Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Công tác vận động phụ nữ của đảng bộ huyện hoài đức (hà nội) từ năm 2005 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ THÚY HƢƠNG

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ
CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀI ĐỨC (HÀ NỘI)
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ THÚY HƢƠNG

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ
CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀI ĐỨC (HÀ NỘI)
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2014

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS LÂM BÁ NAM


Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ
huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội) từ năm 2005 đến năm 2014” dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Lâm Bá Nam là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.Các số liệu trích dẫn đều chân thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận
văn của mình.
Hà Nội, tháng năm 2016

Lê Thị Thúy Hƣơng


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc,tôi xin được gửi lời cám ơn đến
PGS.TS Lâm Bá Nam, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong
suốt thời gian làm Luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến cán bộ Trung tâm Thư viện Thượng Đình, và
phòng tư liệu Khoa Lịch sử Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp tôi khai thác nguồn tài liệu quý giá.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến Huyện ủy Hoài Đức, Phòng tổ chức
Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Hoài Đức, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đan
Phượng, thành phố Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ thu thập tài liệu để tôi hoàn
thành luận văn.
Và cuối cùng xin được gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp, những người luôn bên cạnh động viên, khuyến khích giúp tôi có được
kết quả như ngày hôm nay.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực song luận văn không tránh khỏi những sai

xót.Tôi rất mong nhận được ý kiến cuả quý thầy cô và các bạn.Xin chân thành
cám ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Học viên

Lê Thị Thúy Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ............................................................... 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 11
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 11
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 12
Chƣơng 1. LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TRONG
NHỮNG NĂM 2005-2008 ............................................................................. 13
1.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Hoài Đức về công tác phụ nữ ......... 13
1.1.1. Các yếu tố tác động và chi phối công tác phụ nữ của Đảng bộ ............ 13
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội .................................................... 20
2.1. Huyện ủy Hoài Đức lãnh đạo công tác phụ nữ từ 2005-2008 ............ 32
2.1.1.Chủ trương của Đảng bộ ........................................................................ 32
2.1.2.Chỉ đạo công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ huyện Hoài Đức từ năm
2005 đến năm 2008 ......................................................................................... 37
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 46
Chƣơng 2. LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TRONG
NHỮNG NĂM 2008– 2014 ........................................................................... 48
2.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Hoài Đức về công tác phụ nữ ......... 48

2.1.1. Những chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ Hà
Nội đối với công tác phụ nữ ............................................................................ 48
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Hoài Đức............................................ 50
2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác phụ nữ của Đảng bộ huyện
Hoài Đức......................................................................................................... 57
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 74


Chƣơng 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM .... 76
3.1.Nhận xét ................................................................................................... 76
3.1.1.Ưu điểm .................................................................................................. 76
3.1.2.Hạn chế................................................................................................... 87
3.2. Kinh nghiệm ........................................................................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................. 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 111
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 121


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

-ANQP

: An ninh quốc phòng

-BCĐ

: Ban chỉ đạo

-BCH


: Ban chấp hành

-BTV

: Ban thường vụ

-CLB

: Câu lạc bộ

-CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

-CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

-HĐND

: Hội đồng nhân dân

-LHPN

: Liên hiệp phụ nữ

-NXB

: Nhà xuất bản


-NTM

: Nông thôn mới

-THCS

: Trung học cơ sở

-THPT

: Trung học phổ thông

-VHXH

: Văn hóa xã hội

-UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Phụ nữ Việt Nam có tiềm năng to lớn, đóng vai trò quan trọng đối với
sự phát triển của xã hội. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 2014, tổng
dân số nước ta đạt gần 90,5 triệu người, trong đó nam chiếm hơn 49%, nữ
chiếm gần 51%.Với tư cách là một nửa dân số, trong lịch sử dựng nước, giữ
nước, qua mọi thời kỳ, phụ nữViệt Nam luôn là lực lượng hùng hậu, có nhiều
đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.Trong lịch sử chiến tranh, người phụ nữ Việt Nam có tấm lòng yêu nước sâu

