Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

xã hội hóa các hoạt động văn hóa tại thành phố hồ chí minh chính sách và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.44 MB, 165 trang )


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông đảo của một đô thị loại đặc
biệt, có nhu cầu cao về tổ chức các hoạt động văn hóa cũng như hưởng thụ các
dịch vụ văn hóa với chất lượng cao, vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính
giáo dục. Những năm 1975-1985, các loại hình hoạt động văn hóa được nhà
nuớc bao cấp về tài chính, kiểm tra nội dung chặt chẽ theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, bộ máy hoạt động văn hóa được tổ chức theo cách thức hoạt động
trong cơ chế bao cấp như vậy. Nhưng, với xu thế phát triển nhanh của thành phố
cùng với đà phát triển chung của cả nước, hoạt động văn hóa cần có một “chiếc
áo” mới, thay thế cho cơ chế trước đây. Từ thực tiễn đó, Nghị quyết
90/1997/NQ-CP về Phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo
dục, y tế, văn hóa đã được ban hành vào ngày 21/8/1997. Tiếp theo đó, Nghị
định số 73/1999/NĐ-CP về Chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao được ban hành vào
ngày 9/8/1999. Ngày 30/12/1999, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin đã công bố
đề án Xã hội hóa hoạt động văn hóa.
Các văn bản pháp quy ấy ra đời đã được các địa phương đón nhận, hoạt
động văn hóa có nhiều chuyển biến theo huớng xã hội hóa. TP. Hồ Chí Minh,
vốn đã có những hoạt động mang tính thử nghiệm về việc tổ chức dịch vụ văn
hóa theo tinh thần đổi mới từ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, đã
triển khai khá nhanh chóng chủ trương xã hội hóa vào các lĩnh vực hoạt động,
được ghi nhận bước đầu có những kết quả đáng khích lệ. TP. Hồ Chí Minh đã
huy động được nhiều nguồn lực của xã hội phục vụ cho việc phát triển sự
nghiệp văn hóa của thành phố. Nhiều công ty tư nhân trong lĩnh vực nghệ thuật
đã và đang hoạt động. Nhiều phương thức xã hội hóa đã thành công, làm phong
phú hơn đời sống văn hóa ở Thành phố. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều điều bất
cập trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa, cũng như những mặt trái của xã


hội hóa cũng chưa được chỉ rõ và chưa có chính sách cụ thể để điều chỉnh. Tiến
trình xã hội hóa ở TP. Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều vấn đề được đặt ra, đòi hỏi
phải có sự đầu tư nghiên cứu nhằm làm cho tiến trình ấy được đẩy mạnh đúng
định hướng, góp phần xây dựng Thành phố văn minh hiện đại một cách bền
vững, đồng thời phát huy vai trò của Thành phố là trung tâm khu vực phía Nam
của đất nước.

2
Vì thế, đề tài “ . Hồ Chí Minh –
Chính sách và giải pháp” đáp ứng cho nhu cầu trên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc thuộc lĩnh vực của
đề tài
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Thúc đẩy các hoạt động văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng
như nhắm đến việc giáo dục, định hướng xã hội đến các giá trị của cuộc sống là
mục tiêu của nhiều nhà văn hóa, nhiều tổ chức hoạt động văn hóa trên thế giới.
Trong khuôn khổ đề cương này, chúng tôi xin trình bày một số vấn đề từ Nhật
Bản, Bungaria và Tây Ban Nha.
Năm 1998, tác giả người Nhật là Michihiro Watanabe viết tham luận tiêu
đề “Huy động nguồn lực cho hoạt động văn hóa” (Mobilizing resources for
cultural activities)
1
, nhận định vấn đề cấp thiết đang đặt ra cho chính sách văn
hóa của nhiều chính phủ trên thế giới đó là vấn đề đầu tư tài chính cho việc mở
rộng các hoạt động sáng tạo, bởi vì các quỹ có sẵn hiện vẫn không thể đáp ứng
nổi nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng gia tăng của người dân.
Năm 2003, tác giả người Bungaria, Lidia Varbanova có bài nghiên cứu
tựa đề “Cấp vốn các hoạt động văn hóa ở Đông Nam Châu Âu”
2
, đây là một

