Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

công tác vận động phụ nữa của đảng bộ tỉnh vĩnh phúc tu nam 1997 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MINH PHƢƠNG

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MINH PHƢƠNG

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS: Vũ Quang Hiển

Hà Nội - 2012
2



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Phụ nữ luôn là lực lượng xã hội rộng lớn, có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng
trong tiến trình lịch sử dân tộc. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã
chứng minh rằng: Phụ nữ Việt Nam có những đóng góp vô cùng to lớn trên tất cả
các lĩnh vực: sản xuất, chiến đấu, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… và hơn hết
người phụ nữ có thiên chức tái sản xuất ra bản thân con người để duy trì và phát
triển xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò và những đóng góp to
lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và thường xuyên có những
nghị quyết, chỉ thị về công tác nữ xuất phát từ yêu cầu của phong trào nữ nhằm tập
hợp, khích lệ và phát huy vai trò của chị em.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước , Đảng và Nhà nước Việt Nam không chỉ chú
trọng đến việc đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ , mà còn ban hành nhiều chính
sách nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ. Vai trò của phụ nữ
được tăng cường trong các hoạt động quản lý nhà nước . Vị trí của phụ nữ trong xã
hội ngày càng được tôn trọng và khẳng định sự đóng góp của đội ngũ cán bộ nữ trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chỉ rõ: "Phát huy
vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên
mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục
tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới” [27, tr. 3].
Trên tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng, công tác vận động phụ nữ ở
tỉnh Vĩnh Phúc đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và
toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, từ khi tỉnh Vĩnh Phúc được tái thành lập
(1997), dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, phong trào phụ nữ đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng, ngày càng khẳng định là một trong những nhân tố quyết định thắng

lợi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

3


2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về chủ trương , đường lối vận động phụ nữ của Đảng đã có
những công trình:
Cuốn sách: Những quan điểm cơ bản trong công tác vận động phụ nữ, Nhà
xuất bản Phụ nữ, 1995, đã trình bày những quan điểm cơ bản của Đảng trong công
tác vận động phụ nữ tham gia cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vai trò và nhiệm
vụ của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn mới của cách mạng, Lê Duẩn, Nhà xuất
bản Sự Thật , Hà Nội, 1974, đã nêu bật quan điểm và chủ trương vận động phụ nữ
của Đảng trước yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ.
Một số công trình nghiên cứu về lịch sử phong trào phụ nữ cũng góp phần
khẳng định vai trò, vị trí của phụ nữ Việt Nam như: Hai mươi năm một chặng đường
phát triển của phụ nữ Việt Nam 1975 - 1995 của Lê Minh (chủ biên), Nhà xuất bản
Phụ nữ, 1996; Những nét sơ lược về phong trào phụ nữ từ ngày thành lập Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ban Tuyên huấn Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Nhà xuất bản Phụ nữ, 1961.
Bên cạnh đó, những công trình đề cập đến lịch sử Hội cũng như phong trào
phụ nữ ở những địa phương cụ thể: Bắc Kạn, Hải Phòng, Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh… đã tập hợp những tài liệu liên quan đến quan điểm, chủ trương của
Đảng, Nhà nước về lãnh đạo phong trào phụ nữ trong từng thời kỳ cách mạng.
Công trình luận văn:
Luận văn khoa học lịch sử của tác giả Nguyễn Thị Hà , (2008) Đảng với cuộc
vận động phụ nữ 1930 - 1945, lưu tại Thư viện Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội đã đi sâu nghiên cứu đường lối vận động phụ nữ của Đảng và diễn tiến
phong trào đấu tranh của phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng giai đoạn 1930 – 1945.
Tuy nhiên luận văn mới chỉ dừng lại đường lối vận động phụ nữ của Đảng thực hiện

nhiệm vụ giành độc lập dân tộc.
Luận văn khoa học lịch sử của tác giả Trần Thị Minh Hải (2010): “Đảng với
cuộc vận động phụ nữ từ năm 1986 đến năm 2009”. Luận văn đã tập hợp được một
cách cụ thể và chính xác những chủ trương của Đảng về vận động phụ nữ từ năm
1986 đến năm 2009 qua việc khảo sát các văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết,

4


Chỉ thị của Bộ chính trị, đã trình bày được những chủ trương của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam trong việc chỉ đạo phong trào phụ nữ, đồng thời đã khái quát được
phong trào phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chủ yếu và các phong trào thi đua yêu
nước của phụ nữ diễn ra trong giai đoạn 1986 - 2009. Qua việc nghiên cứu chủ
trương vận động phụ nữ của Đảng và phong trào phụ nữ từ năm 1986 đến năm
2009, tác giả đã rút ra được những nhận xét về ưu điểm, hạn chế trong công tác vận
động phụ nữ của Đảng và nêu lên những kinh nghiệm lịch sử để công tác vận động
phụ nữ đạt kết quả cao hơn, thiết thực hơn.
Bài tham luận của tác giả Đặng Thị Vân Chi "Đường lối vận động phụ nữ của
Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc" (Hội thảo quốc tế Việt
Nam học lần II: Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại,
tháng 7 - 2004). Bằng cách tiếp cận tư liệu báo chí và ấn phẩm, tác giả đã bước đầu tiếp
cận với đường lối vận động phụ nữ của Đảng trong những năm 1930 - 1945.
Về công tác phụ nữ ở Vĩnh Phúc có những công trình sau:
Cuốn "Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Vĩnh Phú : 1930 - 1996, sơ thảo, Ban
Chấp hà nh Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉ nh Vĩ nh Phú

, 1996, đã khái quát về lịch sử

phong trào phụ nữ tỉnh Vĩnh Phú từ năm 1930 đến năm 1996. Tác phẩm đã đề cập
đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú đối với phong trào phụ nữ. Đây là công

trình cung cấp khá đầy đủ về phong trào phụ nữ trước khi tái lập tỉnh, cung cấp
những dữ liệu quan trọng giúp cho sự đánh giá, so sánh phong trào phụ nữ Vĩnh
Phúc sau khi tái lập tỉnh với những giai đoạn trước.
Cuốn “Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc (1930 - 2010)”, Ban Chấp
hành Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà
Nội, 2010, đã khái quát về lịch sử phát triển của phong trào phụ nữ tỉnh từ năm
1930 đến năm 2010. Trong đó có phần đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh
Phúc đối phong trào phụ nữ. Tuy nhiên, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ đối với phong
trào phụ nữ còn dừng lại ở những nét đại thể, khái quát.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết về hoạt động của Hội LHPN tỉnh, về phong
trào phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc trên các báo: Báo Vĩnh Phúc, các trang báo mạng, trên
kênh thông tin điện tử Vinhphuc. org.vn....

