Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.35 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

LÊ NGỌC THẠCH

CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ SẢN PHẨM ĐẦU RA NHẰM THÚC ĐẨY
ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CÔNG ÍCH TẠI TP.HCM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội, 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------

LÊ NGỌC THẠCH

CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ SẢN PHẨM ĐẦU RA NHẰM THÚC ĐẨY
ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CÔNG ÍCH TẠI TP.HCM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.04.12

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Thanh Trƣờng



Hà Nội, 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập Chương trình cao học chuyên ngành Quản lý Khoa học
và Công nghệ tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội, học viên đã có cơ hội tiếp nhận kiến thức, kinh nghiệm và sự giúp đỡ nhiệt
tình của các Thầy, Cô trong Khoa Khoa học Quản lý nói riêng và các Thầy, Cô giáo
trong trường cũng như Ban lãnh đạo nhà trường nói chung.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Đào Thanh Trường – người thầy đã
dành nhiều thời gian, công sức, hết lòng và tận tình giúp đỡ hướng dẫn tôi hoàn thành
luận văn tốt nghiệp một cách tốt nhất.
Một lần nữa, tôi muốn gửi lời cảm ơn và lòng tri ân sâu sắc đến các chuyên gia,
các đồng nghiệp và bạn bè đã tạo điều kiện ủng hộ, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành tốt luận văn.
Xin trân trọng cám ơn.

1


MỤC LỤC

MỤC LỤC ......................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: .............................................................................9
3. Mục tiêu nghiên cứu: ............................................................................................. 11
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 11
5. Mẫu khảo sát: .........................................................................................................12

6. Câu hỏi nghiên cứu: ............................................................................................... 12
7. Giả thuyết nghiên cứu: ........................................................................................... 12
8. Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................................12
9. Kết cấu của Luận văn: ............................................................................................ 13
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về chính sách quản lý sản phẩm đầu ra và hoạt động
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công ích. ..................................................14
1.1.

Khái niệm chính sách quản lý sản phẩm đầu ra và các khái niệm có liên quan .14

1.1.1.

Khái niệm quản lý sản phẩm đầu ra .................................................................14

1.1.2.

Khái niệm chính sách .......................................................................................18

1.1.3.

Khái niệm chính sách quản lý sản phẩm đầu ra ...............................................20

1.2.
1.2.1.

Khái niệm doanh nghiệp công ích và đổi mới công nghệ ...................................21
Khái niệm hàng hóa công cộng, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp

công ích.......................................................................................................................... 21
1.2.2.


Một số đặc điểm của doanh nghiệp công ích ...................................................28

1.2.3.

Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ ...................................................31

Chƣơng 2. Nhận diện và đánh giá thực trạng chính sách quản lý sản phẩm,
dịch vụ công ích với hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công ích
của Tp. Hồ Chí Minh ...................................................................................................42
2.1. Thực trạng chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích tại các doanh nghiệp
công ích của Tp. Hồ Chí Minh ......................................................................................42
2.1.1. Khái quát về hoạt động của các doanh nghiệp công ích .....................................42
2.1.2. Nhận diện các chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích tại các doanh
nghiệp công ích của Tp. Hồ Chí Minh ..........................................................................56
2


2.2. Đánh giá tác động của chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích tại các
doanh nghiệp công ích đối với hoạt động đổi mới công nghệ ......................................64
2.2.1 Tác động dương tính của chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích tại các
doanh nghiệp công ích đối với hoạt động đổi mới công nghệ ......................................64
2.2.2. Tác động âm tính của chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích tại các
doanh nghiệp công ích đối với hoạt động đổi mới công nghệ ......................................68
2.2.3. Tác động ngoại biên của chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích tại các
doanh nghiệp công ích đối với hoạt động đổi mới công nghệ ......................................74
Chƣơng 3. Định hƣớng chính sách quản lý sản phẩm đầu ra và một số giải pháp
nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công ích. ........................... 76
3.1. Các quan điểm về chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy hoạt động
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công ích .......................................................76

3.2. Một số giải pháp triển khai chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy
hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công ích ......................................85
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................92

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DN

Doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

MTV

Một thành viên

DNCI

Doanh nghiệp công ích


KTTT

Kinh tế thị trường

CTTNĐT

Công ty thoát nước đô thị

UBND

Ủy ban nhân dân

CSCC

Chiếu sáng công cộng

CVCX

Công viên cây xanh

CTGTSG

Công trình giao thông Sài Gòn

CTCIQ2

Công ty Công ích Quận 2

HHCC


Hàng hóa công cộng

CN

Công nghệ

KH&CN

Khoa học và Công nghệ

ĐMCN

Đổi mới công nghệ

R&D

Nghiên cứu và Triển khai

CNH

Hiện đại hóa

DVCI

Dịch vụ công ích

4


PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, nhiệm vụ phát triển đất nước theo mục tiêu
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là nhiệm vụ chủ
chốt. Bên cạnh những khó khăn mang tính nội tại về nguồn lực, việc Việt Nam hiện
nay tích cực gia nhập các tổ chức toàn cầu trong xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng
tăng lên khiến việc thực hiện nhiệm vụ này càng không dễ dàng. Chiến lược phát triển
trong thời gian tới đặt ra nhiệm vụ song song với việc ổn định chính trị, xã hội Việt
Nam cần đảm bảo tăng trưởng kinh tế phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững. Đóng
góp vào công cuộc này, các tổ chức cung cấp dịch vụ công cộng giữ vai trò thiết yếu
nhằm cung cấp những nền tảng cơ bản về cơ sở hạ tầng, văn hóa xã hội, thông tin liên
lạc, an ninh quốc phòng... cho sự vận động và phát triển bền vững của quốc gia.
DNNN nói chung và DNNN hoạt động vì mục tiêu công ích nói riêng (gọi tắt
là doanh nghiệp công ích) hoạt động theo các chính sách xã hội của nhà nước phục
vụ cho lợi ích trực tiếp của toàn xã hội hay lợi ích công cộng như: cung ứng hàng
hóa công cộng theo kế hoạch hay đơn đặt hàng của nhà nước như các hàng hóa về
quốc phòng, an ninh, y tế công cộng và văn hóa...Các doanh nghiệp công ích là các
công ty TNHH một thành viên độc lập hoạt động cung ứng dịch vụ, sản phẩm công
ích, trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng, thường xuyên làm các nhiệm vụ của chủ
sở hữu giao nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Nằm trong khối doanh
nghiệp, song DNCI không đặt mục tiêu lợi nhuận làm đầu mà lợi ích của xã hội phải
được xác định là yếu tố quan trọng nhất. Nhóm hàng hóa công cộng được coi là hàng
hóa đặc biệt này chiếm tỷ trọng không lớn trong nền kinh tế nhưng nhà nước phải có
những nguyên tắc quản lý riêng do vai trò quan trọng và tính đặc thù của nó đối với
nền kinh tế.
Những năm qua của thời kỳ đổi mới, quá trình sắp xếp, tổ chức lại doanh
nghiệp công ích cho phù hợp với yêu cầu phát triển của KTTT nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế - xã hội, DNCI đã có những đóng góp đáng kể: kết cấu hạ tầng được cải
thiện, góp phần đảm bảo những cân đối lớn trong nền kinh tế ổn định và phát triển,
giảm thiểu mức đầu tư từ ngân sách nhà nước. Theo báo cáo từ các Bộ, địa phương