nghiên cứu được ủy nhiệm bởi Chương trình Policies for Culture. Theo Lidia
Varbanova, sau năm 1989 các chính phủ ở Đông Nam châu Âu bắt đầu tái thiết
tổng thể chính sách văn hóa của họ để giảm thiểu sự tham gia trực tiếp của Nhà
nước trong lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa và tăng sự hỗ trợ gián tiếp thông qua
một loạt các công cụ lập pháp. Mô hình Nhà nước là “chủ sở hữu chính” của
ngành công nghiệp văn hóa đang dần được thay thế bằng mô hình Nhà nước là
“người điều phối chính” thông qua các chức năng kinh tế và pháp luật.
Javier Brun, Giám đốc Sở Văn hóa của Hội đồng thành phố Huesca (Tây
Ban Nha) viết bài “Lĩnh vực văn hóa độc lập ở Tây Ban Nha” (2007) đăng trong
Lab for Culture
3
phân tích về sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong các
hoạt động văn hóa tại Tây Ban Nha. Ông cho biết các hoạt động văn hóa tại Tây
Ban Nha được phân quyền cao.


1

2

3
/>secteur-culturel-ind%C3%A9pendant-en-espagne

3
Như vậy, vấn đề xã hội hóa các hoạt động văn hóa không phải là vấn đề
của TP. Hồ Chí Minh, của riêng Việt Nam, mà là một vấn đề mang tính chất
toàn cầu mà nhiều quốc gia phải có chiến lược.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Công trình Xã hội hóa hoạt động văn hóa của Viện Văn hóa - Bộ Văn
hóa Thông tin (năm 1996) do Lê Như Hoa chủ biên

1
tập hợp 33 bài nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận và thực
tiễn sát thực với ngành văn hóa. Mỗi tác giả tiếp cận vấn đề xã hội hóa ở những
chuyên ngành khoa học khác nhau và từ đó đề cấp đến vấn đề xã hội hóa văn
hóa với những trọng điểm khác nhau. Bài viết “Những vấn đề đặt ra trong công
tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa” của tác giả Lê Như Hoa mở đầu một số
vấn đề lý luận như ý nghĩa của việc xã hội hóa hoạt động văn hóa, cách hiểu về
xã hội hóa hoạt động văn hóa, lịch sử của việc xã hội hóa hoạt động văn hóa, vai
trò của Nhà nước trong việc thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Bài viết
“Cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa và xã hội hóa văn hóa”
của tác giả Huỳnh Khái Vinh đưa ra một số quan điểm cho quá trình từ văn hóa
bao cấp đến văn hóa thị trường, về cơ chế xã hội hóa văn hóa và vấn đề định
hướng xã hội hóa văn hóa.
Tác giả Trường Lưu với bài “Văn hóa từ ý nghĩa xã hội tự thân đến tính
xã hội hóa” cho rằng nhân dân vừa là người hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa, đồng
thời là người tham gia các hoạt động văn hóa, sáng tạo ra của cải tinh thần”
2
.
Với bài Xã hội hóa các hoạt động văn hóa và xã hội hóa kinh doanh văn
hóa”, tác giả Trần Trọng Đăng Đàn cho rằng kinh doanh văn hóa là một vấn đề
cần quan tâm nhiều nhất trong quá trình xã hội hóa các hoạt động văn hóa
3
.
Trong bài “Mấy bài học quan trọng về xã hội hóa hoạt động văn hóa”, tác
giả Huỳnh Quốc Thắng nhận định tính đa chủ thể là kết quả của vấn đề xã hội
hóa các hoạt động văn hóa và cho rằng đấy là một vấn đề cần được xác định rõ
của quá trình xã hội hóa văn hóa, và là một nội dung phải quan tâm và phải
được xác định rõ.
Về mặt thực tiễn, có hai bài viết đáng chú ý trong công trình này là bài

viết “Xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở quận 1 – TP. Hồ Chí Minh” của Mạc
Như Sương
4
và bài “Những vấn đề về xã hội hóa các hoạt động văn hóa (qua


1
Lê Như Hoa (chủ biên), Xã hội hóa hoạt động văn hóa, Nxb VHTT, Hà Nội, 1996.
2
Lê Như Hoa (chủ biên), Xã hội hóa hoạt động văn hóa, Nxb VHTT, Hà Nội, 1996, tr.43-53.
3
Lê Như Hoa (chủ biên), Xã hội hóa hoạt động văn hóa, Nxb VHTT, Hà Nội, 1996, tr.54-68.
4
Phó Chủ tịch UBND Quận 1. TP. Hồ Chí Minh, 1996.