sắc, với khẩu hiệu “ba sẵn sàng, ba đảm đang” các bà, các mẹ không chỉ là
chiến sĩ chống giặc ngoại xâm, họ còn đóng vai trò rất quan trọng trong tăng
gia sản xuất, là hậu phương vững chắc cho tuyền tuyến góp phần công sức to
lớn của mình trong việc nuôi quân và dân “ăn no đánh thắng giặc”. Ngày nay
trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa phụ
nữ có những mặt cơ bản là trình độ học vấn cao hơn trước, tầm nhìn rộng,
nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước, có khát vọng đưa đất nước
nhanh chống vượt qua nghèo nàn lạc hậu, thực hiện mục tiêu “Dân giàu,nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của Đảng, đã và đang xuất hiện nhiều
tài năng trẻ, nhiều tấm gương sáng trong sản xuất kinh doanh, trong học tập,
hoạt động khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật, trong thể thao và công tác
xã hội. Tại gia đình vị trí của phụ nữ tiếp tục được tôn trọng, chị em tham gia
nhiều trong việc quản lý, tổ chức, chăm lo cuộc sống, quyết định các vấn đề
quan trọng; phụ nữ còn là thành viên tích cực nòng cốt tham gia giữ gìn và
phát huy truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH-HĐH) đất nước. Yêu cầu của công cuộc CNH-HĐH và hội nhập
quốc tế nói chung đòi hỏi phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, động
viên sự nỗ lực của toàn dân trong đó có phụ nữ.Vì vậy giải phóng phụ nữ
1


chính là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(13) là nhiệm vụ của các cấp
Đảng, Chính quyền và đoàn thể trong đó vai trò của Hội LHPN là nòng
cốt.Thực tế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng luôn quan tâm
đến công tác phụ nữ nhằm phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ và
thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng
ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ. Đồng thời, Đảng còn quan tâm lãnh

đạo Nhà nước ban hành các chính sách, pháp luật cụ thể nhằm tạo điều kiện
để phụ nữ phát triển, thúc đẩy bình đẳng giới.
Hoài Đức là một huyện của tỉnh Hà Tây cũ, từ ngày 1/8/2008 huyện
Hoài Đức chính thức trở thành một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Hà
Tây (Đảng bộ thành phố Hà Nội ngày nay) thời kỳ đổi mới, Đảng bộ huyện
Hoài Đức bằng nhiều hình thức, phương thức lãnh đạo khác nhau đã đưa
“phong trào phụ nữ và bình đẳng giới của huyện Hoài Đức đạt được những
thành tựu to lớn” (32, tr.2).
Tuy vậy, trước yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế, công tác phụ nữ nhiều mặt còn hạn chế đồng
thời lại có những vấn đề mới đặt ra với nhiều thách thức chưa đáp ứng yêu
cầu của địa phương(một số cán bộ Hội còn thiếu chủ động trong công tác,
ngại học tập, năng lực trình độ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
của thời kỳ đổi mới, chưa xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
với xã hội, với Nhà nước, chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình mà chưa thực
hiện nghĩa vụ của người công dân. Tỷ lệ tập hợp phụ nữ vào cơ sở Hội còn
chưa đồng đều, có nơi còn thấp, một số phụ nữ trình độ thấp, thiếu hiểu biết
dễ bị kích động, lôi kéo gây cản trở công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
thi công các khu, cụm, điểm công nghiệp và tham gia khiếu kiện đông
người…) (49, tr.2)
2


Từ trước đến nay đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về phụ nữ, về phong
trào phụ nữ, công tác phụ nữ trên nhiều khía cạnh khác nhau.Tuy nhiên, chưa
có một đề tài nào đi sâu, nghiên cứu một cách có hệ thống vềĐảng bộ huyện
Hoài Đức lãnh đạo công tác phụ nữ. Do vậy việc nghiên cứu làm rõ quá trình
lãnh đạo công tác phụ nữ của huyện ủy Hoài Đức, rút kinh nghiệm trong việc
lãnh đạo công tác phụ nữ trên địa bàn cấp quận, huyện hiện nay là vấn đề có ý

nghĩa lí luận và thực tiễn cấp thiết. Chính vì vậy, bằng những kiến thức được
học tập tại lớp Cao học khóa 2013-2015, chuyên ngành Lịch sử Đảng, tôi đã
quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ
huyện Hoài Đức (Hà Nội) từ năm 2005 đến năm 2014” làm luận văn tốt
nghiệp khoá học của mình.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công tác phụ nữ là một bộ phận quan trọng trong công tác dân vận của
Đảng. Vì vậy, thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ.
Thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu về công tác vận động
quần chúng nói chung của Đảng. Đó là:
“Đổi mới các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã
hội trong hệ thống chính trị ở Việt nam” (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006) của GS.TS Lê Hữu Nghĩa. Cuốn sách đi sâu nghiên cứu sự thay đổi
nhận thức của Đảng, Nhà nước trong mối quan hệ với các tổ chức chính trị,
xã hội.Tiếp đó năm 2014 ông là chủ biên cuốn sách “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền”(NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội) với nội dunglà chỉ ra những thành tựu và hạn chế
trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị xã hội
đồng thời đưa ra một nhóm các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị xã hội.

