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu, thay đổi về
doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)

Trong cuộc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ, việc chứng minh thiệt hại nghiêm trọng
chủ yếu thuộc trách nhiệm của ngành sản xuất nội địa liên quan. Vì vậy, để đạt được mục


tiêu của mình, ngành sản xuất nội địa cần có sự chuẩn bị kỹ về các số liệu, tập hợp trong
một thời gian tương đối dài để có đủ dữ liệu chứng minh.
Trong vụ điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ, để xác định được mức độ thiệt hại cần xác
định rõ đối tượng bị thiệt hại, tức là xác định phạm vi “ngành sản xuất nội địa liên quan”.
Ngành sản xuất nội địa liên quan trong vụ việc tự vệ là ngành sản xuất sản phẩm tương
tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nhập khẩu bị điều tra (rộng hơn khái niệm
ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa trong các vụ điều tra chống bán phá giá hay
chống trợ cấp).




Sản phẩm tương tự được hiểu là sản phẩm giống hệt hoặc nếu không có sản phẩm
giống hệt thì là sản phẩm tương đồng về tính chất, thành phần, chất lượng và mục
đích sử dụng cuối cùng;
Sản phẩm cạnh tranh trực tiếp là những sản phẩm có thể thay thế sản phẩm nhập
khẩu bị điều tra ở một mức độ nhất định trên và trong các điều kiện của thị trường
nước nhập khẩu.


6, Việc áp dụng biện pháp tự vệ phải tuân thủ điều kiện gì?








Về hình thức tự vệ, WTO không có quy định ràng buộc về loại biện pháp tự vệ
được áp dụng. Trên thực tế các nước nhập khẩu thường áp dụng biện pháp hạn
chế lượng nhập khẩu (hạn ngạch) hoặc tăng thuế nhập khẩu đối với hàng hoá
liên quan.
Về mức độ tự vệ, các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở mức cần thiết
đủ để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để ngành sản xuất nội
địa điều chỉnh;
Về thời hạn tự vệ, biện pháp tự vệ không được kéo dài quá 4 năm (tính cả thời
gian áp dụng biện pháp tạm thời) và phải giảm dần theo định kỳ sau năm đầu tiên
áp dụng. Trường hợp biện pháp được áp dụng trên 3 năm thì phải được xem xét
lại vào giữa kỳ để cân nhắc khả năng chấm dứt hoặc giảm mức áp dụng mạnh
hơn nữa;
Về gia hạn tự vệ, có thể gia hạn biện pháp tự vệ nhưng nước nhập khẩu phải
chứng minh được rằng việc gia hạn là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại và rằng
ngành sản xuất liên quan đang tiến hành tự điều chỉnh. Tổng cộng thời gian áp
dụng và gia hạn không được quá 8 năm.

7. Biện pháp tự vệ phải được áp dụng như thế nào?
Biện pháp tự vệ phải được áp dụng theo cách không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng
hoá nhập khẩu liên quan. Như vậy khác với biện pháp chống bán phá giá và biện pháp
chống trợ cấp (chỉ áp dụng đối với nhà xuất khẩu từ một hoặc một số nước xuất khẩu

nhất định bị điều tra), biện pháp tự vệ áp dụng cho tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu của
tất cả các nước đang xuất mặt hàng đó sang nước nhập khẩu.
Trường hợp biện pháp tự vệ là hạn ngạch, nước nhập khẩu cần tiến hành thoả thuận với
các nước xuất khẩu, chủ yếu về việc phân định hạn ngạch.
Nếu không đạt được thoả thuận, việc phân bổ sẽ được thực hiện theo thị phần tương ứng
của từng nước xuất khẩu trong giai đoạn trước đó.


8. Nước áp dụng biện pháp tự vệ có phải bồi thường cho các nước xuất khẩu không?
WTO quy định nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường tổn thất
thương mại cho các nước xuất khẩu liên quan (thường là việc nước nhập khẩu tự
nguyện giảm thuế nhập khẩu cho một số nhóm hàng hoá khác đến từ các nước xuất khẩu
đó).
Nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải tiến hành thương lượng với các nước xuất
khẩu về biện pháp đền bù thương mại thoả đáng. Trường hợp không đạt được thoả thuận,
nước xuất khẩu liên quan có thể áp dụng biện pháp trả đũa (thường là việc rút lại
những nghĩa vụ nhất định trong WTO, bao gồm cả việc rút lại các nhượng bộ về thuế
quan - tức là từ chối giảm thuế theo cam kết WTO - đối với nước áp dụng biện pháp tự
vệ).
Tuy nhiên, việc trả đũa không được thực hiện trong 3 năm đầu kể từ khi biện pháp tự vệ
được áp dụng (nếu biện pháp áp dụng tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO và thiệt hại
nghiêm trọng là thiệt hại thực tế).
IV, HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
GATS là gì?