5


Các công trình trên hoặc có đề cập những chủ trương , chính sách của Đảng
về cuộc vận động phụ nữ ở Vĩnh Phúc một cách chung nhất , chưa đi sâu, trình bày
có hệ thống và phân tích đườ ng lối , cách thức tổ chức của Đảng đối với công tác
phụ nữ, cũng như chưa tổng kết được kinh nghiệm lãnh đạo đó trong bối cảnh tỉnh
mới được tái lập từ năm 1997 đến năm 2010. Để có một cái nhìn toàn diện và cụ thể
về cuộc vận động phụ nữ của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010
thì nhất thiết phải có sự tổng hợp một cách cụ thể, hệ thống từ chủ trương, đường
lối của Đảng đến việc hưởng ứng, áp dụng những chủ trương ấy trong phong trào
phụ nữ ở địa phương và những kết quả đạt được cụ thể của cuộc vận động đó.
Tuy vậy, những tài liệu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng, là một phần tư liệu
quý giá để gợi ý cho chúng tôi nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn vấn đề: "Công tác vận
động phụ nữ của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm sáng tỏ công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm
1997 đến năm 2010, từ đó rút ra những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ
trong công tác vận động phụ nữ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày một cách có hệ thống diễn biến của công tác vận động phụ nữ của
Đảng bộ Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010 qua hai khoảng thời gian: 1997 - 2000,
2001 - 2010, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể, với những kết quả cụ thể.
- Đánh giá, nhận xét những ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong
công tác vận động phụ nữ cùng với những nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiêm cứu
- Những chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong công tác
vận động phụ nữ từ năm 1997 đến năm 2010.
- Những chủ trương và biện pháp của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh
Vĩnh Phúc trong việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng bộ về công tác vận
động phụ nữ từ năm 1997 đến năm 2010.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
`- Thời gian: từ năm 1997 đến năm 2010, năm 1997 là năm tỉnh Vĩnh Phúc
và Đảng bộ Vĩnh Phúc được tái lập, năm 2010 là mốc thời gian có ý nghĩa tương
đối, là mốc thời gian lựa chọn bảo vệ đề tài. Tuy nhiên trong luận văn cũng đề cập
đến công tác vận động phụ nữ và phong trào phụ nữ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
trước năm 1997, mặt khác quá trình làm luận văn cũng đề cập đến một số tư liệu sau
năm 2010 để có thêm cơ sở đánh giá.
- Không gian: Chỉ nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nhưng cũng có sự
so sánh ở mức độ nhất định với một số địa phương, chủ yếu với Phú Thọ - tỉnh cũng
tách ra từ tỉnhVĩnh Phú cũ, để làm rõ điểm riêng, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Phúc.
- Nội dung vấn đề nghiên cứu: Luận văn đề cập đến đặc điểm tình hình địa
phương về các mặt tự nhiên, xã hội, truyền thống có ảnh hưởng đến công tác vận động
phụ nữ của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, thực tiễn diễn biến của công tác vận động phụ nữ
trên địa bàn tỉnh, quá trình thực hiện chủ trương của Đảng bộ về công tác vận động phụ
nữ, đánh giá ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ trong những năm 1997 - 2010.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Nguồn tư liệu chính là toàn bộ văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Phúc, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm
2010. Bên cạnh đó còn có các sách, báo, tài liệu lưu trữ viết về các phong trào phụ
nữ tỉnh trong thời kì này. Ngoài ra còn có các bài viết liên quan đến đề tài trên các
báo, tạp chí như: Tạp chí Khoa học và phụ nữ, Tạp chí nghiên cứu Gia đình và
giới.v.v...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, thống kê
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày một cách có hệ thống và toàn diện về chủ trương, chính sách lãnh
đạo công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm
2010. Qua đó khẳng định và làm rõ vai trò của Đảng bộ trong việc tổ chức , hướng

7


dẫn và lãnh đạo phụ nữ tích cực tham gia vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh.
- Nêu lên một số kinh nghiệm của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong lãnh đạo công
tác vận động phụ nữ trong những năm 1997 - 2010.
- Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu lịch sử
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và lịch sử Đảng nói chung trên lĩnh vực lãnh đạo

công tác vận động phụ nữ.
7. Bố cục luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
chia làm ba chương:
Chƣơng I . Công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ tỉ nh Vĩnh Phúc từ
năm 1997 đến năm 2000.
Chƣơng II. Công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ
năm 2001 đến năm 2010.
Chƣơng III. Ƣu điểm, hạn chế và bài học kinh nghiệm .

8


Chương 1
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NƢ̃ CỦA ĐẢNG BỘ TỈ NH
VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000
1.1. Điều kiện lịch sử và chủ trƣơng của Đảng bộ
1.1.1. Điều kiện lịch sử
Vĩnh Phúc gồm hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên được thành lập khi thực dân Pháp
đến xâm lược Việt Nam. Tỉnh Vĩnh Yên thành lập năm 1890; tỉnh Phúc Yên thành lập
năm 1901. Ngày 12-2-1950, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra nghị định
số 03/TTg hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên thành tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 26-1-1968, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504/NQ-QH
hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú. Đến tháng 11 - 1996,
Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 thông qua Nghị quyết về việc phân chia địa giới
hành chính của một số tỉnh, trong đó có tỉnh Vĩnh Phú chia tách thành hai tỉnh là
Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Như vậy, sau gần 29 năm hợp nhất, tỉnh Vĩnh Phúc được tái
lập và bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1997.
Sau ngày tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc có sáu đơn vị hành chính trực thuộc là thị xã
Vĩnh Yên, và năm huyện: Mê Linh, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Lập Thạch, Yên Lạc,

với tổng số 148 xã, phường, thị trấn. Tháng 9 - 1998, huyện Tam Đảo tách thành hai
huyện Tam Dương và Bình Xuyên. Tháng 8 - 1999, Chính phủ ra Nghị định điều
chỉnh địa giới và mở rộng thị xã Vĩnh Yên, nên toàn tỉnh có 150 xã, phường, thị
trấn. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 1.370,73km2; đất nông nghiệp chiếm 46,4%
diện tích (64.387 ha); dân số gần 1,2 triệu người, trong đó: dân số nông nghiệp
chiếm 91,35%, dân tộc thiểu số chiếm 2,7%, mật độ dân số khoảng 800 người/km2
[1, tr.560]. Toàn tỉnh có huyện Lập Thạch, huyện Sông Lô và 39 xã được chính phủ
công nhận là miền núi.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về mở rộng địa giới, hành
chính Thủ đô Hà Nội, từ ngày 1-8-2008, huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc
chuyển toàn bộ về Thành phố Hà Nội. Hiện nay Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên
1.231km2, dân số 10,2 triệu người. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính, 1 thành phố, 1 thị
xã và 07 huyện, 137 xã phường, thị trấn, trong đó có 39 xã miền núi.