3


“Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trân Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới” (NXB Chính trị quốc gia,Hà
Nội,2009) của Tiến sĩ Đỗ Quang Tuấn nhấn mạnh phương thức lãnh đạo của
đối với Mặt trận và các đoàn thể từ sau đổi mới .
“Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay-Thực trạng,

nguyên nhân, giải pháp” của Trương Thị Thông (NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2010) tập trung phân tích sâu về bệnh quan liêu, thực trạng, nguồn gốc,
nguyên nhân trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp đề phòng và khắc phục
bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.
“Công tác vận động quần chúng của Đảng bộ tỉnh hà Tây từ năm 1996
đến năm 2005” của học viên Bùi Thị Hồng Thúy ( 2008) trình bày nhận thức
, các chủ trương, biện pháp, kết quả tổ chức thực hiện công tác vận động quần
chúng của Đảng bộ tỉnh trong đó có Hội LHPN.
“Không ngừng đổi mới tư duy, làm tốt hơn nữa công tác vận động quần
chúng của đảng” của Tòng Thị Phóng trên tạp chí Cộng sản (số17/2006).
Nhìn chung các tác phẩm kể trên đã hướng tới đường lối chủ trương của Đảng
về công tác phụ nữ (thông qua những chủ trương đối với Hội LHPN, cơ quan
đại diện cho phụ nữ).Tuy nhiên sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội LHPN chỉ
là một phần nhỏ trong phạm vi nghiên cứu. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội
LHPN được trình bày lướt, không cụ thể. Sự đổi mới về tổ chức và hoạt động
của Hội LHPN được đề cập một các chung chung, không chuyên sâu (dung
lượng không lớn) và tập trung chủ yếu vào khía cạnh dân chủ của tổ chức này.
Thứ hai là nhóm công trình nghiên cứu đi sâu vào các vấn đề về
công tác phụ nữ của Đảng. Đó là:
“Phụ nữ, giới và phát triển” của tác giả Trần Thị Vân Anh-Lê Ngọc
Hùng (NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1996).Các tác giả đã trình bày một cách có hệ
thống các khái niệm cơ bản về vấn đề giới, vấn đề phụ nữ và vấn đề phát triển
giúp người đọc nắm được những biểu hiện, xu hướng biến đổi trong đời sống
4


kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình liên quan đến phụ nữ. Bằng những tư liệu
phong phú và những nghiên cứu khoa học mới nhất làm luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chính sách xã hội đối với phụ nữ ngang tầm đổi mới kinh tế.
“Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại

hóa” (phân tích tại Hà Nội) của tác giả Trần Thị Thu (NXB Lao động-xã
hội,2003). Tác giả trình bày các khái niệm cơ bản, những yếu tố ảnh hưởng
đến việc làm cho lao động nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhấn
mạnh sự cần thiết tạo việc làm cho lao động nữ; phân tích thực trạng việc làm
và tạo việc làm cho lao động nữ đồng thời chỉ ra phương hướng và giải pháp
tạo việc làm cho lao động nữ Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
“Vai trò của nữ cán bộ quản lý Nhà nước trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của tác giả Võ Thị Mai (NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội,2003).Tác giả đã trình bày thực trạng và xu hướng biến đổi vai trò nữ
cán bộ quản lý trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng thời đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò, vị thế của nữ cán bộ trước đòi
hỏi của yêu cầu quản lý hiện đại.
“Gia đình Việt Nam và và vai trò của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay”
của tác giả Dương Thị Mịch (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,2004). Nội
dung công trình phân tích các yếu tố cơ bản tác động đến gia đình và vai trò
của phụ nữ Việt Nam trong gia đình; đặc điểm cơ bản của gia đìnhViệt Nam
truyền thống và xu hướng biến đổi vai trò của phụ nữ hiện đại. Từ đó tác giả
nêu ra những vấn đề xây dựng gia đình mới với việc phát huy vai trò của phụ
nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị”
của tác giả Nguyễn Đức Hạt (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007). Cuốn
sách đã đưa ra những luận cứ khoa học và thực tiễn về nâng cao vị trí, vai trò,
năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ, tăng cường sự tham gia lãnh đạo quản lý của
5