trong năm 2014, các doanh nghiệp công ích thực hiện tốt nhiệm vụ thông qua chính
5


sách an sinh- xã hội với việc sẵn sàng tham gia làm nhiệm vụ theo yêu cầu của Bộ, địa
phương. Đặc biệt, các doanh nghiệp công ích được chủ động hơn trong việc thực hiện
nhiệm vụ được giao do được chuyển từ cơ chế giao kế hoạch sang đặt hàng, đấu
thầu.Các doanh nghiệp công ích trên toàn quốc hiện đang tạo việc làm cho khoảng
196.000 người lao động với mức thu nhập bình quân của người lao động là 7 triệu
đồng/người/tháng (tăng 3,1% so với mức lương bình quân năm 2012). Trong đó, mức
thu nhập bình quân của khối doanh nghiệp công ích thuộc Bộ quản lý cao hơn so với
mức thu nhập bình quân của người lao động thuộc khối doanh nghiệp công ích thuộc
địa phương (9,7 triệu đồng/người so với 5,3 triệu đồng/người). Đến nay các doanh
nghiệp công ích đã hoạt động trong các lĩnh vực như: Cấp, thoát nước; cung ứng dịch
vụ vệ sinh, môi trường; xử lý nước thải, rác thải; chiếu sáng đô thị; trồng và chăm sóc
cây xanh, vườn hoa công cộng; duy tu, bảo trì các công trình giao thông; cung ứng
dịch vụ vận tải hành khách công cộng; cung ứng dịch vụ khai thác các công trình thủy
lợi; cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích đặc thù thuộc các Bộ, ngành; trực tiếp
phục vụ an ninh, quốc phòng.
Vậy làm thế nào để phát huy được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp công
ích mà không dẫn đến việc phá vỡ các nguyên tắc “công ích” hay lợi ích công cộng là
điều cần được cân nhắc hiện nay. Khi mà trong thực tế các hoạt động của DNCI vẫn
theo lối mòn, dựa trên các phương tiện, công nghệ lạc hậu, thiếu một phương thức
quản lý phù hợp thì việc nâng cao chất lượng dịch vụ công ở các doanh nghiệp này
ngày càng trở nên khó khăn. DNNN mà đặc biệt là DNCI, trong quá trình chuyển
sang KTTT đang phát sinh nhiều bất cập như tình trạng đầu tư lớn nhưng kết quả kinh
tế - xã hội không được như mong muốn. Nhiều vấn đề về chính sách đặt ra gây lúng
túng trong công tác tổ chức quản lý. Thậm chí DNCI còn bị đánh giá là khu vực kém
hiệu quả nhất hiện nay. Một số công trình trọng điểm triển khai chưa đạt yêu cầu so
với tiến độ đặt ra, không đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của xã hội, gây ảnh

hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Những công trình về dân sinh như cấp thoát nước,
chiếu sáng, cải tạo và nâng cấp hạ tầng kỹ thuật… tiến hành còn chậm. Tại Thành phố
Hồ Chí Minh, nhiều khu vực của thành phố thiếu nước sạch sinh hoạt, rác tồn đọng ở
các ngõ xóm, phế thải xây dựng còn chưa được thu dọn kịp thời, bụi đường phố vượt
mức tiêu chuẩn gấp nhiều lần, vệ sinh nơi công cộng chưa đảm bảo... Công tác xử lý
và phối hợp xử lý các vi phạm chưa đạt yêu cầu, lãng phí điện, nước công cộng vẫn ở
6


mức cao, dịch vụ vui chơi giải trí chưa phát triển tương xứng. Công tác chống ngập
trước kia được giao Sở Giao thông vận tải và Công ty Thoát nước đô thị (TNĐT) quản
lý, triển khai thực hiện song từ năm 2008, UBND TPHCM thành lập và giao nhiệm vụ
này cho Trung tâm chống ngập nước TPHCM. Dù vậy, việc duy tu, thi công sửa chữa,
nâng cấp nhiều tuyến cống thoát nước, nạo vét kênh rạch, vận hành các trạm bơm, đập
ngăn triều, nhà máy nước thải… vẫn được giao cho công ty TNĐT. Cả nghìn tỷ đồng
đã được đầu tư cho hệ thống thoát nước đô thị của thành phố nhưng đến nay, nạn ngập
úng vẫn thường xuyên diễn ra và gây bất an cho người dân. Gần đây, Công ty TNĐT
còn xây dựng trái phép công trình kho bãi trên khu đất hơn 1.000 m2 đã bị thu hồi tại
Khu liên hợp xử lý chất thải rắn và nghĩa trang Đa Phước (huyện Bình Chánh). Công
ty chiếu sáng công cộng (CSCC) gây bức xúc cho nhiều người dân, vì gắn đèn nhưng
không…chiếu sáng hoặc chiếu sáng không liên tục mà chỉ chú trọng vào các dịp lễ tết.
Đối với Công ty Công viên cây xanh (CVCX), sự cố gãy đổ cây xanh trúng người dân
và phương tiện trên đường phố liên tiếp xảy ra đã tạo nên một hình ảnh đáng buồn về
dịch vụ công cộng. Năm 2003, TPHCM giao cho Công ty Quản lý Công trình giao
thông Sài Gòn (CTGTSG) làm chủ đầu tư dự án nâng cấp mở rộng đường Lê Văn
Quới. Do triển khai ì ạch, con đường đầy ổ voi, lầy lội, gây phiền hà, mất an toàn cho
người dân nên đến năm 2006, UBND TPHCM buộc phải thu hồi, giao cho đơn vị
khác1. Rõ ràng thực tế hoạt động các DNCI tại Tp Hồ Chí Minh cho thấy những hạn
chế vẫn đang tồn tại và chưa được giải quyết một cách triệt để. Thiếu một môi trường
cạnh tranh lành mạnh càng tạo ra những bất cập trong hoạt động của doanh nghiệp như