9


Vĩnh Phúc là một tỉnh trung du ở Bắc Bộ nằm bên tả ngạn sông Hồng; là
vùng chuyển tiếp, cầu nối giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh trung du và miền núi phía
Bắc. Phía Đông và phía Nam giáp thủ đô Hà Nội; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía
Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang. Ở vị trí cửa ngõ thủ đô, trung tâm kinh
tế, chính trị, văn hoá của cả nước nên nhân dân Vĩnh Phúc nói chung và phụ nữ
Vĩnh Phúc nói riêng rất nhanh nhạy nắm bắt thời cuộc, sớm tiếp thu ảnh hưởng của
phong trào yêu nước, phong trào cách mạng của thủ đô và các tỉnh lân cận.
Trong tỉnh hình thành ba vùng địa hình xen kẽ là: rừng núi, đồng bằng và đồi
gò. Vùng rừng núi nằm ở phía bắc tỉnh, tiếp giáp với núi rừng của hai tỉnh Tuyên
Quang và Thái Nguyên, trong đó có hai dãy núi quan trọng: dãy Tam Đảo (ngọn
cao nhất 1.591m) và dãy Sáng Sơn cao 633m. Vùng đồng bằng nằm phí a Nam tỉ nh
bao gồm các huyện Mê Linh , Vĩnh Tường, Yên Lạc. Giữa vùng rừng núi và vùng
đồng bằng là vùng đồi gò xen kẽ nhau từ Đông sang Tây.

Đặc điểm sinh thái trên tạo điều kiện phát triển nông nghiệp đa dạng về cây
lương thực, cây ăn quả, chăn nuôi và phát triển kinh tế đồi rừng. Dọc theo dãy Tam
Đảo với nhiệt độ trung bình 180C, có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, rất
thuận lợi cho phát triển du lịch.
Vĩnh Phúc đã trở thành một bộ phận cấu thành của vùng vành đai phát triển
công nghiệp các tỉnh phía Bắc; sự hình thành và phát triển các tuyến hành lang giao
thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích gần hơn với các
trung tâm kinh tế, công nghiệp và những thành phố của quốc gia và quốc tế: Hành lang
kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2 Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc,
hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành đai IV thành phố Hà Nội.
Do vị trí thuận lợi và chính sách đầu tư hợp lý của tỉnh, Vĩnh Phúc là một địa
chỉ hấp dẫn của các nhà đầu tư. Tháng 7 - 2003, Vĩnh Phúc được Chính phủ phê
duyệt là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Vĩnh Phúc có hệ thống giao thông đa dạng, gồm cả đường sắt, đường bộ và
đường thuỷ, gần sân bay quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa Thủ đô Hà Nội với các
tỉnh miền núi phía Bắc và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), vì vậy rất thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập, đặc biệt vùng đất cao, có những thuận lợi trong
thu hút đầu tư phát triển các khu công nghiệp.

10


Vào thời điểm tái lập, Vĩnh Phúc vẫn là tỉnh nghèo, với xuất phát điểm kinh
tế rất thấp, GDP bình quân đầu người chỉ bằng 48% so với bình quân chung của cả
nước, kinh tế hàng hóa chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (chiếm
52,5% giá trị GDP), dân số ở nông thôn chiếm hơn 90% [1, tr.561]. Khoảng 10,7%
hộ nghèo do thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất, không có việc làm, đông con.
Thu nhập thấp, đời sống của nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (hơn 50% là phụ nữ) còn gặp
rất nhiều khó khăn [3, tr.306].
Dân số của tỉnh có gần 1,2 triệu người, tỷ lệ nữ chiếm 51,8%, đây là nguồn

cung cấp lực lượng lao động dồi dào, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, xã hội của
tỉnh, số người trong độ tuổi lao động là nữ chiếm 54,7%.
Toàn tỉnh Vĩnh Phúc, ngoài dân tộc Kinh, có hơn 30 dân tộc thiểu số. Trong
đó, dân tộc Kinh chiếm hơn 97%, dân tộc thiểu số chỉ chiếm 2,7% (bao gồm các
dân tộc chính là: Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, Sán Chay, Sán Dìu). Sán Dìu là
dân tộc đông dân nhất trong các dân tộc thiểu số ở Vĩnh Phúc, chiếm hơn 80% tổng
dân số các dân tộc thiểu số trong tỉnh. Các dân tộc thiểu số đều sinh sống tập trung
ở ven phía nam chân núi Tam Đảo, thuộc địa bàn các huyện Tam Đảo, Lập Thạch,
Tam Dương, Bình Xuyên và thị xã Phúc Yên.
Tuy có tộc người là dân bản địa có mặt từ xa xưa, có tộc người mới nhập cư
gần đây nhưng do những yếu tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội, lịch sử, các tộc người
sống trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đều hòa nhập thành một cộng đồng đoàn kết,
thống nhất cùng chung sống. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những tinh hoa, truyền
thống tốt đẹp của mỗi dân tộc càng được phát huy.
Hàng nghìn năm nay, phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc là người phải đảm nhận phần
lớn công việc gia đình, từ việc lao động nặng nhọc đến việc nội trợ, nuôi dạy con
cái. Khi mới tái lập tỉnh, đời sống kinh tế của phụ nữ còn gặp nhiều khó khăn,
thêm vào đó trình độ dân trí không đồng đều giữa các vùng, miền trong tỉnh. Do có
lúc, có nơi nhận thức chưa đầy đủ về bình đẳng giới, phụ nữ không được đánh giá
đúng khả năng, vai trò của mình trong gia đình và xã hội. Sự bất bình đẳng đối với
phụ nữ đã kìm hãm sự sáng tạo, tính độc lập của phụ nữ, tạo ra thói quen an phận,
nhẫn nhục trong gia đình và làng xã.

11


Một tính cách đặc trưng nổi bật của phụ nữ Vĩnh Phúc là lòng yêu nước , yêu
quê hương, tinh thần đấu tranh kiên cường , bất khuất trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài của lịch sử dân tộc và quê hương.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt

Nam, Vĩnh Phúc được xem như một vùng đất cổ sớm được người Việt đến định cư
sinh sống. Thời kỳ Hùng Vương dựng nước, Vĩnh Phúc nằm trong địa bàn Phong
Châu - kinh đô đầu tiên của Nhà nước Văn Lang. Mở đầu trang sử oanh liệt chống
ngoại xâm của dân tộc những năm đầu Công nguyên là khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ
ra trên đất Vĩnh Phúc vào mùa xuân năm Canh tý (năm 40 sau công nguyên). Trong
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tổng số 103 tướng chỉ huy, có 51 vị tướng nữ, riêng Vĩnh
Phúc có 28 nữ tướng phụ trách các mũi tiến quân và trấn giữ cửa ải [3, tr.17]. Trong
số những người phụ nữ tiêu biểu tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng có thể kể đến
các nữ tướng tiêu biểu như: Bà Lê Thị Ngọc Chinh, bà Do La Thần Nữ, Hồng
Nương, Thanh Nương…. Ngày nay rất nhiều truyền thuyết, thần tích, đền miếu thờ
Hai Bà Trưng và các nữ tướng của hai bà vẫn còn truyền tụng trong dân gian và
được thờ phụng với nghi lễ cúng tế tôn kính.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thế kỉ XIII, tên tuổi của
Bà Lỗ Thị Bồ (tức Bảy ) người xã Bồ Lý , huyện Lập Thạch cùng nghĩa binh nữ
dũng của bà được lưu truyền là nghĩa quân bất khuất cùng quân dân cả nước đánh
giặc Mông - Nguyên thắng nhiều trận lớn. Sau chiến thắng, bà được nhà Vua ban
tước hiệu "Đô dũng thống chế đại vương, đại tướng quân" và ban thưởng cho vùng
đất Đinh Sơn (núi Đinh) [3, tr.19].
Như vậy, ngay từ những trang sử vàng đầu tiên của cuộc đấu tranh giành và
bảo vệ nền độc lập dân tộc, hình ảnh người phụ nữ Vĩnh Phúc đã được in đậm như
một dấu son trong tiến trình phát triển của đất nước. Truyền thống quý báu của phụ
nữ Vĩnh Phúc đã được kế thừa và phát huy qua nhiều thế hệ với những tấm gương
sáng về đức tính cần cù, lòng dũng cảm thông minh, chính trực trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước. Cái tâm, cái đức của người phụ nữ Vĩnh Phúc ngàn đời nay
được tập trung ở hình tượng Quốc mẫu đã giúp chồng là vua Hùng Chiêu Vương và
con là Hùng Vỹ Vương kế tục truyền thống họ Hùng lâu dài được nhân dân lập đền