4
thực tế huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh) của Huỳnh Ngọc Trung
1
. Hai bài
viết này phần nào khảo tả được một số trường hợp xã hội hóa các hoạt động văn
hóa ở thành phố Hồ Chí Minh cách nay hơn 12 năm.
Công trình tập thể này cho thấy những cố gắng ban đầu của các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lý trong việc tìm kiếm, phát hiện quy luật cho hành
trình xã hội hóa văn hóa của thành phố cũng như của cả nước.
Công trình Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta
hiện nay (1999) của Hoàng Vinh đã dành riêng chương thứ 13 để viết về vấn đề
“Xã hội hóa các hoạt động văn hóa – một hướng đi quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng văn hóa ở nước ta”. Tác giả đã phân tích từ quan niệm về văn hóa cho
đến cách hiểu về xã hội hóa văn hóa; đưa ra những nguyên tắc của quá trình xã
hội hóa văn hóa ở nước ta. Ngoài ra, đây cũng là công trình có phần trình bày

khá công phu về thể chế văn hóa và mạng lưới thiết chế văn hóa, góp phần tạo
cơ sở lý luận để nghiên cứu trường hợp vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa ở
TP. Hồ Chí Minh.
Năm 2000, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã cho xuất bản tập
sách Xã hội hóa hoạt động văn hóa - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn do Đinh
Xuân Dũng chủ biên. Cuốn sách gồm ba phần trong đó phần I trình bày “Một số
hiểu biết cơ bản về xã hội hóa hoạt động văn hóa”, phần II chủ yếu đánh giá kết
quả hoạt động và kinh nghiệm thực tiễn xã hội hóa hoạt động văn hóa ở các địa
phương từ sự tập hợp các bài viết của các nhà quản lý văn hóa, các cán bộ hoạt
động văn hóa. Đặc biệt, cuốn sách dành toàn bộ phần III, tập hợp đầy đủ các văn
bản của Đảng, Chính phủ, Bộ VH-TT về vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa.
Trong công trình này, đáng chú ý là bài viết “Vài nét về xã hội hóa hoạt động
văn hóa thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Hồng Liêm. Bài viết này đã phác thảo
bức tranh toàn cảnh thực tiễn xã hội hóa hoạt động văn hóa ở thành phố Hồ Chí
Minh vào thời điểm cách nay gần tròn 10 năm.
Năm 2006, Nguyễn Thanh Tuấn, trong công trình “Biến đổi văn hóa đô
thị Việt Nam hiện nay” đã nhận định “xã hội hóa văn hóa” như một tác nhân
tích cực và ngày càng giữ vai trò chủ đạo đối với việc biến đổi văn hóa đô thị
trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Theo ông, quá trình xã hội
hóa văn hóa bao giờ cũng sản sinh ra hai loại dịch vụ văn hóa: dịch vụ vì lợi
nhuận và dịch vụ phi lợi nhuận. Dịch vụ vì lợi nhuận phát triển theo các hình
thức sở hữu tài sản văn hóa (công lập, bán công, dân lập, tư nhân…). Dịch vụ


1
Trưởng phòng VHTT-TTDL huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh, 1996.

5
phi lợi nhuận gồm các hoạt động văn hóa tự nguyện, tự quản của các cá nhân, tổ
chức và doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế

1
.
Tháng 10 - 2006, các tác giả Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa đồng chủ
biên công trình Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam. Công trình đóng
góp vào việc làm rõ hơn quan niệm và thực tiễn về dịch vụ công và xã hội hóa
cung ứng dịch vụ công, đồng thời kiến nghị một số giải pháp đẩy mạnh xã hội
hóa cung ứng, phân phối, và quản lý 5 loại dịch vụ công rất quan trọng là giáo
dục, y tế, văn hóa, khoa học công nghệ, và thể dục thể thao. Các tác giả vạch ra
những nhận thức không đúng về cơ chế xã hội hóa, đó là việc coi xã hội hóa là
tư nhân hóa, hoặc coi xã hội hóa chỉ là sự đóng góp tiền của vật chất của nhân
dân trong điều kiện ngân sách Nhà nước hạn hẹp, hoặc coi xã hội hóa chỉ được
thực hiện trong các tổ chức ngoài Nhà nước cung ứng dịch vụ công, còn các tổ
chức của Nhà nước cung ứng dịch vụ công thì không cần xã hội hóa.
Cùng năm 2006, tác giả Trần Ngọc Khánh có bài viết “Góp phần xây
dựng hệ thống thiết chế văn hóa trong quá trình đô thị hóa hiện nay tại thành
phố Hồ Chí Minh”. Theo Trần Ngọc Khánh, quá trình “xã hội hóa” các hoạt
động thiết chế văn hóa ở nước ta hiện nay không chỉ là cuộc vận động “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”, mà thực chất là nhằm xác lập vai trò tự quản của
các cộng đồng, để cho cộng đồng có đủ khả năng tự tổ chức, vận hành và trang
bị các thiết chế văn hóa để tự mình hoàn thiện, phát triển đa dạng các phương
diện hoạt động trong đời sống xã hội”
2
.
Vấn đề xã hội hóa các hoạt động văn hóa cũng được sự quan tâm của giới
truyền thông. Giới này chú trọng đến việc áp dụng vào thực tiễn chủ trương xã
hội hóa hoạt động văn hóa.
Trên tờ Hà Nội Mới ngày 10 tháng 5 năm 2006, có bài “Xã hội hóa hoạt
động nghệ thuật: đáng khâm phục!” viết về mức độ xã hội hóa của thành phố
Hồ Chí Minh trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật. Tác giả cho biết những kết
quả ban đầu của quá trình xã hội hóa trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật được