phụ nữ trong bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức, đoàn thể ở nước ta trong
tình hình mới.Cuốn sách tập trung vào việc tăng cường và mở rộng cơ hội lựa
chọn cho cả hai giới một cách hợp lý để hai giới có thể phát huy mọi tiềm năng,

sức lực của mình, đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước.
“Thực trạng vai trò vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển
bền vững”của TS Đỗ Thị Thạch (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,2005) đã
chứng minh sức lao động dồi dào, óc sáng tạo phong phú của phụ nữ là nguồn
lực lớn cần được phát huy trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời
tác giả cũng đề xuất các chính sách, kiến nghị, giải pháp phát huy năng lực
của nữ trí thức đóng góp cho phát triển bền vững.
“Bình đẳng giới trong lao động và việc làm với tiến trình hội nhập ở
Việt Nam: cơ hội và thách thức” của Nguyễn Nam Phương (NXB Lao độngxã hội, 2006) trình bày hệ thống lí luận và thực trạng bình đẳng giới trong lao
động và việc làm ở Việt Nam, từ đó đưa ra một giải pháp nhằm nâng cao bình
đẳng giới trong lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay.
"Những vấn đề về giới - từ lịch sử đến hiện đại” của Phan Thanh Khôi
và Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (NXB Lí luận Chính trị, 2007). Các tác giả
cuốn sách đã nghiên cứu các vấn đề về giới (bình đẳng giới và giải phóng phụ
nữ) từ tiếp cận trong các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đến vấn đề giới trong đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam; vấn đề giới trong một số phương tiện
thông tin đại chúng và trong sách giáo khoa.
“Quyền bình đẳng nam nữ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý Nhà
nước ở Việt Nam qua tiến trình phát triển của lịch sử” của TS Trần Thị Rỗi
(NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, H, 2010) đã khái quát bình
đẳng nam nữ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý Nhà nước ở Việt Nam từ thời
Hùng Vương đến nay, đề ra một số giải pháp thực hiện bình đẳng trong hạt
động lãnh đạo, quản lý Nhà nước ở Việt Nam.
6


“Thực trạng và đề xuất giải pháp đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam” do nhóm tác giả thuộc Trung ương Hội
LHPN Việt Nam làm chủ nhiệm đề tài (năm 2012). Tác phẩm tập trung

nghiên cứu và làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội.
“Quan điểm của Đảng, Nhà nước và chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ
và công tác phụ nữ” (NXB Phụ nữ, Hà Nội, Hà Nội, 2012) của tác giả
Nguyễn Thị Tuyết.Thông qua việc cung cấp các văn bản, Nghị quyết của
Đảng ,Nhà nước cũng như những bài viết, bài phát biểu của chủ tịch Hồ Chí
minh về phụ nữ và công tác phụ nữ giúp độc giả có cái nhìn chính xác nhất về
quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn
đề này.
“Đảng với cuộc vận động phụ nữ từ năm1986 đến năm 2009” của học
viên Nguyễn Thị Minh Hải (2010) trình bày một cách có hệ thống và tương
đối đầy đủ những chủ trương của Đảng về công tác vận động vận động từ
năm 1986 đến năm 2009, những chủ trương của Hội LHPN trong chỉ đạo
phong trào phụ nữ; đồng thời khái quát những phong trào phụ nữtừ năm 1986
đến năm 2009. Từ đó đề ra những ưu điểm hạn chế trong công tác vận động
phụ nữ của Đảng, đề xuất những kinh nghiệm lịch sử cho công tác phụ nữ
trong tương lai của Đảng.
“Đảng tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam từ năm 1986
đến năm 1996” của học viên Trương Thị Thủy (2012). Luận văn đã làm rõ sự
lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội
LHPN Việt Nam, vai trò chức năng của Hội LHPN Việt Nam, xác định vị trí,
vai trò của tổ chức Hội trong công tác vận động phụ nữ. Luận văn cũng làm
rõ kết quả lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng và tổ chức hoạt
động của Hội LHPN Việt Nam của 10 năm đầu đổi mới, chỉ rõ bài học kinh
nghiệm lịch sử về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Hội LHPN.