12



thờ trên núi Tam Đảo được gọi là đền Tây Thiên. Các triều đại phong kiến Việt
Nam về sau đều phong tặng sắc phong: "Tam Đảo sơn trụ Quốc Mẫu thái phu nhân
tôn thần"
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và xây dựng
đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Vĩnh Phúc đã phát huy khả năng và
khẳng định vai trò, vị trí của mình, xứng đáng với truyền thống của phụ Việt Nam
"Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ cả nước nói chung và phụ nữ tỉnh Vĩnh
Phúc nói riêng đã phát huy cao độ truyền thống cách mạng vẻ vang của mình.
Ngay từ năm 1930, tổ chức phụ nữ giải phóng đã ra đời ở thị xã Vĩnh Yên và
một số làng thuộc huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Dương, Bình Xuyên, Lập Thạch,
trong đó nổi bật là phong trào phụ nữ làng Bích Đại (xã Đại Đồng - huyện Vĩnh
Tường). Nhiều cuộc đấu tranh riêng của phụ nữ đã làm chính quyền thực dân khiếp sợ
(như cuộc biểu tình đòi giảm thuế môn bài của 40 chị em phụ nữ thị xã Vĩnh Yên ngày
10-9-1930 và chị em thị xã Phúc Yên ngày 23-1-1937)... là những cuộc đấu tranh mở
đầu cho cao trào phụ nữ Vĩnh Phúc đấu tranh chống bè lũ tay sai sau này
Thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám (1939 - 1945), nhiều chị em đã
tham gia hoạt động nuôi giấu cán bộ hoặc cơ quan Đảng. Trải qua thực tiễn cách
mạng, nhiều phụ nữ Vĩnh Phúc đã trưởng thành nhanh chóng như: chị Lê Thị Lịch,
Trần Thị Sinh, Lê Thu Trà, Trần Thị Minh Châu, Khuất Thị Vĩnh, Nguyễn Thị Tạo,
Thái Bảo... Tên tuổi của các chị gắn với sự trưởng thành của phong trào cách mạng
của Hội phụ nữ Vĩnh Phúc trong nhiều năm.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Pháp, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc,
thực dân Pháp thiết lập hệ thống chiếm đóng trên 4/5 đất đai tỉnh, bộ máy ngụy
quân, ngụy quyền do Pháp dựng lên làm chỗ dựa đắc lực để đánh phá các cơ sở
kháng chiến. Hội phụ nữ Vĩnh Phúc đã vững vàng vượt qua thử thách, tập hợp các
tổ chức đấu tranh chống kẻ thù.
Kháng chiến chống Pháp thành công, phụ nữ Vĩnh Phúc cùng nhân dân cả
nước bước vào thời kỳ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1955 - 1975), phụ nữ Vĩnh Phúc đã tích cực tham gia phong trào khôi


13


phục, hàn gắn vết thương chiến tranh: phong trào “phụ nữ 5 tốt”, “phụ nữ 3 đảm
đang” do Trung ương Hội LHPN Việt Nam phát động, tạo nên động lực cho phong
trào phụ nữ vượt qua thử thách, khó khăn và vươn lên hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Đến năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối,
cùng với phụ nữ cả nước, phụ nữ Vĩnh Phúc đã vận động chị em tham gia phong
trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (1978 - 1988) do Trung ương
Hội phát động, với các cuộc vận động: “Cánh đồng Hai Bà Trưng”, “Phong trào
phục vụ nông nghiệp”, “Tiết kiệm trong sản xuất”..., chị em đã tích cực phấn đấu và
đạt thành tích đáng kể.
Sau hơn 10 năm đổi mới , cùng với sự phát triển chung của đất nước , phong
trào phụ nữ và hoạt động của các cấp Hội Phụ nữ trong tỉnh đã có những bước phát
triển mới. Về tổ chức bộ máy, Hội LHPN tỉnh Vĩnh Phúc gồm 7 huyện, thị, 2 đơn vị
trực thuộc, 151 cơ sở hội và 400 đơn vị nữ công [5, tr.3]. Đó là những thuận lợi cơ
bản để phụ nữ các dân tộc và nhân dân trong tỉnh phân đấu xây dựng quê hương
Vĩnh Phúc giàu mạnh.
Thực hiện chính sách đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, phát huy
truyền thống tốt đẹp của phụ nữ, với tinh thần tự lực vượt khó, bằng trí thông minh,
sáng tạo, vươn tới sự bình đẳng, tiến bộ, đông đảo các tầng lớp chị em phụ nữ đã
vươn lên tự khẳng định mình và có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự phát triển của
gia đình, cộng đồng và xã hội. Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới ở
Vĩnh Phúc có nhiều đóng góp của lực lượng phụ nữ .
Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phụ nữ Vĩnh
Phúc vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết:
- Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức văn hoá - xã hội của một
bộ phận không nhỏ phụ nữ còn thấp. Phụ nữ nông dân ít được đào tạo nghề. Phụ nữ
dân tộc ít người còn một bộ phận lớn mù chữ. Đặc biệt đáng lo ngại là trình độ văn

hoá của nữ thanh niên, nhất là ở nông thôn, miền núi có xu hướng giảm rõ rệt. Đây là
trở ngại lớn đối với phụ nữ trong quá trì nh vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Vấn đề lao động và việc làm của phụ nữ tiếp tục là vấn đề gay gắt. Tỷ lệ lao
động nữ ở các ngành tương đối cao nhưng do ít được đào tạo, trình độ văn hoá,