công nghệ lạc hậu, dự án chậm triển khai, chất lượng sản phẩm, dịch vụ không đáp
ứng nhu cầu của người dân...
Để khắc phục hiện tượng trên, cùng với việc đáp ứng những đòi hỏi ngày càng
cao về chất lượng dịch vụ của nhân dân thành phố, doanh nghiệp công ích buộc phải
thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ nhằm tạo ra những sản phẩm dịch vụ chất lượng
tốt và giá thành hạ vì mục tiêu phát triển bền vững. Trong những năm gần đây, với chủ
trương đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh cung cấp dịch vụ công ích thông qua công tác
đấu thầu của UBND TP. Hồ Chí Minh doanh nghiệp công ích đứng trước những khó
khăn và không ít cơ hội đối với phát triển.
1

Huy Thịnh, “Sếp công ích” vì sao lương khủng?, 28/8/2013

7


Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 22 doanh nghiệp công ích
các quận, huyện và 6 doanh nghiệp thành phố và một số doanh nghiệp tư nhân tuy
nhiên, thực tế hiện nay giá thành dịch vụ ngày càng tăng, nhu cầu của người dân cũng
chưa được đáp ứng tốt. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, tuy nhiên việc
chậm đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công ích là một trong những nguyên
nhân chính. Qua 2 trường hợp nghiên cứu là CTCIQ2 và CTTNĐT tác giả nhận thấy
vấn đề nằm ở phía các cơ quan quản lý sản phẩm dịch vụ công ích của Thành phố
cũng chưa có một những chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp công ích
đổi mới công nghệ. Bên cạnh những thành tựu chung của lĩnh vực công ích, các doanh
nghiệp này vẫn gặp phải những thách thức do hạn chế về công nghệ và năng lực công
nghệ, hạn chế bởi quy trình kiểm tra, đánh giá của các cơ quản lý chức năng còn rườm
rà, sự chậm trễ trong việc huy động các nguồn vốn cho đổi mới, cho tái cấu trúc... Vì
vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc
đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Thành phố Hồ Chí

Minh”. Qua đó có một số kiến nghị nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp đẩy mạnh hơn
hoạt động đổi mới công nghệ.
- Ý nghĩa lý luận: thông qua việc nghiên cứu có tính chất hệ thống, khoa học quá trình
hình thành và phát triển DNCI, hoạt động quản lý các DNCI từ đó thấy được vị trí, vai
trò, đặc điểm của hệ thống DNCI, thiết chế quản lý của DNCI. Đặc biệt khái quát
những vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa chính sách quản lý sản phẩm đầu ra
với hoạt động đổi mới công nghệ của các DNCI.
- Ý nghĩa thực tiễn: trên cơ sở những vấn đề lý luận được gợi mở, phân tích làm căn cứ
đánh giá khách quan, khoa học thực trạng hoạt động của các DNCI Thành phố HCM
trong những năm qua. Chỉ ra những kết quả đạt được, đồng thời phân tích nguyên
nhân cho việc quản lý DNCI thiếu hiệu quả. Từ đó, đề xuất giải pháp chính sách
hướng đến đổi mới công nghệ một cách thiết thực, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
trước mắt và đảm bảo tính ổn định lâu dài các DNCI của thành phố Hồ Chí Minh. Việc
nâng cao hiệu quả hoạt động của DNCI là một tiền đề quan trọng cho việc xây dựng
thành công nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như đảm bảo các yếu tố về
công bằng xã hội, dân chủ và văn minh.

8


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về DNCI tiêu biểu như:
Đề tài "Thực trạng và những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích" của tác giả Nguyễn Trung Kiên đề cập đến
những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước; phân tích thực trạng quản lý nhà
nước DNCI trong 2 năm (1999 - 2000) đồng thời đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước DNCI.
Đề tài "Những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác quản lý các doanh nghiệp hoạt
động công ích ngành Giao thông công chính Hà Nội" của tác giả Hoàng Kim Hồng đã
phân tích thực trạng hoạt động của các DNCI ngành Giao thông công chính Hà Nội,

chỉ ra những ưu điểm, những thế mạnh cần phát huy và những tồn tại, hạn chế trong
hoạt động thực tiễn cần được điều chỉnh hoặc đổi mới phương thức hoạt động từ đó đề
xuất các giải pháp phát huy năng lực tiềm tàng của các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực này.
Đề tài "Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế
hoạch đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - Cụm cảng Hàng không
miền Bắc" của tác giả Nguyễn Hữu Vinh phân tích công tác kế hoạch, tổng kết thực
tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh thời kỳ 1998 - 2002; phân tích đánh giá tình hình
quản lý điều hành kế hoạch và đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
DNCI - Cụm cảng Hàng không miền Bắc.
Đề tài "Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích ngành Văn
hóa thông tin" của tác giả Nguyễn Danh Ngà đề cập đến đổi mới cơ chế hoạt động của
DNCI ngành văn hóa thông tin dưới tiếp cận Kinh tế phát triển.
Ngoài ra còn một số bài đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành về DNCI. Tuy
nhiên các công trình trên chủ yếu nghiên cứu các DNCI dưới góc độ là một bộ phận
của kinh tế nhà nước và chỉ ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Một số tác giả có đề cập đến giải pháp tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của DNCI
một ngành, lĩnh vực cụ thể. Do giới hạn lịch sử, cách tiếp cận KTTT đã có nhiều điểm
còn hạn chế, các giải pháp không còn phù hợp với thực tiễn, đòi hỏi phải được xem
xét, bổ sung trong điều kiện mới, điều kiện của đổi mới và hội nhập quốc tế.
9


Mục tiêu của đổi mới công nghệ là nhằm đạt được hiệu quả cao trong sản xuất
và nâng cao sức cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp cũng như quốc gia, do đó đây là
vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm và nghiên cứu trong thời gian gần đây. Đã có
một số nghiên cứu đưa ra các chính sách đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
trong các lĩnh vực khác nhau. Các nghiên cứu này đã chỉ ra được những khó khăn về
vốn, thông tin, nhân lực, nguồn lực...trong việc tiếp cận với những công nghệ mới của
các doanh nghiệp từ đó để đề xuất các giải pháp cho đổi mới.