sự đánh giá cao của các chuyên gia tư vấn nước ngoài trong dự án “Báo cáo
quốc gia về hiện trạng văn hóa Việt Nam”. Dự án này do Viện Văn hóa Thông
tin thực hiện từ năm 2000 đến 2004 dưới sự tài trợ của Thụy Điển trong khuôn
khổ “Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Thụy Điển


1
Nguyễn Thanh Tuấn, Biến đổi văn hóa đô thị, Nxb VHTT & Viện Văn hóa, 2006, tr.166-170.
2
Trần Ngọc Khánh, “Góp phần xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa trong quá trình đô thị hóa
hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh”, Khoa học Xã hội TP. HCM - Những vấn đề nghiên cứu,
Trung tâm KHXH&NV TP. HCM, 2006.

6
trong lĩnh vực văn hóa thông tin”. Theo nhận định của bà Ritva Michel - Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Phần Lan, “Ở nhiều nước châu Âu, rất khó
duy trì hai loại hình Nhà nước và tư nhân cùng song song hoạt động như thế
này. TP. Hồ Chí Minh làm được quả là đặc biệt”. Tuy thế, đoàn chuyên gia này
cũng lưu ý đến tính giá trị của văn hóa”
1
.
Trên Chuyên trang Điểm Bưu điện văn hóa xã của trang web Cổng phát
triển Việt Nam ngày 9/3/2007 có bài “Xã hội hóa hoạt động văn hóa: trọng tâm
là đời sống văn hóa”. Bài viết nhận định chủ trương xã hội hóa hoạt động văn
hóa đã thu hút các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tham gia hoạt động
văn hóa với những kết quả đáng khích lệ, mà nổi bật nhất là các lĩnh vực xuất
bản - in - phát hành sách; điện ảnh, bảo tồn bảo tàng”
2
.
Trên báo Nhân Dân số ra ngày 31/12/2008 có bài “Xã hội hóa các hoạt

động văn hóa nghệ thuật” do phóng viên Luân Vũ thực hiện. Phóng viên đã có
buổi nói chuyện với NSND Lê Ngọc Cường (Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu
diễn Bộ Văn hóa, Thể thao, và Du lịch) về chủ đề đời sống văn hóa nghệ thuật
của đất nước hiện nay. NSND Lê Ngọc Cường nhận định rằng “Đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước về văn hóa - nghệ thuật rất kịp thời, đúng đắn
nhưng chưa có những chính sách cụ thể, kịp thời, chưa cụ thể hóa được bằng kế
hoạch hành động. Đơn cử như chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ
thuật để khuyến khích mọi thành phần trong xã hội hăng hái tham gia thì phải đề
ra được những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như ưu tiên, ưu đãi thuế.”
3

Tờ báo Đất Việt (22/8/2009) có bài viết “Sân khấu TP. Hồ Chí Minh
sáng đèn nhờ xã hội hóa” của tác giả Võ Hà, phản ánh sự tương phản giữa một
bên là hệ thống sân khấu, nhà hát tư nhân luôn sáng đèn với một bên là hệ thống
sân khấu, nhà hát công do Nhà nước đầu tư thì vắng vẻ kéo theo nguy cơ “chảy
máu” nhân tài… Có thể nói, nhờ cơ chế xã hội hóa, giới đầu tư tư nhân đã làm
thay đổi bộ mặt sân khấu giải trí thành phố
4
.
Tờ Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 02/08/2009 có bài “Đầu tư và hiệu
quả” của tác giả Trần Bạch Tuyết cho thấy sự hoạt động vượt trội của các đơn vị
sân khấu tư nhân đã đóng góp đáng kể vào sự sôi động của đời sống sân khấu và
giúp cho công chúng có thêm nhiều sự lựa chọn. Vấn đề còn trăn trở là làm sao