GATS – Tên viết tắt của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (General Agreement on
Trade in Services) là một Hiệp định thuộc hệ thống WTO, ra đời năm 1995, quy định các
nguyên tắc về thương mại dịch vụ.
Các nguyên tắc trong Hiệp định này áp dụng bắt buộc đối với tất cả các nước Thành viên
WTO. Tuy nhiên, đây là các nguyên tắc chung về thương mại dịch vụ. Nghĩa vụ cụ thể

của mỗi nước thành viên trong việc mở cửa thị trường dịch vụ của nước mình trong từng
lĩnh vực dịch vụ (cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ từ các nước thành viên WTO
khác) được nêu trong Biểu cam kết dịch vụ riêng của nước đó (Biểu này là kết quả của
đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ của nước đó khi gia nhập WTO).

1, Mục tiêu cơ bản của GATS
GATS được xây dựng nhằm đạt được các mục tiêu sau đây trong thương mại dịch vụ
giữa các nước thành viên WTO:



Tạo ra một hệ thống các quy tắc thương mại quốc tế đáng tin cậy;
Đảm bảo đối xử bình đẳng và công bằng đối với tất cả các bên tham gia (nguyên
tắc không phân biệt đối xử);



Thúc đẩy các hoạt động kinh tế thông qua việc cam kết chính sách; và




Thúc đẩy thương mại và phát triển thông qua tự do hóa dần dần (tạo điều kiện để
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tiếp cận khách hàng dễ dàng hơn, đặc biệt là
khách hàng ở thị trường nước khác).

Chú ý là GATS chỉ quy định các nghĩa vụ đối với Chính phủ các quốc gia thành viên
(GATS không quy định gì về quyền lợi hay nghĩa vụ cho doanh nghiệp). Tuy nhiên,
doanh nghiệp lại được hưởng lợi hoặc chịu tác động của Hiệp định này thông qua việc
Chính phủ các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ trong GATS khi ban hành chính

sách, quy định về thương mại dịch vụ ở nước mình. Vì vậy các doanh nghiệp cũng cần có
hiểu biết về các nguyên tắc chung về dịch vụ trong GATS
2, Những loại dịch vụ nào thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS?
GATS điều chỉnh tất cả các loại dịch vụ trừ:


Các dịch vụ của Chính phủ (ví dụ các chương trình an sinh xã hội và các dịch vụ
công khác như y tế, giáo dục… được cung cấp dựa trên các điều kiện phi thị
trường). Những dịch vụ này được cung cấp không trên cơ sở thương mại và
không cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ khác;



Một số dịch vụ thuộc lĩnh vực vận tải hàng không (ví dụ quyền lưu không và các
dịch vụ liên quan trực tiếp đến quyền lưu không).

Tuy nhiên GATS lại không có định nghĩa chính thức về dịch vụ. Thông thường, người ta
phân biệt dịch vụ với hàng hoá ở đặc tính “vô hình” và “không nhìn thấy được” của dịch
vụ (trong khi đó hàng hoá lại “hữu hình” và “có thể nhìn thấy”).
GATS cũng không có quy định chính thức về cách thức phân loại dịch vụ. Tuy nhiên,
Ban Thư ký của WTO đã chia các hoạt động dịch vụ thành 12 ngành (Bảng dưới đây) với
155 phân ngành dịch vụ (mỗi ngành bao gồm nhiều phân ngành).
3, Khi tham gia WTO, các nước thành viên có những nghĩa vụ gì trong lĩnh vực dịch
vụ?
Khi tham gia WTO, trong lĩnh vực dịch vụ, các nước thành viên phải tuân thủ 02 nhóm
nghĩa vụ sau:



Các nghĩa vụ chung: áp dụng bắt buộc và trực tiếp cho tất cả các thành viên cũng

như tất cả các ngành dịch vụ;
Các cam kết cụ thể: Mỗi nước Thành viên có các cam kết riêng về từng ngành
dịch vụ, Biểu cam kết của từng nước là tập hợp các cam kết cụ thể này. Biểu cam
kết bao gồm cam kết nền và cam kết riêng cho từng ngành dịch vụ.

4, GATS quy định các nghĩa vụ chung nào cho các nước thành viên?




Nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc (MFN): Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi thành viên
không được phân biệt đối xử giữa các dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ đến từ
các nước thành viên khác nhau.