7


“Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền phụ nữ từ năm
1986 đến năm 2012” của học viên Trần Thị Thanh Thủy (2014).Luận văn chỉ

ra được 5 bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện
quyền bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tổng kết lịch sử phong trào phụ nữ phải kể đến cuốn sách “Hai mươi
năm một chặng đượng phát triển của phụ nữ Việt nam1975-1995” của tác
giả Lê Minh (chủ biên) (NXB Phụ nữ Hà Nội, Hà Nội, 1996). Ông đã tổng
kết lịch sử phong trào Phụ nữ Việt Nam từ sau khi thống nhất đến năm 1995
nhằm giáo dục truyền thống, khơi nguồn cách mạng cho các thế hệ Phụ nữ.
Ngoài ra, một số bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí đề cập đến
công tác phụ nữ và vấn đề nữ giới như “Quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực
nữ trong qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của PGS Bùi Thị
Kim Quỳ trên tạp chí Khoa học về xã hội (số 2/1996); “Cơ sở khoa học và
thực tiễn để xác định nghề đào tạo dự phòng cho phụ nữ” của Tiến sĩ Nguyễn
Tín Nhiệm và Tiến sĩ Phan Thị Thanh trên tạp chí Khoa học về phụ nữ (số 4/
2002)…
Các công trình trên đã nghiên cứu công tác phụ nữ ở nhiều góc độ khác
nhau có ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào phụ nữ.
Thứ ba là nhóm các công trình nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phụ nữ ở các địa phƣơng. Đó là:
“Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh thái Nguyên từ
năm 1997 đến năm 2010” của học viên Đoàn Thị Yến (2011) làm sáng tỏ sự
lãnh đạo của Đảng ủy tỉnh Thái Nguyên trong quá trình xây dựng tổ chức và
hoạt động của tỉnh hội phụ nữ và những bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo
của Đảng.
“Công tác vận động phụ nữ của đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm
1997 đến năm 2010” của học viên Nguyễn Thị Minh Phương (2012) đã
trình bày quá trình lãnh đạo của tỉnh ủy Vĩnh Phúc đối với công tác phụ nữ,
chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho sự lãnh đạo của Đảng trong
tương lai.
8



“Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ nữ từ năm
2000 đến năm 2010” của học viên Trần Thị Vinh (2012) trình bày quá trình
Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công tác dào tạo cán bộ từ năm 2000 đến
năm 2010, làm sáng tỏ sự quán triệt và vận dụng sáng tạo của Đảng bộ tỉnh
Nghệ An, từ đó góp thêm cơ sở lịch sử cho việc tiếp tục đào tạo cán bộ nữ
của tỉnh Nghệ An có hiệu quả hơn trong thời gian tới
“Đảng với hoạt động đối ngoại của Hội LHPN Việt Nam từ năm 1996
đến năm 2010” của học viên Hồ Thị Liên Hương (2013) làm sáng tỏ sự lãnh
đạo của Đảng trong hoạt động đối ngoại nhân dân và quá trình hiện thực hóa
chủ trương đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thộng qua hoạt động của
hội LHPN Việt Nam.
“Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo giải quyết việc làm cho lao động nữ ở
nông thôn từ năm 1997 đến năm 2013” của học viên Vũ Thị Ngọc (2014).Tác
giả đã làm sáng tỏ quan điểm,chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Nam trong quá
trình lãnh đạo giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn từ năm 1997
đến năm 2013, rút ra kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo về giải quyết việc
làm cho lao động nữ nông thôn.
Đây là những tài liệu liên quan đến công tác phụ nữ ở cả khía cạnh trực
tiếp hay gián tiếp, chuyên sâu hay khái quát, phạm vi cả nước hay địa phương,
trên cơ sở mục đích nghiên cứu khác nhau, các công trình trên đều đề cập đến
phụ nữ, công tác phụ nữ và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ. Đây
là những tư liệu quý báu, giúp tác giả nghiên cứu kế thừa, chọn lọc những
phương pháp tốt ưu khi tiếp cận nghiên cứu đề tài của mình.
Tuy vậy,trong số các công trìnhtrên chưa có tài liệu, công trình nghiên
cứu nào đề cập đến vấn đề công tác phụ nữ ở địa phương huyện.Vì vậy bên
cạnh việc tiếp cận những công trình nghiên cứu về công tác vận động phụ nữ
Việt Nam, của các tỉnh (thành phố) tác giả rất quan tâm đến những tài liệu