1
Ngày 10/5/2006,
2

3


4
/>hoa/20098/55232.datviet

7
đầu tư cho sân khấu một cách hiệu quả, làm sao khơi dậy được sự năng động và
khát vọng sáng tạo của nghệ sĩ, thu hút được nhiều khán giả nhưng vẫn không bị
“đánh mất mình” theo các chiều hướng lệch lạc.”
1

Báo Người Lao Động số ra ngày 17/9/2009 có bài “Xã hội hóa làm nên
tác phẩm đỉnh cao” viết về sự thành công của các vở chính kịch với đề tài lịch
sử do các sân khấu kịch theo mô hình xã hội hóa dàn dựng như Bí mật vườn Lệ
Chi, Ngàn năm tình sử, Nỏ thần đã đạt được giá trị nghệ thuật lẫn giá trị kinh
doanh. Bài báo đặt vấn đề là cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc về vai trò
của các đơn vị hoạt động sân khấu xã hội hóa, để có chính sách hỗ trợ đúng mức
của Nhà nước. Cái chính là sự hỗ trợ về mặt tinh thần cũng như cơ sở vật chất
cho khối sân khấu xã hội hóa”
2
.
Những công trình, bài viết đi trước là nền tảng khoa học quý giá, cung
cấp lý luận cũng như thực tiễn giúp cho nhóm tập thể tác giả đề tài “Xã hội hóa
các hoạt động văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Chính sách và giải pháp” tiến
hành công việc nghiên cứu của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài có mục tiêu chung là: Nghiên cứu thực trạng xã hội hóa các hoạt
động văn hóa tại thành phố Hồ Chí Minh để đề xuất điều chỉnh chính sách, đề
xuất giải pháp đẩy mạnh xã hội hóa một vài lĩnh vực hoạt động văn hóa.
Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
- Nhìn nhận, đánh giá thực trạng xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở TP.

Hồ Chí Minh, phân tích tìm ra nguyên nhân, cơ hội, thách thức trong tiến trình
xã hội hóa
- Đề xuất những vấn đề về quan niệm, về chính sách xã hội hóa nhằm
thúc đẩy việc thực hiện chủ trương xã hội hóa phát triển đúng định hướng.
- , thư viện,
nhà văn hóa.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động văn hóa ở TP. Hồ Chí
Minh từ khi có chủ trương xã hội hóa của Đảng và các chính sách của Nhà nước
về XHH.


1

2
/>nen-tac-pham-dinh-cao.htm


8
Đề tài nghiên cứu hoạt động của cả đơn vị công lập, ngoài công lập đang
hoạt động văn hóa tại TP. Hồ Chí Minh. Vì vậy, đề tài sẽ khảo sát, nghiên cứu ý
kiến của những người hoạt động văn hóa, của công chúng tham gia các loại hình
hoạt động văn hóa.
5. Giả thuyết nghiên cứu
+ V ễ
hành phố á
, trong khi
? Giả thuyết được đặt ra là
khi nhà nước ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tạo sự công bằng giữa các
đơn vị công lập và ngoài công lập. Như vậy, tất yếu có sự cạnh tranh giữa các