Ví dụ, Việt Nam không thể dành ưu đãi cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ từ một
nước A (thành viên WTO) nào đó hơn dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ từ các nước
thành viên WTO khác.
Những ngoại lệ đối với nguyên tắc MFN trong dịch vụ
Theo quy định của GATS, các nước thành viên WTO phải đối xử với các nhà cung cấp
dịch vụ đến từ các nước thành viên khác theo cách thức tương tự nhau (về tất cả các vấn
đề).Tuy nhiên, nguyên tắc MFN này có một số ngoại lệ sau:
1. Theo cam kết riêng của từng nước trong WTO: đây là trường hợp nước gia nhập
thành công trong đàm phán miễn thực hiện nghĩa vụ này trong một số dịch vụ
hoặc trường hợp cụ thể trong một số năm;
2. Theo các thoả thuận khu vực hoặc các Hiệp định thương mại tự do: các cam kết
trong những Văn kiện này được ưu tiên áp dụng (và do đó các nước thành viên
những Thoả thuận hay Hiệp định này có thể cho nhau hưởng đối xử ưu đãi ở mức
cao hơn so với các nước thành viên WTO không tham gia Thoả thuận hay Hiệp
định này)



Nghĩa vụ minh bạch hóa: Mỗi nước thành viên phải công khai các quy định của
mình trong lĩnh vực dịch vụ và phải thiết lập các Điểm hỏi đáp để cung cấp thông
tin liên quan cho các nước thành viên khác cũng như các doanh nghiệp của các
nước đó;



Các nghĩa vụ liên quan đến doanh nghiệp dịch vụ độc quyền: GATS quy định các
nước thành viên phải thiết lập các thủ tục hành chính và các nguyên tắc tố tụng
minh bạch, khách quan đối với hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ độc
quyền (để đảm bảo rằng các doanh nghiệp này không lạm dụng vị trí độc quyền).

5, Nghĩa vụ riêng của mỗi nước trong Biểu cam kết riêng về dịch vụ bao gồm những
loại nào?
Cam kết riêng của mỗi nước về thương mại dịch vụ thường bao gồm cam kết về 02 vấn
đề sau đây:


Mở cửa thị trường cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài (trong
từng lĩnh vực dịch vụ);



Mức độ đối xử quốc gia đối với dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
(trong từng lĩnh vực dịch vụ).


Sau đây là một số nội dung cơ bản của các nhóm nghĩa vụ này.



Cam kết về mức độ mở cửa thị trường: Mở cửa thị trường được hiểu là việc cho
phép dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của các nước thành viên khác được tiếp
cận thị trường nội địa ở những mức độ nhất định (ví dụ cho phép cung cấp dịch
vụ, lập doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, mở chi nhánh, văn phòng đại diện… ở
mức nào, với điều kiện gì). Với mỗi nước, cam kết mở cửa thị trường được thực
hiện đối với từng phân ngành dịch vụ, với mức độ mở cửa khác nhau.

Thực chất nội dung mỗi cam kết mở cửa thị trường trong từng phân ngành dịch vụ bao
gồm các điều kiện có tính ràng buộc, hạn chế đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài ở mức độ khác nhau.
Một số loại điều kiện đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong các cam kết mở cửa
dịch vụ
Cam kết mở cửa một ngành hay phân ngành dịch vụ thường bao gồm một hoặc một số
điều kiện về:
Số lượng các nhà cung cấp dịch vụ;
Giá trị của các hoạt động dịch vụ được thực hiện;
Số lượng các hoạt động dịch vụ được thực hiện;
Số lượng nhân viên;
Hình thức pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ (ví dụ chỉ được tham gia thị trường
dưới hình thức công ty cổ phần…);
Mức độ góp vốn trong liên doanh...
Ví dụ: Đối với dịch vụ sản xuất phim, cam kết về mở cửa thị trường của Việt Nam liên
quan đến phương thức hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bao
gồm các điều kiện sau:
Chỉ được tham gia thị trường Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
hoặc liên doanh với đối tác Việt Nam đã được phép cung cấp các dịch vụ này tại Việt
Nam; và Phần vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 51% vốn pháp định
của liên doanh.



Cam kết về đối xử quốc gia; Căn cứ vào các nghĩa vụ chung và các cam kết cụ thể
này, các Thành viên sẽ ban hành các quy định nội địa cụ thể cho từng ngành/phân
ngành dịch vụ đã cam kết. Với những ngành chưa có cam kết thì các Thành viên
được tự do đưa ra quy định về bất kỳ hạn chế hay điều kiện nào, miễn là Thành


viên vẫn phải đảm bảo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc MFN (đối xử với các nhà
cung cấp đến từ tất cả các nước thành viên WTO theo một cách như nhau).
Khác biệt giữa nguyên tắc đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá và trong thương
mại dịch vụ

Trong thương mại hàng hoá, các nước thành viên WTO đã đạt được thoả thuận NT cho
hầu hết các loại hàng hoá về thuế, phí, các quy định, điều kiện thương mại… Vì vậy,
nguyên tắc NT trong thương mại hàng hoá được thực hiện hầu như ở mức tuyệt đối.
- Đối với thương mại dịch vụ, mức độ cam kết mở cửa còn dè dạt và có nhiều hạn chế
trong từng ngành, phân ngành dịch vụ đối với từng nước thành viên. Vì vậy, nguyên tắc
NT áp dụng rất hạn chế, phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài với nhà
cung cấp dịch vụ trong nước còn tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau.
6, Việt Nam có thể áp dụng các điều kiện đối với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài khắt khe hơn mức đã cam kết không?