Đề tài “Thúc đẩy đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ hội nhập quốc tế” của tác giả Bùi Trọng Tín đã
đề ra các giải pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó
đã nhấn mạnh đến: Sự cần thiết phải tăng cường các hoạt động hỗ trợ đáp ứng nhu cầu
của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh
tranh; Xây dựng chương trình thông tin KH&CN nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ
và vừa đổi mới công nghệ; Xây dựng chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
tăng cường đầu tư nghiên cứu và triển khai; Phát triển thị trường công nghệ nhằm thúc
đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình chuyển giao công nghệ. Một số nghiên cứu tập
trung vào các giải pháp cho hoạt động đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp có thể kể
đến như: “Xây dựng chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các doanh
nghiệp nhỏ và vừa” của tác giả Phan Thu Trang nêu lên thực trạng của việc đảm bảo
thông tin đối với hoạt động đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ đó
đề xuất giải pháp chính sách thông tin cho các doanh nghiệp. Hay đề tài “Sử dụng
công cụ thuế để kích thích đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên
địa bàn tỉnh Hải Dương trong hội nhập” của tác giả Nguyễn Văn Đoàn đã mô tả thực
trạng sử dụng công cụ thuế để đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Hải Dương, qua tìm hiểu về thủ tục hành chính thuế, thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp và đổi mới công nghệ, từ đó đề xuất một số giải pháp chính sách
của Nhà nước trong việc sử dụng linh hoạt công cụ thuế để kích thích đổi mới công
nghệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bài báo “Chính sách sản phẩm cho doanh nghiệp vận tải đường sắt” bàn đến
vấn đề tại sao lại không loại bỏ được các sản phẩm công ích và khi không loại bỏ được
10


các sản phẩm công ích đó thì phải làm thế nào để duy trì nó mà không làm ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bài báo tiến hành xây dựng chính sách sản
phẩm cho doanh nghiệp vận tải đường sắt, thông qua việc đưa ra các nguyên tắc và

phương pháp xác định phần Nhà nước bù lỗ cho các doanh nghiệp khi tham gia kinh
doanh các sản phẩm công ích đó.
Xoay quanh vấn đề đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đã có nhiều hướng tiếp
cận về giải pháp từ vi mô đến vĩ mô song chưa có nghiên cứu nào về Chính sách thúc
đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Thành phố Hồ Chí Minh
theo hướng giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong việc trang bị và đổi mới
công nghệ theo hướng quản lý sản phẩm đầu ra. Nói cách khác đề tài Chính sách quản
lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích
tại TPHCM là một khía cạnh còn nhiều mảng trống cần được nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chung:
Đề xuất chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích theo sản phẩm đầu ra và
các giải pháp bổ sung để thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích
tại TP.HCM.
Mục tiêu cụ thể:
- Nêu thực trạng về chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ công ích trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp công ích.
- Phân tích rào cản về chính sách quản lý sản phẩm của các doanh nghiệp công
ích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đối với việc thúc đẩy đổi mới công nghệ.
- Đề xuất giải pháp về chính sách quản lý sản phẩm đầu ra trong hoạt động
dịch vụ công ích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nhằm thúc đẩy hoạt động đổi
mới công nghệ của các doanh nghiệp công ích
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Nghiên cứu trường hợp doanh nghiệp công ích trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi thời gian:
- Nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 2010 - 2015.
11



Phạm vi nội dung:
- Thực trạng chính sách quản lý sản phẩm, dịch vụ tại các doanh nghiệp công ích
tại TP.HCM trong 5 năm gần đây (2010-2015) để đề xuất chính sách quản lý theo sản
phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ.
5. Mẫu khảo sát:
- Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ Công ích quận 2.
- Công ty TNHH Một thành viên Thoát nước Đô thị TP. Hồ Chí Minh.
6. Câu hỏi nghiên cứu:
Cần có chính sách quản lý sản phẩm đầu ra như thế nào để thúc đẩy các doanh
nghiệp công ích chủ động đổi mới công nghệ?
7. Giả thuyết nghiên cứu:
Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp công ích nhằm thúc
đẩy hoạt động đổi mới công nghệ phải dựa trên triết lý các đơn vị quản lý nhà nước
không cần quản lý chi phí, không cần có định mức, đơn giá (trên cơ sở xác định được
chi phí tối thiểu, giá thành), chỉ cần quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra (bằng các tiêu
chí cụ thể).
8. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã tiến hành nghiên cứu một số tài liệu của các
chuyên gia trong nước về các nội dung liên quan đến quản lý sản phẩm, dịch vụ công
ích theo đầu ra, lý thuyết về quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra, đổi mới công nghệ...
- Phương pháp quan sát: Tác giả sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp tại các
doanh nghiệp công ích theo mẫu khảo sát là: Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ
Công ích quận 2 và Công ty TNHH Một thành viên Thoát nước Đô thị TP. Hồ Chí
Minh để nhận diện các chu trình quản lý
- Phỏng vấn sâu:
Trong quá trình thực hiện khảo sát, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu một số
chuyên gia trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra, các lãnh đạo tại các đơn
vị dịch vụ công ích, các đơn vị quản lý nhà nước đối với hoạt động dịch vụ công ích.


12


9. Kết cấu của Luận văn:
- Mở đầu
- Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách quản lý sản phẩm đầu ra và hoạt động
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công ích.
- Chương 2. Nhận diện và phân tích thực trạng chính sách quản lý sản phẩm,
dịch vụ công ích với hoạt động đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công ích của
Tp. Hồ Chí Minh
- Chương 3. Định hướng chính sách quản lý sản phẩm đầu ra gắn với một số
giải pháp nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công ích.
- Kết luận và khuyến nghị.

13


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ SẢN PHẨM
ĐẦU RA VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP CÔNG ÍCH

1.1.