đơn vị hoạt động nghệ thuật, không phân biệt công lập hay ngoài công lập. Tạo
đươc sự cạnh tranh lành mạnh, cũng có nghĩa đã tạo được mối quan hệ nhằm
phát huy thế mạnh của mỗi đơn vị.
+ Vì sao đến nay ở một thành phố dồi dào nguồn lực như TP. Hồ Chí
Minh lại chưa ra đời nhiều bảo tàng tư nhân, chưa có thư viện tư nhân. Có phải
chăng vì Bảo tàng, Thư viện là những lĩnh vực hoạt động khó tạo nên doanh thu
cao, do vậy, tư nhân không chọn các lĩnh vực này để đầu tư. Vì thế nhà nước
cần khuyến khích những người đam mê, yêu thích các lĩnh vực hoạt động này
để họ biến những phòng lưu giữ các bộ sưu tập tại nhà, những tủ sách gia đình,
trở thành bảo tàng tư nhân, thư viện tư nhân dưới sự bảo trợ của Nhà nước bằng
nhiều loại chính sách.
+ Mô hình Công viên Văn hóa - Du lịch ra đời và hoạt động sôi nổi như
Đầm Sen, Suối Tiên, phải chăng cũng là một dạng thức xã hội hóa trong lĩnh
vực tổ chức đời sống văn hóa, vui chơi giải trí cho cộng đồng dân cư, cho cả
khách vãng lai của thành phố. Nhưng, nó không thể thay thế được Nhà văn hóa
(hoặc Trung tâm Văn hóa, Cung Văn hóa) ở thành phố, ở quận, huyện. Giả
thuyết đặt ra là Nhà nước vừa tăng cường đầu tư cho hệ thống Nhà văn hóa công
lập, vừa ban hành quy định đòi hỏi các Công viên Văn hóa – Du lịch cùng có
trách nhiệm tổ chức các hoạt động phục vụ cộng đồng. Như thế cả hai cùng tồn
tại, phát triển, đẩy mạnh hoạt động góp phần tích cực vào việc nâng cao đời
sống văn hóa của nhân dân thành phố.
+ Để nâng cao vai trò QLHCNN về văn hóa trong việc thực hiện chủ
trương xã hội hóa, những vấn đề sau đây, có phải chăng là những vấn đề mà
UBND Thành phố, Sở Văn hóa - Thể thao – Du lịch Thành phố cần quan tâm?

9
- Công bố quy hoạch về văn hóa trong quy hoạch chung của thành phố,
của từng quận, huyện.
- Ban hành nhiều chính sách cụ thể ở từng lĩnh vực hoạt động văn hóa.
- Tăng đầu tư ngân sách cho hoạt động văn hóa theo hướng đầu tư tập

trung, không dàn trải.
- Thể hiện sự nghiêm minh trong quản lý Nhà nước về văn hóa.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu:
- Các vấn đề lý luận có liên quan đến vấn đề xã hội hóa hoạt động văn
hóa, chính sách văn hóa,
- Thực trạng xã hội hóa hoạt động văn hóa ở TP. Hồ Chí Minh từ khi có
chủ trương xã hội hóa cho đến nay,
- Nhận xét từ thực tiễn xã hội hóa hoạt động văn hóa ở TP. Hồ Chí Minh
thời gian qua,
- Đề xuất giải pháp, bổ sung hoặc sửa đổi chính sách nhằm tiếp tục đẩy
mạnh xã hội hóa ở các lĩnh vực hoạt động văn hóa.
7. Khách thể và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong môi trường hoạt động văn hóa ở TP. Hồ
Chí Minh. Đó là môi trường của một đô thị loại đặc biệt ở Việt Nam, đô thị
đông dân nhất nước, có lượng khách vãng lai rất lớn đồng thời là môi trường
của một thành phố với vai trò là trung tâm văn hóa, kinh tế của khu vực phía
Nam cũng như của cả nước.
Đề tài khảo sát, nghiên cứu:
- Công chúng đang tham gia/thưởng thức/tham quan các hoạt động văn
hoá, từ 18 tuổi trở lên.
- Người hoạt động văn hoá đang hoạt động cho các đơn vị công lập và
ngoài công lập.
Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: địa điểm hoạt động văn hoá tại các
TP. Hồ Chí Minh.
- Thời gian: từ năm 2005 đến 2010 (đặt trong mối quan hệ trước và
sau khi có chủ trương xã hội hóa).
8. Phƣơng pháp nghiên cứu