Bảo vệ đạo đức chung và duy trì trật tự xã hội;
Bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật;



Đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật (ví dụ các biện pháp cần thiết để ngăn

chặn các hành vi lừa dối, giả mạo) nếu không vi phạm GATS;



Đối với dịch vụ tài chính, cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện
pháp khắt khe hơn cam kết vì lý do thận trọng (ví dụ để bảo vệ các nhà đầu tư,
người gửi, những người ký hợp đồng bảo hiểm, để đảm bảo sự thống nhất và ổn
định của hệ thống tài chính…);



Trường hợp gặp phải khó khăn nghiêm trọng về cán cân thanh toán, các nước
thành viên được phép hạn chế thương mại tạm thời.

Vì vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể đặt ra các điều kiện cho các dịch vụ và nhà đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ khắt khe hơn cam kết trong WTO nếu vì các lý do nêu
trên.
7 , Là nước đang phát triển, Việt Nam có được hưởng ưu đãi nào đặc biệt trong việc
thực hiện các nghĩa vụ trong GATS không?
GATS có một số quy định mang tính “ưu tiên” cho các nước đang phát triển, đặc biệt là
việc được hưởng hỗ trợ kỹ thuật từ các nước thành viên WTO khác và được “nương nhẹ”
trong các đàm phán mở cửa thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế những “ưu tiên” này hầu
như chỉ là hình thức.


Ví dụ, là nước đang phát triển nhưng Việt Nam thậm chí đã phải cam kết mở cửa thị
trường rộng hơn mặt bằng cam kết chung của WTO của các nước thành viên cũ.
V, HIỆP ĐỊNH VỀ HÀNG RÀO KĨ THUẬT
1, Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại là gì?
Trong thương mại quốc tế, các “rào cản kỹ thuật đối với thương mại” (technical barriers

to trade) là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hoá
nhập khẩu và/hoặc quy trình nhằm đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập khẩu đối
với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (còn gọi là các biện pháp kỹ thuật – biện pháp
TBT).
Các biện pháp kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi
ích quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường, an ninh... Vì vậy, mỗi nước thành
viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng
hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu.
Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với
thương mại quốc tế bởi chúng có thể được nước nhập khẩu sử dụng để bảo hộ cho sản
xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị
trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “rào cản kỹ thuật đối với thương
mại”.
2, Có những loại “rào cản kỹ thuật” nào?
Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của WTO phân biệt 03 loại biện
pháp kỹ thuật sau đây:
1. Quy chuẩn kỹ thuật (technical regulations) là những yêu cầu kỹ thuật bắt buộc
áp dụng (các doanh nghiệp bắt buộc phải tuân thủ).
2. Tiêu chuẩn kỹ thuật (technical standards) là các yêu cầu kỹ thuật được chấp
thuận bởi một tổ chức đã được công nhận nhưng không có giá trị áp dụng bắt
buộc; và
3. Quy trình đánh giá sự phù hợp của một loại hàng hoá với các quy định/tiêu
chuẩn kỹ thuật (conformity assessment procedure)
Các nội dung thường được nêu trong quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật





Các đặc tính của sản phẩm (bao gồm cả đặc tính về chất lượng); hoặc

Các quy trình và phương pháp sản xuất (PPMs) có ảnh hưởng/tác động đến đặc
tính của sản phẩm; hoặc
Các thuật ngữ, ký hiệu; hoặc
Các yêu cầu về đóng gói, ghi nhãn mác áp dụng cho sản phẩm…

3, Phân biệt các biện pháp kỹ thuật và các biện pháp vệ sinh động thực vật như thế
nào?


Liên quan đến các yêu cầu về đặc tính sản phẩm, quy trình sản xuất, đóng gói… bên cạnh
các “biện pháp kỹ thuật” (TBT), các nước còn duy trì nhóm các “biện pháp vệ sinh và
kiểm dịch động thực vật” (SPS). Trên thực tế, có nhiều điểm giống nhau giữa hai nhóm
biện pháp này.
Tuy nhiên, WTO có quy định riêng cho mỗi hai nhóm, tập trung ở hai Hiệp định khác
nhau (với các nguyên tắc khác nhau).
Tiêu chí để phân biệt hai nhóm biện pháp này là mục tiêu áp dụng của chúng:




Các biện pháp SPS hướng tới mục tiêu cụ thể là bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ con
người, vật nuôi, động thực vật thông qua việc đảm bảo vệ sinh thực phẩm và ngăn
chặn các dịch bệnh;
Các biện pháp TBT hướng tới nhiều mục tiêu chính sách khác nhau (an ninh quốc
gia, môi trường, cạnh tranh lành mạnh…).