14


chuyên môn tay nghề thấp, nên đa số phụ nữ Vĩnh Phúc phải làm những công việc
lương thấp, lao động giản đơn, thậm chí phải làm cả những công việc nặng nhọc,
độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản, xu hướng không muốn nhận lao động nữ
là phổ biến.
- Lĩnh vực gia đình và sức khoẻ phụ nữ cũng còn nhiều khó khăn, tồn tại.
Chi phí cho học tập, khám chữa bệnh quá tốn kém so với mức thu nhập chung, nạn
học thêm, ma tuý học đường đang là gánh nặng, là mối lo của nhiều gia đình; các tệ
nạn xã hội, hủ tục trong ma chay, cưới xin, tình trạng vi phạm luật hôn nhân - gia
đình có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống gia đình và người
phụ nữ. Tình trạng lao động quá tải do vừa phải lao động sản xuất, vừa phải gánh
vác việc nhà, chăm sóc con cái, thêm vào đó là tình trạng nạo hút thai còn nhiều,
điều kiện vệ sinh môi trường kém làm cho nhiều phụ nữ sức khoẻ giảm sút, bệnh
phụ khoa vẫn là phổ biến.
- Hoạt động của Hội LHPN tỉnh còn gặp nhiều khó khăn. Một số nội dung
hoạt động đã đi vào chiều sâu nhưng thiếu sự đồng đều giữa các vùng miền, đối
tượng, đặc biệt khi tỉnh mới được tái lập, đội ngũ cán bộ làm công tác phụ nữ còn
thiếu về số lượng lại mới về nhiệm vụ phân công. Cơ quan thường trực Hội LHPN
tỉnh mới có 6 người, kể cả lãnh đạo và cán bộ, do đó việc triển khai nhiệm vụ, chỉ
đạo phong trào gặp không ít khó khăn. Hai năm đầu, cơ quan Hội LHPN tỉnh chưa
có trụ sở làm việc, phải tạm nhờ Bệnh viện Y học dân tộc tỉnh. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị thiếu thốn, làm cho hoạt động của Hội càng thêm khó khăn. Khi chuyển về
tỉnh mới (1997), theo quyết định của trên, Ban Chấp hành lâm thời hội LHPN tỉnh

có 19 người, trong đó có 05 Uỷ viên thường vụ, do đồng chí Phan Thị Tâm, Tỉnh uỷ
viên làm chủ tịch, đồng chí Lê Thị Nguyệt làm phó chủ tịch.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng công tác vận động phụ nữ
của tỉnh thường xuyên được sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉ nh ủy

, Trung ương Hội

LHPN Việt Nam, sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của các cấp chính quyền,
MTTQ và các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, đó là những động lực quan trọng
thúc đẩy phong trào phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc phát triển trong những năm tới.

15


1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và Đảng ta về vấn đề
vận động phụ nữ
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề vận động phụ nữ đã bác bỏ một cách
hùng hồn những thành kiến coi thường phụ nữ của xã hội cũ để lại , đồng thời cũng
khẳng định phụ nữ là một nửa của nhân loại, bị áp bức nặng nề và là lực lượng quan
trọng của cách mạng. Theo Lênin, “không thể lôi cuốn quần chúng tham gia chính trị
mà lại không lôi cuốn phụ nữ tham gia chính trị” [54, tr.38]. Trong cuộc cách mạng
xây dựng chủ nghĩa xã hội: “giai cấp vô sản sẽ không đạt được tự do hoàn toàn nếu
không giành được tự do hoàn toàn cho phụ nữ” [54, tr.61]. Vì vậy, “muốn giải phóng
phụ nữ thì trước hết phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, phải
xóa bỏ ách áp bức bóc lột giai cấp và ách nô dịch dân tộc [65, tr. 20 - 21].
Lênin nhấn mạnh: “giải phóng phụ nữ lao động phải là việc làm của bản thân
phụ nữ lao động” [54, tr.55]. Chỉ bằng cách tham gia vào phong trào cách mạng
chung, phụ nữ mới chứng tỏ được lực lượng và khả năng to lớn của mình, từ đó tư
tưởng trọng nam, khinh nữ mới được đẩy lùi dần, phụ nữ mới có điều kiện vươn lên

giải phóng từng bước, giải phóng hoàn toàn.
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề vận động phụ nữ vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng luôn quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới.
Chính cương vắn tắt khẳng định “Nam nữ bình quyền” [37, tr.2]. Trong Án
nghị quyết của Trung ương toàn thể hội nghị tháng 10 - 1930 nêu rõ: “Lực lượng
cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần
chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng thì cách mạng
không thắng lợi được. Bởi vậy nên công tác trong quần chúng phụ nữ không phải là
một cái nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng; công tác ấy chánh là một cái nhiệm vụ lớn
và rất trọng yếu” [37, tr.188].
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10 - 1930 chỉ rõ "Muốn
thâu phục cho được hết các phần tử phụ nữ thì ngoài sự cộng tác trong phụ nữ công

16


nông ra, Đảng lại cần phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ như "Phụ nữ hiệp hội"
mục đích là mưu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ nữ được triệt để giải phóng"
[38, tr.12]. Trên cơ sở những quan điểm của Trung ương về công tác phụ vận, Hội
nghị BCH Trung ương Đảng, tháng 10 - 1930, ra Điều lệ Phụ nữ Liên hiệp hội. Phụ
nữ Liên hiệp hội là tổ chức phụ nữ đầu tiên của phụ nữ Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ, ngay sau khi giành được độc lập
dân tộc năm 1945, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm và đặt nền móng cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Điều 9 trong bản Hiếp pháp đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà năm 1946 khẳng định: “phụ nữ bình đẳng với nam giới về mọi
phương diện”, trải qua các lần sửa đổi Hiến pháp song tư tưởng về bình đẳng giới

luôn được bổ sung và hoàn thiện. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều
khẳng định: phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Ngoài ra còn có hàng loạt các văn bản, chỉ thị, nghị quyết khác
khẳng định quyền bình đẳng nam nữ như: Nghị quyết 04, Nghị quyết 11 của Bộ
Chính trị, Chỉ thị 37 CT/TW, Chỉ thị 44/CT...
Trên cơ sở của Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị, các vấn đề cần giải quyết đối
với phụ nữ trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VII, ngày 4-10-1997, Thủ tướng
chính phủ ký Quyết định số 822/TTG về việc duyệt "Kế hoạch hành động quốc gia
vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000" với Kế hoạch hành động đi kèm.
Đặc biệt, sau khi thực hiện thành công Chiến lược và Kế hoạch hành động
quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết
định phê duyệt Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm
2010 và Kế hoạch hành động Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005.
Điều đó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề phát triển
phong trào của phụ nữ.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng,
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên,
đất nước vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn như: tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với các nước trong khu vực và thế giới; nguy cơ tệ nạn tham nhũng quan liêu,

17


nguy cơ diễn biến hoà bình từ các thế lực thù địch. Xuất phát từ tình hình trên và
căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng khẳng định: “Cần
tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [32, tr. 80]. Quyết tâm ra sức phấn
đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp. Để đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phụ nữ Việt