Khái niệm chính sách quản lý sản phẩm đầu ra và các khái niệm có liên
quan

1.1.1. Khái niệm quản lý sản phẩm đầu ra
Chính sách sản phẩm đầu ra bao gồm các hoạt động và giải pháp nhằm đề ra,
thực hiện các chiến lược và chiến thuật về sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Trong

đó, sản phẩm theo nghĩa căn bản nhất được hiểu là vật phẩm tổng hợp các đặc tính về
vật lý, hóa học, sinh học được tập hợp trong một đặc tính đồng nhất, là vật mang giá trị
sử dụng. Khái niệm sản phẩm không đồng nhất với ý nghĩa hàng hóa bởi hàng hóa là
những sản phẩm được đem ra trao đổi và buôn bán trên thị trường. Theo tiếp cận hệ
thống đối với một quy trình sản xuất, đầu vào sẽ bao gồm các yếu tố sản xuất như:
vốn, nhân công, vật tư, công nghệ, nguyên liệu, năng lượng, phương thức quản lý…
qua 1 quy trình sản xuất sẽ tạo ra hệ thống các sản phẩm đầu ra.Tuy nhiên quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chưa thể kết thúc ở đây, nếu doanh nghiệp chỉ
sản xuất để tạo ra sản phẩm rồi xếp vào kho hoặc để ban phát thì doanh nghiệp đó sẽ
không tồn tại trong nền KTTT. Vì thế đòi hỏi doanh nghiệp đó phải trao bán sản phẩm
trên thị trường.Và đương nhiên muốn thu về lợi nhuận tốt nhất, hàng hóa chiếm được
thị phần cao nhất thì sản phẩm đầu ra phải đáp ứng với nhu cầu thị trường, có giá bán
thích hợp…Vì vậy các doanh nhân phải tìm hiểu kĩ thị trường, có tiềm lực và năng lực
và huy động các yếu tố đầu vào…nhất là phải đánh giá trước hiệu quả kinh doanh,
quản lý được kết quả đầu ra ngay từ khi chuẩn bị ra quyết định sản xuất.
Quản lý sản phẩm đầu ra thực chất là cách nói khác của quản lý chất lượng theo
sản phẩm đầu ra. Để hiểu rõ hơn về phương pháp quản lý chất lượng này, cần làm rõ
nội hàm của khái niệm chất lượng cũng như đặc điểm của chất lượng. Theo giáo trình
quản lý chất lượng sản phẩm, chất lượng được hiểu là mức độ của một tập hợp các
đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu, trong đó yêu cầu là những nhu cầu hay mong
đợi đã được công bố, ngầm hiểu chung hay bắt buộc.
Đặc điểm của chất lượng bao gồm:
1. Chất lượng được đo bằng sự thoã mãn các yêu cầu. Nếu một sản phẩmvì lý do
nào đó mà không đáp ứng đựơc yêu cầu, không được thị trường chấpnhận thì phải bị
14


coi là có chất lượng kém, cho dù trình độ công nghệ để chế tạora sản phẩm đó có thể
rất hiện đại. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở đểcác nhà quản lý định ra chính
sách, chiến lược kinh doanh của mình.

2. Chất lượng được đo bằng sự thoả mãn các yêu cầu, mà yêu cầu luônl uôn biến
động nên chất lượng cũng luôn biến đổi theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng.
Vì vậy phải định kỳ xem xét lại các yêu cầu chất lượng.
3. Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, cần phải xét mọi đặc tính của đối
tượng, có liên quan đến sự thoả mãn những yêu cầu cụ thể.
4. Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá.Chất lượng có
thể áp dụng cho mọi thực thể, có thể là sản phẩm, một hoạt động, một quá trình, một
doanh nghiệp hay một con người.
5. Cần phân biệt giữa chất lượng và cấp chất lượng.
Cấp chất lượng là chủng loại hay thứ hạng của các yêu cầu chất lượng khác nhau
đối với sản phẩm, quá trình hay hệ thống có cùng chức năng sử dụng. Ví dụ căn hộ cấp
1 hay cấp 4 là cấp chất lượng của nhà ở. Cấp chất lượng phản ánh khác biệt đã định
hướng hoặc đã thừa nhận trong các yêucầu chất lượng. Một đối tượng ở cấp cao cũng
có thể có chất lượng không đápứng các yêu cầu (đã định ra cho đối tượng đó) và
ngược lại.
Trong nền kinh tế hiện đại khi nói đến chất lượng không thể bỏ qua các yếu tố
giá cả và dịch vụ trước, trong và sau khi bán. Đó là những yếu tố mà khách hàng nào
cũng quan tâm sau khi thấy sản phẩm mà họ định mua thoả mãn yêu cầu của họ. Ngoài
ra vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn cũng là yếu tố vô cùng quan trọng trong
sản xuất hiện đại, nhất là khi các phương pháp sản xuất “vừa – đúng lúc”(Just - in time: sản xuất những gì cần thiết, đúng lúc, đúng số lượng), “không kho”( Non - stock
- production) đang được thịnh hành ở các công ty hàng đầu. Để thoả mãn yêu cầu,
cũng còn cần quan tâm đến những yếu tố khác như thái độ của người làm các dịch vụ
tiếp xúc với khách hàng, từ người thường trực, tiếp tân đến trực điện thoại và cảnh
quan, môi trường làm việc của công ty.
Chất lượng luôn có thể đặc trưng qua những chỉ tiêu có thể biểu hiện bằng một số
trị số và sự định lượng, đó là mức chất lượng. Các yêu cầu này được gọi là các yêu cầu
chất lượng, hay còn gọi là tiêu chuẩn chất lượng. Các yêu cầu chất lượng phải phản
ánh đầy đủ yêu cầu đã hoặc chưa công bố của khách hàng và các yêu cầu xã hội. Các
15



yêu cầu xã hội là những điều bắt buộc quy định trong luật pháp, trong các chế định.
Căn cứ vào các yêu cầu chất lượng đã được xác định, các nhà thiết kế sẽ xây dựng nên
các yêu cầu kỹ thuật/quy định kỹ thuật cho sản phẩm bao gồm cả các bộ phận, chi tiết
của sản phẩm sao cho sản phẩm cuối cùng sẽ có tính năng thỏa mãn các yêu cầu chất
lượng đã định. Bởi vậy các yêu cầu chất lượng còn gọi là các yêu cầu tính năng/quy
định tính năng. Các tiêu chuẩn chất lượng là công cụ thiết thực cho hoạt động đo
lường và quản lý chất lượng trong thực tiễn, là cơ sở kiểm định hiệu quả và hiệu lực
của quản lý.
Hoạt động quản lý trong lĩnh vực chất lượng được hiểu là quản lý chất lượng.
Theo tiêu chuẩn ISO 9000:2000, TCVN ISO 9000:2000 quản lý chất lượng là tổng
thể: “Các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất
lượng” và thực hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng, kiểm soát
chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng. Các phương thức của quản lý
chất lượng bao gồm:
-

Kiểm tra chất lượng là hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm, định cỡ một hay
nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù
hợp của mỗi đặc tính. Kiểm tra nhằm sàng lọc sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng
hay không.