Việc phân biệt khi nào một biện pháp là TBT hay SPS là rất quan trọng đối với doanh
nghiệp bởi mỗi loại biện pháp sẽ chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc và quy định riêng
của WTO; trên cơ sở đó, doanh nghiệp biết bảo vệ quyền lợi của mình bằng phương pháp
nào thì thích hợp.

4, WTO quy định những nguyên tắc gì về các biện pháp kỹ thuật?
Theo Hiệp định TBT, khi ban hành các quy định về kỹ thuật đối với hàng hoá, mỗi nước
thành viên WTO đều phải đảm bảo rằng việc áp dụng các quy định này là:







Không phân biệt đối xử;
Tránh tạo ra rào cản không cần thiết đối với thương mại quốc tế (nếu có thể dùng
các biện pháp khác ít hạn chế thương mại hơn);
Hài hoà hoá;
Có tính đến các tiêu chuẩn quốc tế chung;
Đảm bảo nguyên tắc tương đương và công nhận lẫn nhau (với các nước khác);
Minh bạch;

Đây là những công cụ quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để bước đầu nhận biết
một biện pháp kỹ thuật có tuân thủ WTO hay không để từ đó có biện pháp khiếu nại,
khiếu kiện hợp lý nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Theo nguyên tắc không phân biệt đối xử được ghi nhận trong Hiệp định TBT thì nước
nhập khẩu là thành viên WTO có nghĩa vụ:



Không đặt ra các biện pháp kỹ thuật khác nhau cho hàng hoá tương tự đến từ các
nước thành viên khác nhau của WTO (nguyên tắc tối huệ quốc);
Không đặt ra các biện pháp kỹ thuật cho hàng hoá nước ngoài cao hơn biện pháp
kỹ thuật áp dụng cho hàng hoá tương tự nội địa của mình (nguyên tắc đối xử quốc

gia).


Như vậy, về cơ bản, một nước không được đặt ra các biện pháp kỹ thuật khác nhau cho
hàng hoá tương tự nhau. Điều này có nghĩa hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu sang một
nước thành viên WTO sẽ chỉ phải tuân thủ các biện pháp kỹ thuật áp dụng cho hàng hoá
tương tự trong nội địa nước đó và hàng hoá tương tự nhập khẩu từ tất cả các nguồn khác.
Ngược lại, Việt Nam cũng không thể ban hành và áp dụng các biện pháp kỹ thuật đối với
hàng hoá nhập khẩu ở mức cao hơn hoặc thấp hơn mức áp dụng cho hàng hoá nội địa.
5, Làm thế nào để doanh nghiệp biết một biện pháp kỹ thuật “gây ra cản trở không
cần thiết đối với thương mại”?
Theo Hiệp định TBT, các biện pháp kỹ thuật mà mỗi nước thành viên WTO áp dụng
không được gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại.
Nguyên tắc này được hiểu theo cách thức khác nhau tuỳ thuộc vào loại biện pháp kỹ
thuật được áp dụng. Cụ thể:


Đối với các quy chuẩn kỹ thuật (bắt buộc):

Một quy chuẩn kỹ thuật “không gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại” được
hiểu là:




Nhằm thực hiện một mục tiêu hợp pháp;
Không thắt chặt hoạt động thương mại ở trên mức cần thiết để đảm bảo thực hiện
mục tiêu chính sách.
Đối với các tiêu chuẩn kỹ thuật (không bắt buộc):


Không có quy định rõ ràng để xác định khi nào một tiêu chuẩn kỹ thuật “không gây ra
cản trở không cần thiết đối với thương mại”. Tuy nhiên, hiện đang có xu hướng hiểu các
điều kiện này tương tự như cách hiểu trong trường hợp các quy chuẩn kỹ thuật nói trên.


Đối với quy trình đánh giá sự phù hợp

Một quy trình đánh giá hàng hóa được xem là “không gây ra cản trở không cần thiết đối
với thương mại” khi nó không chặt chẽ hơn mức cần thiết đủ để nước nhập khẩu có thể
tin tưởng rằng sản phẩm liên quan phù hợp với các quy chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật
nhất định.
Khi nào một biện pháp kỹ thuật được coi là phục vụ một “mục tiêu hợp pháp”?
Hiệp định TBT liệt kê một số ví dụ về các mục tiêu hợp pháp có thể chấp nhận được, bao
gồm:



Các yêu cầu vì an ninh quốc phòng;
Ngăn chặn hành vi lừa đảo;



Bảo vệ sức khoẻ và tính mạng con người;




Bảo vệ sức khỏe và an toàn động vật;




Bảo vệ môi trường; và



Các mục tiêu khác (ví dụ mục tiêu tiêu chuẩn hoá các sản phẩm điện – điện tử,
tiêu chuẩn chất lượng…)

Khi nào một biện pháp kỹ thuật được xem là “ở mức cần thiết”?