9



liên quan đến công tác thanh niên trên địa bàn huyện Hoài Đức, không gian
nghiên cứu trong đề tài của mình.Những tài liệu này chủ yếu được tác giả khai
thác từ các văn kiện, chương trình , đề án của huyện ủy, các cấp chính quyền,
các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn huyện về công tác vận động phụ nữ.
Ngoài ra hoạt động của phụ nữ thông qua văn kiện Đại hội LHPN qua các kỳ đại
hội cũng như những báo cáo hoạt động hàng năm của tổ chức này cũng được tôi
khai thác sử dụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
-Làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo công tác phụ nữ của Đảng bộ
huyện Hoài Đức từ năm 2005 đến năm 2014.
-Đánh giá sự lãnh đạo của huyện ủy Hoài Đức đối với công tác phụ nữ
trong thời gian từ 2005 đến năm 2014; chỉ ra ưu điểm và hạn chế trong thực
tiễn lãnh đạo. Từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệmnhằm tăng cường sự
lãnh đạo của huyện uỷ đối với công tác phụ nữ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
-Trình bày khái quát các điều kiện tác động, ảnh hưởng đến sự lãnh đạo
của Đảng bộ huyện Hoài Đức đối với công tác phụ nữ.
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hoài
Đức đối với công tác phụ nữ từ năm 2005 đến năm 2014.
- Khảo sát và phân tích thực trạng hoạt động của công tác phụ nữ dưới
sự lãnh đạo của Huyện ủy Hoài Đức từ năm 2005 đến năm 2014.
- Đánh giá và rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu tăng cường sự
lãnh đạo của Huyện ủy Hoài Đức đối với công tác phụ nữ giai đoạn hiện nay
và tương lai sắp tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu


10


Chủ trương và các biện pháp chỉ đạo về công tác phụ nữ của Huyện ủy
Hoài Đức (thành phố Hà Nội) trong những năm 2005-2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương của Đảng bộ huyện Hoài Đức về
công tác thanh niên và hoạt động của công tác thanh niên từ năm 2005 đến
năm 2014.
Về thời gian: Từ năm 2005 (Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI) đến
năm 2014.
Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Hoài Đức (thành phố
Hà Nội).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (trong
thời kỳ đổi mới) về công tác phụ nữ và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phụ nữ; hoạt động lãnh đạo công tác phụ nữ của Huyện ủy Hoài Đức từ năm
2005 đến năm 2014.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong chủ nghĩa Mác -Lênin; đồng thời
sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lô gíc và lịch sử,
phương pháp chuyên gia, thống kê, so sánh, đặc biệt coi trọng phương pháp
tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Góp phần làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của
Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác phụ nữ.

11


6.2. Về mặt thực tiễn
Đây là đề tài luận văn đề cập đến một địa phương cụ thể (cấp huyện), vì
vậy luận văn có nhiệm vụ chủ yếu là đánh giá đúng sự lãnh đạo về công tác
phụ nữ của Huyện ủy Hoài Đức, thành phố Hà Nội thời gian qua (từ năm
2005 đến năm 2014), rút ra bài học kinh nghiệm, góp thêm các giải pháp cho
việc nâng cao sự lãnh đạo của Huyện uỷ về công tác phụ nữ.
Đồng thời, luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ đảng, chính
quyền, các cơ quan ban ngành, các tổ chức chính trị xã hội của huyện Hoài Đức
cũng như các địa phương khác nhằm nâng cao chất lượng công tác phụ nữ, góp
phần phát huy vai trò tích cực của phụ nữ trong xây dựng và phát triển địa phương
ngày càng giàu mạnh
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Lãnh đạo công tác vận động phụ nữ trong những năm 2005-2008
Chương 2: Lãnh đạo công tác vận động phụ nữ trong những năm 2008-2014
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm

12


Chƣơng 1. LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TRONG
NHỮNG NĂM 2005-2008
1.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Hoài Đức về công tác phụ nữ
1.1.1. Các yếu tố tác động và chi phối công tác phụ nữ của Đảng bộ
1.1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt
Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ và công tác vận