-

Kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử
dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng bao gồm kiểm sát át con người, kiểm soát
phương pháp và quá trình, kiểm soát đầu vào, kiểm soát thiết bị, kiểm soát môi
trường. Kiểm soát theo chu trình Derming là hoạt động kiểm soát vào các yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất lượng.


-

Đảm bảo chất lượng là mọi hành động có kế hoạch và có hệ thống nhằm đem lại
lòng tin thỏa đáng rằng sản phẩm thỏa mãn các yêu cầu đã định đối với chất lượng.
Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đã xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn ISO
9000 để giúp cho các tổ chức có được một mô hình chung về đảm bảo chất lượng.

-

Kiểm soát chất lượng toàn diện theo định nghĩa của Ủy ban Giải thưởng Derming
của Nhật là “Hoạt động thiết kế, sản xuất và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ có
chất lượng theo yêu cầu của khách hàng một cách kinh tế, dựa trên nguyên tắc định
hướng vào khách hàng và xem xét đầy đủ đến phúc lợi xã hội. Nó đạt được mục
tiêu của công ty thông qua việc lặp lại một cách hiệu quả chu trình PDCA, bao gồm
16


lập kế hoạch - thực hiện - kiểm tra - hành động điều chỉnh. Điều đó được thực hiện
bằng cách làm cho toàn thể nhân viên thông hiểu và áp dụng tư tưởng và phương
pháp thống kê đối với mọi hoạt động nhằm đảm bảo chất lượng. Các hoạt động này
là một chuỗi công việc, bao gồm khảo sát, nghiên cứu, phát triển, thiết kế, thu mua,
sản xuất, kiểm tra và marketing cùng với tất cả các hoạt động khác cả bên trong và
bên ngoài công ty.”
-

Quản lý chất lượng toàn diện: Là một phương pháp quản lý của một tổ chức, định
hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và nhằm đem lại sự
thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng và lợi ích của mọi thành
viên của công ty đó và của xã hội.
Căn cứ vào những phân tích về chất lượng, quản lý chất lượng nói chung của các


tổ chức, có thể hiểu Quản lý sản phẩm đầu ra là tổng thể các hoạt động có phối
hợp để định hƣớng và kiểm soát một tổ chức về chất lƣợng sản phẩm đầu ra. Cụ
thể đây là phƣơng thức quản lý đảm bảo cho ngƣời cung cấp sản phẩm đầu ra có
quyền tự chủ trong quản lý để quyết định những đầu vào cần thiết để sản xuất
đầu ra cũng nhƣ đảm bảo đƣợc chất lƣợng sản phẩm đầu ra.
Quy trình quản lý sản phẩm đầu ra theo quan điểm của tác giả cần được được
thực hiện theo mô hình2 sau:

2

Nguyễn Hồng Hà, Đổi mới phương thức cấp phát ngân sách gắn với kết quả đầu ra,
4/11/2013

17


Ghi chú :
1.Các tính toán kinh tế xác định dự toán chi tiêu.
2.So sánh hiệu quả: đạt được 1 lượng sản phẩm đầu ra như thế thì cần sử dụng bao
nhiêu đầu vào.
3. Mức độ thành công: sản phẩm đầu ra đó tác động tích cực hay tiêu cực đối với nền
kinh tế xã hội.
4. Hiệu suất sử dụng nguồn lực: đánh giá tác động của việc sử dụng các yếu tố đầu vào
đối với nền kinh tế xã hội.
Sở dĩ mô hình này được lựa chọn cho chu trình quản lý sản phẩm đầu ra bởi khả
năng thay đổi việc phân bổ các nguồn lực mang nặng tính chủ quan, áp đặt từ các cấp
có quyền lực phân bổ, cách thức phân bổ mang tính cào bằng, dàn trải, thiếu trọng tâm,
trọng điểm, hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp, chất lượng hàng hóa cung cấp cho xã hội
kém, người quản lý thiếu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động. Thực hiện quản lý sản

phẩm đầu ra theo mô hình này giúp gắn kết giữa mục tiêu chất lượng sản phẩm đầu ra
với toàn bộ quá trình vận hành, xây dựng quy trình quản lý, tức là trọng tâm vào việc
quản lý đối với hiệu quả sử dụng nguồn lực và mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội của các
sản phẩm đầu ra.
1.1.2. Khái niệm chính sách
Chính vì vậy, so với khái niệm pháp luật, chính sách được hiểu rộng hơn nhiều.
Nếu xét nội hàm của khái niệm này trong mối quan hệ với chính trị và pháp quyền thì
khái niệm chính sách được tìm hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
- Chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào đường lối
chính trị chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà người ta định ra chính
sách.
- Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách khác, pháp luật
là kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có thể có chính sách chưa được luật pháp
hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể không bao giờ được luật pháp hóa vì nó không
được lựa chọn để luật pháp hóa khi không còn phù hợp với tư tưởng mới hay sự thay
đổi của thực tiễn. Nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách hay pháp luật ngoài
chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, còn
pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách.
18