Một biện pháp kỹ thuật được xem là “ở mức cần thiết” để bảo vệ các mục tiêu
chính đáng nếu không còn bất kỳ một biện pháp nào khác cho phép đạt được mục
tiêu đó mà lại ít cản trở thương mại hơn và không vi phạm hoặc vi phạm ít hơn
các quy định của WTO (Vụ Thái Lan – Các biện pháp hạn chế nhập khẩu và Thuế
nội địa đối với Thuốc lá điếu);
Những biện pháp kỹ thuật được xây dựng dựa trên hoặc tuân thủ các tiêu chuẩn
quốc tế được mặc nhiên xem là đáp ứng điều kiện “không gây cản trở không cần
thiết đến thương mại”.

Việc xác định một biện pháp kỹ thuật có gây ra “cản trở không cần thiết đến thương mại”
hay không là rất phức tạp và cần sự hỗ trợ của các chuyên gia. Tuy nhiên, đây lại là điều
có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp bởi nếu chứng minh được một yêu cầu kỹ thuật
không đáp ứng được nguyên tắc này của WTO, doanh nghiệp có thể sẽ không phải
tuân thủ các yêu cầu đó (nước áp dụng phải loại bỏ chúng theo các quy định của WTO).
Vì vậy nếu doanh nghiệp có được các thông tin liên quan, ví dụ biết rằng có biện pháp
khác ít cản trở hơn mà vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát như biện pháp kỹ thuật đang áp
dụng, doanh nghiệp có thể khiếu nại trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu

hoặc thông báo cho Chính phủ nước mình để có cách xử lý thích hợp, bảo vệ lợi ích của
doanh nghiệp.
6, Các biện pháp kỹ thuật có phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế liên quan không?
Theo Hiệp định TBT, đối với các quy chuẩn kỹ thuật (technical regulations), nếu đã có
những tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế chung liên quan thì các nước thành viên WTO phải áp
dụng các tiêu chuẩn quốc tế đó để xây dựng quy chuẩn kỹ thuật nội địa của mình. Quy
định này tạo ra một sự thống nhất tương đối về quy chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá ở các
nước khác nhau, vì thế tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu (ví dụ khi doanh
nghiệp xuất cùng một mặt hàng đi nhiều nước).
Tuy nhiên, một nước có thể không sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế chung nếu các tiêu
chuẩn này không hiệu quả và không thích hợp để đạt được mục tiêu quốc gia của mình
(có thể vì lý do địa lý, khí hậu, công nghệ…). Trong trường hợp này, nếu quy chuẩn kỹ
thuật dự kiến áp dụng có ảnh hưởng rõ rệt đến thương mại (so với các tiêu chuẩn quốc tế
liên quan), nước thành viên có nghĩa vụ:



Công bố dự thảo các quy chuẩn kỹ thuật;
Tạo cơ hội để các chủ thể liên quan được bình luận về dự thảo đó;


Cân nhắc các ý kiến bình luận trong quá trình hoàn thiện và thông qua các quy
chuẩn kỹ thuật chính thức.



Các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế thông dụng hiện nay do các tổ chức nào ban hành?




Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO);
Uỷ ban Kỹ thuật Điện tử quốc tế (IEC);



Liên đoàn viễn thông quốc tế (ITU);



Uỷ ban dinh dưỡng CODEX

7, Tại sao WTO không tạo ra những biện pháp kỹ thuật thống nhất chung cho hàng
hoá của tất cả các nước thành viên?
Các biện pháp kỹ thuật thể hiện những mục tiêu khác nhau của mỗi nước (bảo vệ lợi ích
công cộng, cam kết xã hội, thúc đẩy thương mại…) và cũng phản ánh những đặc trưng
khác nhau của mỗi nước (đặc biệt về điều kiện địa lý, trình độ phát triển, nhu cầu thương
mại và tài chính…). Vì thế, cho đến nay các nước thành viên WTO chưa thể thống nhất
về một bộ các biện pháp kỹ thuật chung cho bất kỳ loại hàng hoá nào.
Cũng vì lý do này mà Hiệp định TBT không phải là tập hợp các biện pháp kỹ thuật áp
dụng trực tiếp, bắt buộc chung ở tất cả các nước thành viên cho từng loại hàng hoá mà
chỉ đưa ra các nguyên tắc chung mà các nước phải tuân thủ khi thông qua và thực thi các
biện pháp kỹ thuật đối với hàng hoá.
Tuy nhiên, Hiệp định TBT cũng nhấn mạnh yêu cầu “hài hòa hoá” các biện pháp kỹ
thuật giữa các nước theo hướng:




Khuyến khích các nước thành viên tham gia vào quá trình hài hoà hoá các tiêu
chuẩn và sử dụng các tiêu chuẩn đã được chấp thuận chung làm cơ sở cho các

biện pháp kỹ thuật nội địa của mình;
Khuyến khích các nước nhập khẩu thừa nhận kết quả kiểm định sự phù hợp với
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật áp dụng tại nước xuất khẩu.