Mô tả tóm tắt phƣơng pháp nghiên cứu

10
- Hướng tiếp cận xã hội học, nhân học. Đây là một trong những hướng
tiếp cận chủ đạo của đề tài, thông qua các cuộc điều tra, khảo sát được tiến hành
để góp phần nhận diện rõ thực trạng xã hội hóa các hoạt động văn hóa và làm
sáng tỏ nguyên nhân dẫn đến các mô hình thành công và không thành công.
- Hướng tiếp cận sử học: Hướng tiếp cận này được đề xuất trên cơ sở
quan niệm rằng bất cứ hệ giá trị nào cũng đều có nguồn gốc lịch sử của nó,
không phải tập trung trình bày lịch sử các hoạt động văn hóa của thành phố mà
là khám phá xu hướng xã hội hóa các hoạt động văn hóa tại thành phố Hồ Chí
Minh.
Trên cơ sở hướng tiếp cận như vậy, dự kiến các thao tác và kế hoạch
nghiên cứu, khảo sát cụ thể của nhóm nghiên cứu như sau:
- Tổ chức điều tra xã hội học, nhân học: bao gồm các phương pháp
nghiên cứu định lượng (điều tra bằng bản hỏi), định tính (phỏng vấn chuyên
gia), thảo luận nhóm tập trung, quan sát, ghi chép và phân tích hiện trạng của
tình hình xã hội hóa các hoạt động văn hóa tại thành phố Hồ Chí Minh.
+ Điều tra định lượng: Nhóm nghiên cứu đã điều tra 800 phiếu thông qua
các hoạt động văn hoá tại TP. Hồ Chí Minh như điện ảnh, sân khấu (kịch, cải
lương, xiếc…), thư viện, bảo tàng, Trung tâm Văn hoá/ Nhà văn hoá, lễ
hội.v.v… Chia ra 2 nhóm đối tượng chính: Công chúng (540 phiếu), những
người hoạt động văn hoá (260 phiếu).
+ Điều tra định tính (phỏng vấn chuyên gia): Nhóm nghiên cứu đã tiến
hành phỏng vấn sâu 100 đối tượng trong từng hoạt động riêng biệt. Chẳng hạn,
ở hoạt động điện ảnh bao gồm: đạo diễn, diễn viên, nhà quản lý đơn vị công
lập/ngoài công lập, công luận (nhà báo), nhà quản lý Nhà nước, tác giả phim,
công chúng xem phim… Còn đối với hoạt động bảo tàng bao gồm: nhà quản lý
bảo tàng, cán bộ nghiệp vụ bảo tàng, nhà sưu tập tư nhân, nhà quản lý Nhà
nước, công chúng tham quan… Trong hoạt động thư viện bao gồm: nhà quản lý

thư viện công lập, người thành lập thư viện tư nhân, độc giả…
Các cuộc phỏng vấn đều được ghi âm và được tổng hợp thành các biên bản
phỏng vấn sâu.
- Phương pháp nghiên cứu tham dự: Đề tài đòi hỏi nhóm nghiên cứu viên
phải thâm nhập và tham gia vào một số loại hình dịch vụ văn hóa với vai trò
người hưởng thụ qua đó có cái nhìn trong cuộc về các sản phẩm của mô hình xã
hội hóa văn hóa.
- Ngoài những phương pháp đã mô tả bên trên, nhóm nghiên cứu sẽ phối

11
hợp sử dụng các phương pháp khác như khảo tả, thống kê, nghiên cứu so sánh,
phân tích tổng hợp các nguồn tài liệu v.v Bên cạnh đó còn có các kỹ thuật sử
dụng phương tiện nghe nhìn công nghệ cao như quay video, chụp ảnh, ghi âm
cũng sẽ được vận dụng ở mức độ thích hợp.
9. Ý nghĩa và tính mới về khoa học và thực tiễn
Đề tài “Xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh
– Chính sách và giải pháp” được nghiên cứu có ý nghĩa như tổng kết thực tiễn,
bởi vì ngay khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 90/1997/NQ-CP ngày
21/8/1997, TP. Hồ Chí Minh đã triển khai từ rất sớm. Ngày 8/10/1997, Sở VH -
TT Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc hội thảo về “Xã hội hóa hoạt động
VHTT ở TP. Hồ Chí Minh thực trạng và giải pháp”. Từ đó đến nay, thực tiễn xã
hội hóa vẫn tiếp diễn rất sôi động ở TP. HCM nhưng chưa có cuộc tổng kết
đánh giá cần thiết để rút ra những bài học kinh nghiệm, để bổ sung phát triển
các quan điểm, lý luận về XHH hoạt động văn hóa.
- Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố vốn rất năng động cũng được
đánh giá là một địa phương thực hiện tốt việc xã hội hóa hoạt động văn hóa, với
nhiều mô hình gần như có tiếng tăm trong cả nước: mô hình sân khấu nhỏ 5B
Võ Văn Tần, nay đã nhân ra sân khấu kịch Idecaf, sân khấu Phú Nhuận ; mô
hình công viên văn hóa du lịch Đầm Sen, Suối Tiên… Thế nhưng, đến nay vẫn
còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội hóa hoạt động văn hóa ở thành

phố cần có tiếng nói chung từ những người hoạt động văn hóa nghệ thuật đến
những nhà quản lý về văn hóa nghệ thuật.