Nam không những cần giải quyết tốt các vấn đề còn tồn tại và hơn hết cần trang bị
cho mình sức khoẻ tốt, một kiến thức rộng, một bản lĩnh vững vàng để đương đầu
với mọi khó khăn, thử thách.
Chủ trương của Đảng bộ
Căn cứ vào điều kiện thuận lợi và khó khăn của một tỉnh mới được tái lập, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XII (11-1997) nêu rõ phương hướng
chung phát triển kinh tế, xã hội những năm 1997 - 2000 là: "Đẩy nhanh nhịp độ phát
triển kinh tế, nhất là đối với công nghiệp, sớm thoát khỏi tình trạng kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển ổn định, vững chắc sau năm 2000, thu hẹp
khoảng cách so với bình quân cả nước. Chuyển nền kinh tế theo hướng cơ cấu công
nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ... Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá,
xã hội, giải quyết tốt hơn về việc làm, nâng cao đời sống nhân dân" [66, tr. 29]. Đại
hội chỉ rõ phải phấn đấu đạt được các mục tiêu chủ yếu: Nhịp độ GDP bình quân 18 20%; giá trị sản xuất công nghiệp xây dựng tăng bình quân hàng năm trên 50%; giá
trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng bình quân hàng năm 17 - 18%; thu nhập bình quân
đầu người 280 - 300USD; cơ bản xoá được hộ đói, nghèo xuống dưới 10%; tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt 16,0 triệu USD vào năm 2000.
Đối với công tác vận động phụ nữ, Đại hội đã đề ra những chủ trương, nhiệm vụ
công tác phụ nữ đến năm 2000 là: "Hội Phụ nữ cần triển khai sâu rộng 5 chương trình
và 2 phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo nuôi dạy con tốt, xây dựng
gia đình hạnh phúc" và "Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình" [66, tr. 60].
Đảng bộ tỉnh xác định, công tác vận động phụ nữ là một nhiệm vụ quan
trọng, chỉ khi nào phát huy tốt nguồn nhân lực chiếm hơn 50% dân số của tỉnh thì

18


các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mới đạt được. Vì vậy ngay sau khi tỉnh
được tái lập, Đảng bộ Vĩnh Phúc đã rất quan tâm, chú trọng đến công tác vận động
phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh. Điều này được thể hiện bằng hàng loạt
các chính sách, Nghị quyết cụ thể:

Ngay sau khi tỉnh Vĩnh Phúc tái lập, tháng 4 - 1998, Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh ban hành Nghị quyết 03-NQ/TƯ "Về công tác cán bộ của tỉnh đến năm 2010".
Nghị quyết đã đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, những ưu điểm và tồn tại của đội
ngũ cán bộ và công tác cán bộ của tỉnh; từ đó đề ra phương hướng nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu về công tác cán bộ đến năm 2010. Trong đó đã đề ra tiêu chuẩn cán
bộ trong thời kỳ đổi mới, các giải pháp về quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá
luân chuyển cán bộ và thực hiện cính sách cán bộ. Đây chính là cơ sở, là định
hướng để cấp uỷ các cấp, các ngành thực hiện công tác cán bộ nói chung, công tác
cán bộ nữ nói riêng.
Tiếp đó, Thực hiện Chỉ thị 37 - CT/TW và các Nghị quyết của Đảng về công
tác cán bộ đặc biệt là Nghị quyết 03 của Bộ chính trị, Nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ
Vĩnh Phúc, Tỉnh uỷ đã có những chủ trương lãnh đạo các cấp uỷ Đảng, Đảng Đoàn,
Ban cán sự Đảng, người đứng đầu các địa phương, đơn vị có trách nhiệm xây dựng
quy hoạch các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong công tác xây dựng quy
hoạch đội ngũ cán bộ nữ, các cấp uỷ từ tỉnh đến cơ sở đã xác định những ngành,
những lĩnh vực có thể phát huy được khả năng, thế mạnh của phụ nữ và các đơn vị
đặc thù như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Liên đoàn lao động,
ngành Giáo dục, Y tế, Uỷ ban Dân số, ngành Ngân hàng... để có định hướng và đề
ra tỷ lệ cán bộ nữ nhất định trong xây dựng quy hoạch.
Căn cứ vào nội dung Quyết định 163/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
chính phủ) ban hành ngày 19-10-1988, quy định trách nhiệm của các cấp chính
quyền trong việc đảm bảo cho các cấp hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý Nhà
nước, nhằm phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước. UBND các cấp triển khai thực hiện chặt chẽ, tổ chức từng bước cụ thể,
phối hợp tích cực với hội Phụ nữ xây dựng chương trình, kế hoạch chỉ đạo điểm, sơ
kết rút kinh nghiệm 2 năm, 5 năm, 12 năm thực hiện Quyết định 163/HĐBT. Trong

19



12 năm từ năm 1988 đến năm 2000, UBND tỉnh ban hành một số văn bản cụ thể:
Chương trình thực hiện Quyết định 163/HĐBT; Chương trình 519/HC ngày 25-41994 nhằm thực hiện NQ 13 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về đổi mới và tăng cường
công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; kế hoạch 948/KH - UB ngày
10/8/1998 triển khai thực hiện chiến lược VSTBPN đến năm 2000; Quyết định số
1793/QĐ - UB ngày 15-7-1998 ban hành quy chế phối hợp giữa UBND và Hội
LHPN các cấp. Quyết định số 1269/QĐ-UB ngày 6-5-1998 về quy định chính sách
cho cán bộ đi học trong đó có quy định cụ thể chính sách cho cán bộ nữ đi học...,
tăng cường mối quan hệ bình đẳng, dân chủ giữa chính quyền và Hội LHPN các cấp
theo hướng hiện thực, hiệu quả.
Ngày 4-10-1997, Thủ tướng Chính Phủ ra quyết định số 822/TTG phê duyệt
KHHĐ quốc gia VSTBPN Việt Nam đến năm 2000. Thực hiện chủ trương của
Chính Phủ và căn cứ tình hình thực tế tỉnh Vĩnh Phúc, ngày 10-8-1998, UBND tỉnh
phê duyệt KHHĐ VSTBPN tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2000, đồng thời chỉ đạo các
cấp các ngành phối hợp thực hiện các mục tiêu VSTBPN. Sau khi UBND tỉnh phê
duyệt KHHĐ Vì sự tiến bộ phụ nữ Vĩnh Phúc đến năm 2000, Ban VSTBPN tỉnh
Vĩnh Phúc đã tham mưu UBND tỉnh tổ chức hội nghị triển khai KHHĐ VSTBPN,
đồng thời có văn bản hướng dẫn các địa phương, đơn vị kiện toàn, thành lập bộ máy
Ban VSTBPN. Hội LHPN tỉnh với tư cách là cơ quan thường trực, phối hợp với
Ban VSTBPNtỉnh, Sở Kế hoạch đầu tư xây dựng kế hoạch hành động VSTBPN,
báo cáo tình hình thực hiện theo định kỳ 6 tháng, 1 năm. Nhiều địa phương, ngành
đã triển khai nghiêm túc việc xây dựng kế hoạch hành động VSTBPN ở địa
phương, đơn vị mình, điển hình: Sở Giáo dục và đào tạo, Công an tỉnh, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước tỉnh... Các huyện Bình Xuyên,
Vĩnh Tường.... Một số đơn vị tổ chức hội nghị, hội thảo về thực hiện kế hoạch hành
động như Ngân hàng Nhà nước, Sở Giáo dục và đào tạo, Công an tỉnh.... Ban
VSTBPN tỉnh đã có nhiều hoạt động cụ thể hướng dẫn Ban VSTBPN các huyện,
thị, ngành, xây dựng quy chế và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch hành động
VSTBPN ở ngành, địa phương, bước đầu mang lại hiệu quả. Trong năm 2000, Ban
VSTBPN tỉnh có văn bản hướng dẫn các huyện, thị, ngành tiến hành tổng kết đánh
giá việc thực hiện kế hoạch hành động VSTBPN giai đoạn 1998 - 2000.