Việc hài hoà hoá các biện pháp kỹ thuật này được WTO khuyến khích bởi nó sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hoá của doanh nghiệp và người sản xuất; người
tiêu dùng cũng được lợi từ sự thống nhất này.
VI, HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ SINH ĐỘNG THỰC VẬT
1, Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật là gì?
Trong WTO, biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (Sanitary and Phytosanitary
Measure – sau đây viết tắt là biện pháp SPS) được hiểu là tất cả các quy định, điều kiện,
yêu cầu bắt buộc có tác động đến thương mại quốc tế nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ
của con người, vật nuôi, động thực vật thông qua việc bảo đảm an toàn thực phẩm
và/hoặc ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực vật. Hình


thức của các biện pháp SPS có thể rất đa dạng (ví dụ, đó có thể là yêu cầu về chất lượng,
về bao bì, về quy trình đóng gói, phương tiện và cách thức vận chuyển động thực vật,
kiểm dịch, phương pháp lấy mẫu, thống kê…).
2, Tại sao WTO quy định về các biện pháp SPS?
Để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ con người, vật nuôi và động, thực vật, mỗi nước thành
viên WTO đều ban hành một hệ thống các biện pháp SPS tại lãnh thổ nước mình. Đây là
điều là chính đáng và cần thiết.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp các biện pháp này đã bị lạm dụng, gây
ra cản trở bất hợp lý cho thương mại quốc tế (ví dụ nước nhập khẩu đặt điều kiện, tiêu
chuẩn SPS quá cao khiến hàng hoá nước ngoài khó có thể thâm nhập thị trường nội địa).
Việc thông qua Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh động thực vật của WTO (Hiệp định
SPS) là nhằm tạo khung khổ pháp lý chung cho vấn đề này. Hiệp định đưa các nguyên
tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải tuân thủ khi ban hành và áp dụng các
biện pháp SPS.

3, Các biện pháp SPS phải tuân thủ các nguyên tắc gì?
Hiệp định SPS quy định các nước thành viên khi ban hành và áp dụng các biện pháp này
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Chỉ được áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động
vật, thực vật và phải căn cứ vào các nguyên tắc khoa học (trừ một số ngoại lệ, ví dụ dịch
bệnh khẩn cấp);
- Không tạo ra sự phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không có căn cứ hoặc gây ra
cản trở trá hình đối với thương mại;
- Phải dựa vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế, nếu có;
- Khuyến khích việc hài hoà hoá các biện pháp SPS giữa các nước.
Một biện pháp SPS không tuân thủ một trong các nguyên tắc trên có thể là vi phạm WTO
và có thể bị buộc phải huỷ bỏ. Vì vậy, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến các nguyên
tắc này để nhận biết và kịp thời phát hiện các trường hợp biện pháp SPS vi phạm WTO
để có hình thức tự khiếu nại, khiếu kiện hoặc thông báo cho Chính phủ, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình.
4, Làm thế nào để biết một biện pháp SPS là vượt quá mức cần thiết?
Quan điểm chung là tất cả các biện pháp SPS mà các nước áp dụng đều đương nhiên thoả
mãn tiêu chí này. Vì thế, thường thì người ta căn cứ vào tiêu chí thứ hai (“dựa trên các
căn cứ khoa học”) để xác định một biện pháp SPS là cần thiết hay vượt quá mức cần thiết
để bảo vệ sức khoẻ hoặc cuộc sống của con người, động thực vật.


Làm thế nào để biết một biện pháp SPS không dựa trên các bằng chứng khoa học
đầy đủ?
Để xem xét một biện pháp SPS có thoả mãn tiêu chí này không người ta phải tiến hành
02 “phép thử”:
(i) các phân tích rủi ro (dùng phương pháp khoa học để xác định xem có tồn tại rủi ro
cho người, động thực vật của hàng hoá và khả năng xảy ra rủi ro); và
(ii) kiểm soát rủi ro (tiến hành lựa chọn chính sách bảo vệ con người, động thực vật khỏi
rủi ro và biện pháp SPS tương ứng trên cơ sở kết quả phân tích rủi ro và hoàn cảnh xã hội