động phụ nữ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Quan điểm duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định:
Địa vị của phụ nữ trong xã hội không phải là một hiện tượng riêng biệt, tách
rời ngoài xã hội, bất di bất dịch, mà gắn liền với sự biến đổi của xã hội loài
người trải qua các hình thái kinh tế xã hội cùng với phương thức sản xuất và
những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.Trong quá trình phát triển của xã hội
loài người, phụ nữ có vai trò lớn. C. Mác cũng đã khái quát như sau: “Ai đã
biết về lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp
vào thì chắc chắn không làm nổi, xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con
gái thì biết xã tiến bộ như thế nào”(61,tr. 281). Nói về con đường giải phóng
phụ nữ, Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là
bộ phận khăng khít gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp và cuộc đấu
tranh cách mạng để xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa “muốn giải phóng phụ nữ thì trước hết phải xóa bỏ chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, phải xóa bỏ ách áp bức bóc lột giai cấp
và ách nô dịch dân tộc”(61,tr.20-21). V.l.Lênin khi nói về chính quyền Xô
viết và địa vị của người phụ nữ, ông đã khẳng định: không thể và không bao
giờ có “tự do” thực sự chừng nào phụ nữ còn chưa giải phóng khỏi độc quyền
mà luật pháp giành riêng cho “nam giới” “Không có một nước cộng hòa tư
sản nào dù là nước tiên tiến nhất đã để lại cho một nửa loài người là nữ giới
được hoàn toàn bình đẳng với nam giới trước pháp luật và giải phóng phụ nữ
13


khỏi sự bảo trợ và sự áp bức của nam giới”(58, tr.325). Vì vậy để giải phóng
phụ nữ theo ông phải thực hiện các chính sách sau: Một là hủy bỏ pháp luật tư
sản, ban hành pháp luật mới, tôn trọng quyền bình đẳng nam,nữ. Hai là không
chỉ giải phóng phụ nữ bằng pháp luật, để phụ nữ thực sự bình đẳng, phải đưa
phụ nữ trực tiếp tham gia quản lý đất nước, xây dựng củng cố quốc phòng. Ba

là không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài xã hội mà còn giải phóng họ ngay
trong gia đình bởi gánh nặng của công việc nội trợ làm họ không thể phát
triển như nam giới.
Có thể nói lý luận về giải phóng con người, giải phóng phụ nữ của Chủ
nghĩa Mác- Lênin thấm đượm bản chất nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Đấu tranh
cho tiến bộ, bình đẳng của phụ nữ, giải phóng cho phụ nữ là một nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh
Vị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau này là chủ tịch Hồ Chí Minh là người
đầu tiên đề cập đến vấn đề giải phóng phụ nữ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ
nữ được thể hiện ngay trong Chánh cương vắn tắt năm 1930 của Đảng do Hồ
Chí Minh soạn thảo, trong đó nêu rõ: “Về phương diện xã hội -Nam nữ bình
quyền”(65, tr.120)... Người đã 745 lần nhắc đến từ “nữ” trong các tác phẩm
của mình, trong đó có 440 lần là “phụ nữ”, 20 lần là “thiếu nữ”, 3 lần là
“thanh nữ”. Có 726 lần Người nhắc đến từ “bà” trong các khái niệm “bà cụ”,
“cụ bà”, “bà mẹ”, “bà già, trẻ em”, “Bà Trưng”, “Bà Triệu” và bà với tư cách
là một nhân vật cụ thể. Có 255 lần Người nhắc đến từ “gái” trong các khái
niệm“em gái”, “cháu gái”, “bé gái”, “dân quân gái”, “thanh niên gái”, “ý tá
gái”. Người cũng có 226 nhắc đến từ “mẹ” và 169 lần nhắc đến từ “vợ”...(92)
Bác khẳng định “Đàn bà con gái cũng nằm trong nhân dân. Nếu cả dân
tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại nếu dân tộc còn
trong cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sẽ sống trong cảnh nô lệ đó
thôi”(66, tr.112).Và, “những lời ấy không phải câu nói lông bông.Xem trong
14


lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham
gia”(66, tr.443); “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội.nếu không giải phóng
phụ nữ thì không giải phóng nửa loài người”(65,tr.532)
Ghi nhận những thành tích đóng góp của phụ nữ trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, Người tặng phụ nữ Việt Nam 8
chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” và khẳng định: “Non
sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà
thêm tốt đẹp, rực rỡ”(65, tr.431-432).
Từ vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước
giàu đẹp, Bác là người đi tiên phong trong phong trào đấu tranh đòi quyền
bình đẳng nam nữ. Bình đẳng không chỉ về chính trị mà còn từ sinh hoạt
của đời sống xã hội và trong gia đình ... Vì vậy tư tưởng giải phóng phụ nữ
không chỉ là một trong 4 điểm chính được Bác Hồ đưa ra trong văn kiện thành
lập Đảng (2/1930) và còn được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại
Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945: “Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc” (67, tr.9) và Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
năm 1946 “… tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang
hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công
dân”(66, tr.974).
Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, trên cơ sở xác định một trong những nội
dung quan trọng để giải phóng phụ nữ triệt để là thực hiện quyền bình đẳng,
Người luôn nhắc nhở các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức phải tạo điều
kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia hoạt động,phải bồi dưỡng cho phụ nữ để
nhiều chị em có thể thay cho nam giới trong công việc. Trước lúc đi xa, trong
Di chúc thiêng liêng để lại cho dân cho nước, Bác căn dặn toàn Đảng, toàn
dân “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần

15


xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có
kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều

phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”(8, tr.30).
Với phụ nữ, Người cho rằng chị em phụ nữ dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng phải tự cố gắng vươn lên để khẳng định mình, tự giải phóng mình
chứ không phải chờ Đảng, Chính phủ đề ra các chủ trương, chính sách: “Bản
thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến
quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(8, tr.29). Theo đó mỗi người phụ nữ
phải nâng cao tinh thần làm chủ, phải xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti, cố gắng
học tập và phấn đấu “phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở
khả năng của mình, nâng cao tinh thần giúp đỡ lẫn nhau”(69,tr.518)
Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt
cho phụ nữ và công tác phụ nữ. Thực hiện lời dạy của Người là nhiệm vụ
trước hết của phụ nữ đồng thời là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và
toàn xã hội.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Công tác vận động phụ nữ là một bộ phận của công tác vận động quần
chúng, đó là toàn bộ những hoạt động của Đảng, của Nhà Nước và các đoàn thể
nhân dân, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, nhằm tác động đến mọi đối
tượng phụ nữ một cách đồng bộ để bồi dưỡng, tổ chức động viên phụ nữ phát huy
mọi tiềm năng, thế mạnh; tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển cống hiến, trưởng
thành vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ một mặt dựa trên quan điểm
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ, mặt khác
xuất phát từ đặc điểm tình hình phụ nữ Việt Nam.Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta
đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, thiết thực nhằm phát huy khả năng của
phụ nữ trong công cuộc xây dựng đất nước. Nó luôn luôn được quán triệt trong các
văn kiện, chỉ thị, Nghị quyết của Đảng; bằng thông tư, chỉ thị; trong bài phát biểu,
16


bài nói chuyện của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước qua mỗi thời kỳ đặc

biệt thời kỳ đổi mới.
Khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Nghị quyết số 04-NQ/TW về
Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới của Bộ
Chính trị ngày 12/7/1993 đã viết: “Phụ nữ Việt Nam có truyền thống lịch sử
vẻ vang, có những tiềm năng to lớn, là một động lực quan trọng của công
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội” và xác định: “phải xem giải
phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới
và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(13).Nghi quyết có tầm
quan trọng đặc biệt, là điểm khởi đầu cho đường lơi mới của Đảng về công
tác thanh niên thời kỳ đổi mới.
Ngày 16/5/1994 Ban Bí thư Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 37CT/TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Chỉ thị
khẳng định: “Cần xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động
nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng…Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nữ
làm công tác khoa học- kỹ thuật, kinh tế, pháp luật, hành chính, quản lý nhà
nước,...cán bộ nữ dân tộc ít người, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa...”(14).
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), trong
phần Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, Báo cáo chính trị ghi rõ:
“Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi
dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ
nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp,
các ngành, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để
phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”(19). Điểm nổi bật của Đại hội này là lần đầu tiên
thuật ngữ “bình đẳng giới” xuất hiện trong văn kiện thay cho cụm từ “bình
đẳng nam nữ” hoặc “quyền bình đẳng cho phụ nữ” .

17



Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
(4/2006) tiếp tục khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật
chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện
tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu
tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều
vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp... Kiên
quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và
xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”(21).
Đặc biêt ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Nghị quyết đã nêu lên những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước: “ Phát huy vai trò,
tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng
giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những
nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
mới…Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai
trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong
chiến lược công tác cán bộ của Ðảng. Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình…”(23).
Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá X) cũng đã chỉ rõ: Phấn
đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng trình độ về mọi mặt, có trình độ học
vấn, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã hội, bình
đẳng trên mọi lĩnh vực, đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình.
Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới
tiến bộ nhất của khu vực. Điểm khác biệt giữa Nghị quyết này với các Nghị
18



×