Theo quan điểm này chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng cầm
quyền và với bộ máy quyền lực công – nhà nước. Từ đây, sự khác biệt giữa chính sách
và pháp luật được thể hiện như sau:
- Nếu chính sách là những tư tưởng, định hướng, những mong muốn chính trị được thể
hiện trong các nghị quyết, các văn kiện của Đảng thì pháp luật được thể hiện bằng các
quy tắc xử sự mang tính pháp lý, được ban hành bởi Nhà nước theo những trình tự và
thủ tục nghiêm ngặt (hình thức, thẩm quyền, quy trình soạn thảo và ban hành);
- Nếu chính sách (khi chưa được luật pháp hóa) chỉ là những cái đích mà người ta cần
hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng buộc chung hay tính bắt buộc

phải thực hiện, thì pháp luật lại là những chuẩn mực có giá trị pháp lý bắt buộc chung
và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập thì chính sách
được hiều là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn cần hướng tới,
cần đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình
thức, là phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính sách mà thôi.
Hay chính sách xét từ góc độ nhà nước là tổng thể những nguyên tắc, biện pháp của
nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung trong đời sống kinh tế - xã hội nhằm đạt
mục tiêu đề ra. Các cách tiếp cận chính sách như trên có phần phiến diện khi đồng
nhất giữa chính sách với quan điểm của Đảng phái chính trị, hay của một bộ phận giai
tầng nắm quyền lực nhà nước.
Thuật ngữ "chính sách" được sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các phương tiện
thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên để hiểu đúng thuật ngữ này
cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Theo nghĩa giản đơn, chính sách là
chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một
vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Theo Từ điển tiếng Việt “chính
sách” được hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định,
dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…”. Theo
James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi
một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm". Các chính
sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau: Chính sách của Liên
hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách của Chính phủ, chính sách của chính

19


quyền địa phương, chính sách của một bộ, chính sách của một tổ chức, đoàn thể, hiệp
hội, chính sách của một DN …
Các tổ chức, các doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể… có thể đề ra những chính sách
riêng biệt để áp dụng trong phạm vị một tổ chức, doanh nghiệp , hiệp hội hay đoàn thể

đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng
chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt và
được coi là những "chính sách tư", tuy trên thực tế khái niệm "chính sách tư" hầu như
không được sử dụng. Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong
bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi
là chính sách công.
Nghiên cứu này đi theo quan điểm của Vũ Cao Đàm về khái niệm chính sách có tính
bao quát như sau: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một
chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc
một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt
động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát
triển của một hệ thống xã hội”.
Theo khái niệm này chính sách không bị giới hạn bởi công hay tư, bởi chủ thể ban
hành chính sách có quyền lực chính trị hay không có quyền lực chính trị, điều cốt yếu
mà chính sách hướng đến đó là tác động vào động cơ hoạt động của con người thông
qua một tập hợp các thiết chế để tạo ra một sự phân biệt đối xử giữa các nhóm người
trong xã hội.
1.1.3. Khái niệm chính sách quản lý sản phẩm đầu ra
Từ phân tích khái niệm quản lý sản phẩm đầu ra và khái niệm chính sách nói
chung, theo quan điểm của tác giả Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra là tập hợp
các biện pháp được thể chế hóa do chủ thể quan lý đưa ra trong đó tạo sự ưu đãi
một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định
hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện mục tiêu đảm bảo chất lượng sản phẩm
đầu ra của tổ chức. Quản lý sản phẩm đầu ra là một nỗ lực nhằm kiểm soát hiệu quả
của việc sử dụng nguồn lực trong tương quan với khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội, do
đó chính sách quản lý sản phẩm đầu ra sẽ tập trung vào việc đảm bảo cho các thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị có được vai trò, vị trí hợp lý và quyền tự chủ trong việc
quyết định các yếu tố đầu vào và quy trình cần có cho hoạt động của tổ chức.
20



Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra dựa trên yếu tố cốt lõi là chiến lược
Kaizen. Theo ý kiến của các chuyên gia Nhật, chiến lược Kaizen là phương pháp quan
trọng trong quản lý của Nhật Bản, là chìa khoá của sự thành công trong cạnh tranh của
Nhật. Kaizen có nghĩa là cải tiến liên tục, "không ngày nào không có một cải tiến nào
đó được thực hiện trong công ty", huy động, khuyến khích và thừa nhận nỗ lực của
con người trong quá trình làm việc để thực hiện cải tiến. Chiến lược Kaizen đòi hỏi
các nhà quản lý phải tìm cách thoả mãn khách hàng, phục vụ các nhu cầu của khách
hàng. Với quan niệm rằng cải tiến thường là một quá trình diễn ra dần dần và cần có
thời gian mới có hiệu quả. Kaizen cũng quan tâm đến đổi mới công nghệ là cần thiết,
nhưng sản phẩm có được từ công nghệ mới lúc đầu thường đắt và chất lượng chưa
đảm bảo. Bởi vậy họ cho rằng tiếp sau công nghệ mới là phải hướng nỗ lực vào việc
giảm chi phí, cải tiến chất lượng và cách thức phát triển chủ yếu của công nghệ ngày
nay đang chuyển từ nhảy vọt sang từng bước nhỏ. Sức mạnh công nghệ của Nhật là sự
liên kết chặt chẽ giữa triển khai, thiết kế và sản xuất. Chính yếu tố này đã khiến việc
triển khai sản xuất hàng loạt được nhanh chóng hơn ở phương Tây và ít gặp vấp váp
hơn. Kaizen cũng không phủ nhận đổi mới, nó không thay thế hay loại trừ đổi mới mà
bổ sung cho nhau. Khi Kaizen đã gần cạn, không phát huy mạnh mẽ thì cần có đổi
mới, và ngay sau khi có đổi mới cần thực hiện Kaizen. Kaizen và đổi mới là hai thành
phần không tách rời nhau trong tiến trình phát triển.
Chính chiến lược Kaizen trong chính sách quản lý sản phẩm đầu ra sẽ giải
quyết được mối quan hệ tất yếu giữa quản lý sản phẩm đầu ra và đổi mới công nghệ
trong doanh nghiệp. Nói cách khác chất lượng được quản lý tốt là tiền đề cho việc đổi
mới công nghệ tại các doanh nghiệp xét về mặt dài hạn.
1.2.