20


Dưới sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng bộ , các cấp chính quyền cơ sở,
Hội LHPN tỉnh có nhiều cố gắng hiện thực hoá chủ trương của Đảng bộ, đưa phong
trào phụ nữ phát triển sâu rộng trong toàn tỉnh, góp phần không nhỏ vào việc thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc.
1.2. Hiện thực hoá chủ trƣơng của Đảng bộ
1.2.1. Công tác tổ chức, tuyên truyền
Quán triệt tình hình nhiệm vụ chung do Trung ương Hội LHPN đề ra, đặc biệt
là căn cứ tình hình thuận lợi và khó khăn của Hội LHPN tỉ nh trong năm đầu tái lập
tỉnh, được Tỉnh uỷ chỉ đạo, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức Đại hội đại
biểu lần thứ X nhiệm kỳ 1997 - 2001 từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 3 năm 1997.
Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1997 - 2001 với mục tiêu
chung của phong trào là “ Đoàn kết rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy mọi tiềm
năng, sức sáng tạo và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ trong các hoạt động kinh tế, xã
hội nhằm góp phần cải thiện đời sống vật chất , tinh thần, nâng cao kiến thức mọi
mặt cho phụ nữ , thực hiện nam - nữ bình đẳng , góp phần thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng người phụ nữ
Vĩnh Phúc có sức khoẻ, kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính đáng,
quan tâm đến lợi ích của xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu, xây dựng gia đình
ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ Hội
ngày càng vững mạnh để phát huy vai trò đại diện, chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp
pháp và chính đáng của phụ nữ” [39, tr.12].
Đại hội đề ra 5 chương trình hành động trọng tâm, cụ thể là:
- Chương trình nâng cao kiến thức, trình độ và năng lực cho phụ nữ
- Chương trình hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập
- Chương trình chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ em, thực hiện sinh đẻ có kế
hoạch, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc

- Chương trình xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, góp phần chăm lo đào tạo
cán bộ hội, cán bộ nữ
- Chương trình nghiên cứu và kiểm tra giám sát

21


Đại hội bầu Ban Chấp hành Hội LHPN tỉnh khoá X gồm 27 đồng chí, BCH
bầu Ban thường vụ gồm 09 đồng chí. Tại Đại hội, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã
tặng Hội LHPN tỉnh bức trướng: "Đoàn kết, trí tuệ, nhân hậu và phát triển".
Dưới sự chỉ đạo Đảng bộ, của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, các cấp hội tiến hành
công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong chị em hội viên những chủ trương,
chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh
quốc phòng; những chủ trương, chính sách có liên quan đến phụ nữ và trẻ em do Đại
hội VIII của Đảng, Đại hội XII của Đảng bộ tỉnh đề ra; nội dung, chương trình hoạt
động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam do Đại hội VIII của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam đề ra; nội dung, chương trình hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Vĩnh
Phúc do Đại hội X của Hội Liên hiệp Phụ nữ Vĩnh Phúc đề ra cho giai đoạn 1997 2001; mười một mục tiêu của Chiến lược VSTB của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000;
mười một mục tiêu chiến lược VSTB của phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2000….
Sau đó, chị em trong tỉnh được học tập tinh thần các Nghị quyết BCH Trung
ương khoá VIII. Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH Trung ương Đảng
về định hướng chiến lược phát triển Giáo dục - Đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000; Chỉ thị 27 - CT/TW của Bộ chính trị;
Chỉ thị 03 - CT/TW của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc cưới, việc tang, lễ hội,
mừng thọ, kỷ niệm ngày truyền thống; Quy chế dân chủ cơ sở; các luật mới về thuế,
luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi; dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ toàn
quốc lần thứ IX, nội dung 2 phong trào do Trung ương Hội phát động….
Việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước,
... cho chị em được gắn với những hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân
tộc, của Đảng, của địa phương. Riêng năm 2000, công tác tuyên truyền, giáo dục

truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước, truyền thống Hội đã diễn ra rất sôi
nổi nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 50 năm ngày
thành lập tỉnh Vĩnh Phúc….
Công tác tuyên truyền giáo dục được tiến hành thường xuyên góp phần củng
cố, nâng cao nhận thức chính trị, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
hiểu biết về pháp luật cho phụ nữ, giúp chị em tự tin, vươn lên tham gia các hoạt
động xã hội, làm chủ cuộc sống.

22


Bên cạnh kiến thức về chính trị và pháp luật, kiến thức về những lĩnh vực
khác, nhất là kiến thức về giới, chăm sóc sức khoẻ phụ nữ và trẻ em, dân số - kế
hoạch hoá gia đình, tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi con theo khoa học, phòng
chống dịch bệnh, phòng chống tệ nạn xã hội, khoa học kỹ thuật, bảo vệ môi
trường… cũng thường xuyên được tuyên truyền, giáo dục trong chị em phụ nữ bằng
những hình thức như mít tinh, toạ đàm, hội thi, gặp mặt nhân các ngày lễ lớn; Hội
LHPN tỉnh phối hợp với các ngành chức năng tổ chức tốt các hoạt động lồng ghép
trong các chiến dịch truyền thông để giáo dục phụ nữ theo các chuyên đề; nhân rộng
các mô hình CLB phụ nữ, hội thi, thi tìm hiểu, tập trung xây dựng mạng lưới báo
cáo viên , tuyên truyền viên của Hội ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng ; coi trọng cải tiến hì nh thức và nâng cao c

hất

lượng, hiệu quả tuyên truyền của tài liệu , thông tin tuyên truyền của Hội ; tích cực
phối hợp với các ngành chức năng tổ chức các lớp học tì nh thương , xây dựng quỹ
khuyến học, vận động trẻ em bỏ học trở lại trường, tổ chức các lớp xoá mù chữ ….
Đặc biệt mô hình CLB phụ nữ đã được khẳng định là mô hình có sức hấp dẫn, thu
hút đông đảo mọi tầng lớp phụ nữ tham gia. Năm 1997, toàn tỉnh mới có 203 câu