cụ thể, ví dụ thói quen hay khả năng tự bảo vệ của người tiêu dùng).
Trên thực tế, nếu một biện pháp SPS được hậu thuẫn bởi một lý thuyết khoa học đáng
tin cậy thì xem như thoả mãn yêu cầu này.
Ngoài ra, một biện pháp SPS được áp dụng để bảo vệ sức khoẻ, cuộc sống của con người,
động thực vật khỏi các nguy cơ/mối nguy hiểm càng cao thì càng có nhiều khả năng
được thừa nhận là “có đủ bằng chứng khoa học” (dù là trên thực tế giả thiết khoa học liên
quan chưa hẳn đã thật chắc chắn).
Có khi nào một biện pháp SPS không dựa trên các căn cứ khoa học đầy đủ mà vẫn
không vi phạm WTO không?
Trên thực tế có những trường hợp khẩn cấp về vệ sinh dịch tễ mà một nước không thể
chờ cho đến khi có những căn cứ khoa học đầy đủ hay các kết quả phân tích rủi ro rõ
ràng để có thể tiến hành các biện pháp ngăn chặn cần thiết, bởi nếu chậm có thể sẽ là quá
muộn (ví dụ để ngăn chặn bệnh dịch SARS hay cúm H5N1, người ta có thể tiến hành các
biện pháp ngăn chặn tại biên giới ngay từ lúc chưa xác định được đầy đủ và chính xác
các thể của các virus liên quan, cách thức lây nhiễm cũng như hệ quả trực tiếp đến sức
khoẻ…).
Hiệp định SPS thừa nhận các trường hợp này và cho phép các nước thành viên được
“phòng tránh sớm” bằng những biện pháp SPS tạm thời, không phải đáp ứng các điều
kiện về căn cứ khoa học.
5, Một biện pháp SPS tạm thời phải đáp ứng các yêu cầu gì?
1. Được áp dụng trong các trường hợp mà “các thông tin khoa học liên quan chưa
đầy đủ”;
2. Phải được xây dựng “trên cơ sở các thông tin đáng tin cậy sẵn có”;
3. Nước áp dụng phải nỗ lực “tìm kiếm các thông tin bổ sung cần thiết để có đánh
giá rủi ro khách quan hơn”;
4. Phải được xem xét lại “sau một khoảng thời gian hợp lý”.


6, Một biện pháp SPS có phân biệt đối xử về đối tượng áp dụng có bị xem là vi
phạm WTO không?

Nguyên tắc không phân biệt đối xử (giữa hàng hoá nhập khẩu từ các nguồn khác nhau
với nhau, giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa) là một nguyên tắc trụ cột của WTO. Đối
với trường hợp các biện pháp SPS, nguyên tắc này vẫn áp dụng nhưng có giới hạn.
Cụ thể, Hiệp định SPS không cấm các biện pháp SPS phân biệt đối xử mà chỉ cấm các
biện pháp SPS phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không có căn cứ. Nói cách khác,
nếu một nước có lý do để áp dụng các biện pháp SPS khắt khe hơn đối với hàng hoá nhập
khẩu đến từ một khu vực nhất định so với hàng hoá đến từ các khu vực khác hoặc hàng
hoá trong nước (ví dụ, khu vực đó đang có dịch bệnh nguy hiểm) thì vẫn được chấp nhận
theo Hiệp định SPS.
7, Khi nào một biện pháp SPS được xem là ít hạn chế thương mại nhất?
Hiệp định SPS đòi hỏi các quốc gia khi áp dụng các biện pháp SPS phải đảm bảo rằng
các biện pháp này hạn chế thương mại ở mức thấp nhất có thể (nếu không sẽ là vi phạm
WTO và có thể phải huỷ bỏ).
Thông thường, một biện pháp SPS sẽ không bị coi là hạn chế thương mại trên mức cần
thiết nếu nó nhằm thực hiện mục tiêu (bảo vệ lợi ích công cộng) của mình, có tính đến
tất cả các điều kiện và tính khả thi về kỹ thuật và kinh tế. Tuy nhiên, đây là một tiêu chí
rất khó định lượng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp khi đánh giá.
8, Một tiêu chí để xác định biện pháp SPS “hạn chế thương mại trên mức cần thiết”
Một biện pháp SPS sẽ bị xem là “hạn chế thương mại” trên mức cần thiết nếu tồn tại một
biện pháp SPS khác đồng thời thoả mãn các điều kiện sau:
1. Có thể áp dụng được (có thể tính đến tính khả thi về kỹ thuật, kinh tế);
2. Cho phép đạt được mục tiêu bảo vệ về vệ sinh dịch tễ ở mức độ phù hợp; và
3. Rõ ràng là ít hạn chế thương mại hơn biện pháp SPS đang được xem xét.
Án lệ WTO - Vụ “Úc – Cá hồi”
9, Khi nào một biện pháp SPS được xem là căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế?
Theo quy định tại Hiệp định SPS, các nước thành viên WTO có nghĩa vụ bảo đảm rằng
các biện pháp SPS mà họ áp dụng là “dựa trên các tiêu chuẩn, khuyến nghị, hướng dẫn
quốc tế” nếu đã có các tiêu chuẩn, khuyến nghị hay hướng dẫn liên quan của các tổ chức
tiêu chuẩn quốc tế nhất định.
Các Tổ chức đưa ra các tiêu chuẩn quốc tế về SPS



×