Khái niệm doanh nghiệp công ích và đổi mới công nghệ

1.2.1. Khái niệm hàng hóa công cộng, doanh nghiệp nhà nƣớc và doanh nghiệp
công ích

Những người thuộc trường phái Trọng thương thế kỷ 15 - 17 cho rằng để có
nhiều tiền, nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ, làm "bà đỡ" cho quá trình làm
tăng của cải, tăng giá trị của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh tế học cổ điển Anh thì
muốn phủ định vai trò kinh tế của Nhà nước. Mặc dù vậy, A. Smith, nhà kinh tế học cổ
điển nổi tiếng thời bấy giờ - vẫn phải thừa nhận rằng Nhà nước không thể không có vai
trò trong việc duy trì các công trình công cộng (đường sá, cầu cống, sông đào, bến
21


cảng) và những thể chế mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Engel khi nói về sự tác động
của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế đã khẳng định có ba loại: Một là, nếu những
tác động phù hợp, đúng quy luật, cùng hướng sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngược lại, làm trái quy luật, áp đặt sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ba là, tác động
của nhà nước tốt hướng này, cản trở hướng khác sẽ gây những cản trở trong quá trình
phát triển kinh tế.
Can thiệp vào đời sống kinh tế có nghĩa là nhà nước dùng quyền lực áp đặt
những quy định dưới hình thức pháp luật nhằm hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của các
chủ thể trong nền kinh tế cho phù hợp với những mục tiêu Nhà nước đã lựa chọn. Để
thực hiện vai trò này, nhà nước có thể ban hành và thực thi hệ thống luật pháp kinh tế
can thiệp vào phân phối thu nhập trong xã hội, các chính sách kinh tế, chính sách an
ninh, chính sách phúc lợi xã hội hoặc trực tiếp tổ chức xây dựng kết cấu hạ tầng phục
vụ sản xuất và đời sống. Khẳng định vai trò của Nhà nước trong tổ chức xây dựng và
quản lý kết cấu hạ tầng, C. Mác cho rằng, đó không chỉ là sự thể hiện chức năng của
Nhà nước, mà trong những trường hợp riêng biệt, nó còn là đòi hỏi phải có Nhà nước.
Đó là trường hợp các Nhà nước ở phương Đông: "Dù cho những chính quyền chuyên
chế đã xuất hiện và suy vong ở Ba Tư và Ấn Độ có nhiều đến đâu chăng nữa, thì mỗi
một chính quyền đó cũng biết rất rõ rằng nó trước hết là người tổng phụ trách việc
tưới nước cho các thung lũng mà nếu không có thì ở đó không thể có một nền nông
nghiệp nào hết"3. Rõ ràng ngay cả những quốc gia vốn coi trọng vai trò của kinh tế tư
nhân, những quốc gia có nền KTTT phát triển từ rất sớm nhưng đều có một quan điểm

chung về vai trò của nhà nước trong việc đảm nhận trách nhiệm cung ứng các sản
phẩm HHCC trên thị trường.
Cho đến nay thuật ngữ HHCC đã được sử dụng và trở thành khái niệm tương
đối thông dụng trong nghiên cứu khoa học và đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước tuy nhiên, đến nay vấn đề này vẫn nhiều điểm chưa thống nhất cả về lý thuyết
cũng như thực tế. Có hai góc độ tiếp cận về HHCC ở Việt Nam: góc độ thuần túy lý
thuyết và góc độ chính sách. Hai góc độ tiếp cận này phát triển song hành từ đầu thập
kỷ 90 và ngày càng hoàn thiện cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới tư duy
kinh tế và sự xâm nhập, phát triển các quan niệm KTTT. Hai góc độ tiếp cận này
3

Đỗ Thị Hải Hà (2003), "Quản lý nhà nước với vấn đề dịch vụ công", Kinh tế và dự báo, 9(365), tr. 22-23.

22


không mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Về tiếp cận lý thuyết có nhiều quan niệm
khác nhau về HHCC. Một số ý kiến cho rằng HHCC là loại hàng hóa được cung cấp
mà người tiêu dùng nó không phải trực tiếp trả tiền. Một số ý kiến khác lại cho rằng
dịch vụ công là mọi hoạt động thực thi các chức năng của Nhà nước, bao gồm cả chức
năng cai trị của bộ máy Nhà nước đối với xã hội và chức năng cung cấp các hàng hóa
và dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của công dân còn HHCC chỉ là một bộ phận của
dịch vụ công, HHCC xét theo nghĩa này chỉ gồm những hàng hóa và dịch vụ phục vụ
cho những nhu cầu tối cần thiết của cộng đồng, do các tổ chức của Nhà nước hoặc các
chủ thể được Nhà nước ủy quyền và tài trợ đứng ra cung cấp, không bao gồm các hoạt
động mang chức năng cai trị. Mặc dù vậy, trước xu hướng hiện nay là thu hẹp dần
phạm vi của các loại hàng hóa và dịch vụ không phải trực tiếp trả tiền, quan niệm về
HHCC như cách thứ nhất không phản ánh được đầy đủ tính sâu sắc của khái niệm
HHCC. Thuật ngữ HHCC theo cách quan niệm thứ hai và được xem xét trên khía cạnh
những thuộc tính cơ bản của nó: tính không kình địch và tính không loại trừ. Đây là

những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, đảm
bảo lợi ích chung của cả cộng đồng.
HHCC được chia làm các loại: Nhóm HHCC thuần túy: những hàng hóa và
dịch vụ không thể chia nhỏ và không thể quy định mức độ sử dụng đối với các đối
tượng khác nhau. Nói cách khác đó là các hàng hóa và dịch vụ mà nếu thêm một người
sử dụng thì không ảnh hưởng đến việc người khác sử dụng (tính không kình địch) và
khi chúng được sản xuất ra không thể ngăn cấm ai đó muốn tiêu dùng (tính không loại
trừ). Các HHCC thuần túy điển hình: hệ thống đê điều phòng chống lụt bão, hệ thống
các biển báo đường sông, đường biển, đường bộ, hệ thống vệ sinh môi trường và cảnh
quan đô thị.... Loại HHCC này rất khó có thể tính toán các chi phí để sản xuất ra đồng
thời cũng không thể phân bổ lượng tiêu thụ cụ thể cho mỗi thành viên của xã hội (hội
việc một ai đó sẽ hưởng bao nhiêu hàng hóa chiếu sáng công cộng), từ đó cũng không
thể định giá cho người sử dụng (ai sử dụng nhiều thì phải trả nhiều tiền). Nhóm các
HHCC không thuần túy: nhóm này mang những thuộc tính gần giống HHCC thuần túy
nhưng ở mức độ khác. Một số loại không thể loại trừ nhưng việc một người sử dụng có
thể ảnh hưởng đến người khác. Như trong giáo dục bậc tiểu học và chăm sóc sức khỏe
có thể loại trừ nhưng để tạo ra sự công bằng tối thiểu cho các công dân Nhà nước
không muốn loại trừ.
23


×