lạc bộ phụ nữ, đến 2000 đã có tới 558 câu lạc bộ phụ nữ [3, tr.313].
Trong những năm 1997 - 2000, các cấp Hội tăng cường sử dụng các xuất bản
phẩm, phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở địa phương và Trung ương
xây dựng chương trình, đăng tin, bài, sử dụng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên trong công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức mọi mặt cho phụ nữ.
Ngoài cuốn Thông tin tuyên truyền xuất bản định kỳ hàng quý, năm 1998 Hội
LHPN tỉnh phối hợp với Ban VSTBPN Vĩnh Phúc biên soạn, phát hành tin Phụ nữ
và tiến bộ với số lượng 3000 bản chuyển đến các cấp uỷ Đảng, chính quyền, ban
ngành và đoàn thể. Năm 1999, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã tiếp nhận 7.800 cuốn
Những điều cần cho sự sống từ Trung ương Hội để chuyển đến 100% cơ sở Hội.
Hơn 10 năm (1989-1999), cuốn Những điều cần cho sự sống đã đem lại những thay
đổi lớn trong nhận thức của phụ nữ và cuả các gia đình về chăm sóc sức khỏe của
phụ nữ và trẻ em; làm thay đổi đánh giá của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
ngành về vai trò hoạt động của Hội và phong trào phụ nữ ở địa phương. Những kiến

23


thức trong cuốn sách đã làm giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng từ 49,8% (năm 1989)
xuống còn 31,55% (tháng 6 năm 2000), tỷ lệ phụ nữ được khám thai đủ 3 lần từ
33,8% tăng lên 72%; tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng vác xin đủ liều từ 73,8% tăng lên
98,3% trong thời gian tương ứng; sức khỏe trẻ em và phụ nữ nhất là ở nông thôn,
vùng sâu, vùng xa được cải thiện rõ rệt và ngày càng được đảm bảo [3, tr314].
Hội LHPN tỉnh còn phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đưa chủ trương,
nội dung hoạt động của Hội tới các chi bộ, Đảng bộ cơ sở trong toàn tỉnh thông qua
cuốn Thông tin sinh hoạt chi bộ, Phối hợp với báo Vĩnh Phúc và Đài truyền hình
Trung ương xây dựng chương trình "Phụ nữ Vĩnh Phúc với chương trình dân số - kế
hoạch hóa gia đình", phóng sự " Phụ nữ Vĩnh Phúc hướng về Đại hội", Phối hợp
với Đài Tiếng nói Việt Nam xây dựng chương trình "Phụ nữ Vĩnh Phúc với công
tác chăm sóc, giáo dục trẻ em và dân số - kế hoạch hóa gia đình", Hàng năm phối

hợp với Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh thực hiện các phóng sự về phụ nữ ...
Tuyên truyền giáo dục thông qua các phương tiện đại chúng, bằng các xuất bản
phẩm đã đem lại hiệu quả cao.
Hội LHPN tỉnh tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng
lực cho phụ nữ. Từ năm 1997 đến năm 2000, các cấp hội đã mở 4.977 lớp tập huấn các
loại cho 961.208 lượt chị em phụ nữ, 39 lớp xoá mù chữ cho 1.832 chị em [3, tr. 315].
Đăng ký thực hiện các công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội Đảng, Đại
hội phụ nữ các cấp cũng là một hình thức mới, linh hoạt, góp phần nâng cao năng
lực của phụ nữ. Năm 2000, đã có 527 công trình, sản phẩm do phụ nữ thực hiện [3,
tr.315]. Việc đăng ký tham gia 2 phong trào thi đua do Trung ương Hội phát động
với 5 tiêu chuẩn đã thúc đẩy phụ nữ vươn lên, nỗ lực học tập, phấn đấu, nâng cao
kiến thức, năng lực của mình đáp ứng yêu cầu công tác. Chị em đã tích cực tham
gia các lớp truyền đạt thông tin khoa học - kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm, tham gia
học tập các điển hình sản xuất giỏi. Nhiều chị em là cán bộ hội đã tích cực tự học
nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tư vấn truyền thông. Chị
em phụ nữ khối công nhân viên chức tích cực học tập nâng cao tay nghề, trình độ
chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ.
Năm 1999, số chị em đăng ký thực hiện tiêu chuẩn “Tích cực học tập” là
110.849 chị, 75% số chị đăng ký đạt tiêu chuẩn này. Năm 2000, số chị đăng ký là

24


132.627, có 82,7% đạt tiêu chuẩn. Các huyện đạt tỷ lệ cao là Mê Linh, Lập Thạch
và thị xã Vĩnh Yên [3, tr.316].
1.2.2. Chỉ đạo các phong trào hành động của phụ nữ
Trong những năm 1997 - 2000, Chương trình vận động phụ nữ nghiên cứu,
ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập, tiếp tục đi
vào chiều sâu, đem lại những kết quả khả quan, tác động tích cực đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.

Với mục tiêu tìm các nguồn vốn hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, các
cấp hội chủ trương khai thác nguồn vốn trong và ngoài nước, các cơ sở hội tiếp tục
đứng ra tín chấp các Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng
phục vụ người nghèo… cho phụ nữ vay vốn. Trong 4 năm 1997 - 2000, các cấp hội
đã tín chấp cho gần 10 vạn phụ nữ nghèo vay vốn với tổng số tiền 117.000 triệu
đồng để phát triển kinh tế gia đình [3, tr.317].
Các cấp hội đã tranh thủ các nguồn vốn từ Quỹ quốc gia tạo việc làm qua hệ
thống của Trung ương Hội, qua uỷ ban nhân dân các huyện, thị cho chị em vay
(năm 1997) là 212 triệu đồng, năm 1999 là 375 triệu đồng) [3, tr.317].
Nguồn vốn tại chỗ được khai thác, huy động chủ yếu thông qua việc nhân
rộng các nhóm phụ nữ tiết kiệm theo mô hình tín dụng - tiết kiệm. Năm 1997 cả
tỉnh có 691 nhóm, năm 1998 tăng lên 1.035 nhóm, năm 2000 số vốn huy động từ
các nhóm lên đến 2.183,5 triệu đồng và 8.564 lượt phụ nữ đã được vay vốn từ
nguồn này [3, tr.317]. Nguồn vốn từ phong trào “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”
được huy động từ việc vận động gửi tiết kiệm không lấy lãi. Năm 1997, Hội Liên
hiệp phụ nữ tỉnh phối hợp với Công ty xổ số kiến thiết Vĩnh Phúc phát hành đợt xổ
số “Vì phụ nữ nghèo” kết quả Hội có thêm 63 triệu bổ sung vào quỹ “Ngày tiết kiệm
vì phụ nữ nghèo”, nâng số vốn của quỹ lên 114 triệu, giúp cho 1.120 phụ nữ nghèo
được vay [3, tr.318].
Từ năm 1998, hàng năm có hàng nghìn chị em được vay vốn để sản xuất,
kinh doanh từ nguồn vốn quốc tế được cấp Hội khai thác từ các dự án, các tổ chức:
SIDA (Thuỵ Điển); quỹ TYM; dự án “Tăng thu nhập xoá mù chữ” của UNICEF;
dự án tín dụng tiết kiệm Việt - Bỉ...

25


×