12
CHƢƠNG MỘT
CƠ SỞ LÝ LUẬN

Để nghiên cứu đề tài “Xã hội hóa hoạt động văn hóa hoạt động văn hóa ở
TP Hồ Chí Minh - Chính sách và giải pháp”, chúng tôi căn cứ vào các cơ sở lý
luận về văn hóa, về quản lý hành chính nhà nước. Nhưng do tính chất, mục tiêu
của đề tài, các vấn đề lý luận chỉ xin đề cập đến các khái niệm có liên quan trực
tiếp đến đề tài như khái niệm xã hội hóa, hoạt động văn hóa, chính sách văn
hóa; Khái niệm, chức năng quản lý hành chính nhà nước về văn hóa, vấn đề xã
hội hóa các dịch vụ công. Chúng tôi cũng căn cứ vào các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết, Chủ trương của Nhà nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
1. Khái niệm
1.1 Xã hội hóa
- Theo Từ điển tiếng Việt: “Xã hội hoá: làm cho trở thành của chung xã
hội”
1
.
- Trong xã hội học, định nghĩa “Xã hội hóa là một quá trình tương tác xã
hội kéo dài suốt đời qua đó cá nhân phát triển khả năng con người và học hỏi
các mẫu văn hóa của mình”
2
. Nói một cách khác, đó chính là quá trình con
người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội

như là một thành viên, đó chính là quá trình xã hội hóa cá nhân.
- Theo khoa học hành chính, “Xã hội hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập
cơ chế quản lý và hoạt động của một số lĩnh vực kinh tế xã hội, nhằm tăng
cường trách nhiệm giữa Nhà nước và xã hội, khai thác đúng đắn và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ với chất lượng cao mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước”
3
.


1
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài
Gòn, 2005, tr.1833.
2
John J. Macionis, (Trung tâm Dịch thuật thực hiện, Hiệu đính: Trần Nhựt Tân), Xã hội học,
Nxb Thống kê, Hà Nội, 1987, tr.154.
3
Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn, Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, Nxb Lao động,
2002, tr.792.

13
- Tác giả Chu Văn Thành đưa ra khái niệm “Xã hội hóa dịch vụ công là
quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ thể xã hội và tăng cường vai trò của
Nhà nước đối với dịch vụ công”
1
.
Như vậy Xã hội hóa thực chất là sự chuyển giao một số công việc thuộc
về chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước do Nhà nước đang thực hiện cho tổ chức
hoặc cá nhân có đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật đảm nhiệm.
Xã hội hóa cũng là quá trình chuyển giao áp dụng các ưu điểm ở lĩnh vực

tư nhân vào lĩnh vực công hay nói cách khác là quá trình thu hút trí tuệ, sức
mạnh của nhân dân thành sức mạnh của Nhà nước.
Xã hội hóa là nhằm huy động, khuyến khích sự tham gia tích cực của cả
xã hội vào việc cung ứng dịch vụ; tạo ra sự đa dạng, phong phú về loại hình,
chất lượng và giá cả dịch vụ; tạo ra cho đời sống xã hội nhiều nguồn lực phục
vụ nhu cầu của xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho xã hội; và thông qua đó
tăng cường ý thức, trách nhiệm của mọi người đối với những vấn đề liên quan
đến quyền lợi chung của cộng đồng.
Như vậy có thể phân biệt xã hội hóa - theo nghĩa mà Đảng và Nhà nước
đang dùng - với tư nhân hóa ở mấy điểm sau:
- Tư nhân hóa thường được dùng để nói đến sự chuyển hóa hình thức sở
hữu trở thành sở hữu cá nhân. Xã hội hóa là làm cho trở thành của chung của xã
hội.
- Khái niệm xã hội hóa rộng hơn khái niệm tư nhân hóa. Trong nội hàm
của từ xã hội hóa có chứa đựng nội hàm là Nhà nước cho phép tư nhân tham gia
vào một hoạt động nào đó mà trước giờ Nhà nước vẫn đảm nhận. Khi thực hiện
việc ấy chính là thực hiện tư nhân hóa. Nhưng từ xã hội hóa còn chứa đựng
nhiều nội hàm khác như vấn đề gia tăng tính chất xã hội, thu hút sự tham gia của
nhiều chủ thể vào quá trình tổ chức lĩnh vực hoạt động nào đó…

+ Khái niệm văn hóa
Tại hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mexico, diễn ra từ ngày 26/7 đến ngày
6/8/1982, các đại biểu đã đưa ra 200 định nghĩa về văn hóa. UNESCO đã đưa ra
tinh thần và , trí tuệ và xúc
cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội.


1
, -
, Nxb , 2007, tr.42.


14
, những quyền cơ
bản của con người, , những tập tục và tín ngưỡng”
1
.
Tác giả Trần Ngọc Thêm cũng đưa ra khái niệm về văn hoá như sau:
“Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
2
.
Trong nghị quyết tại Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, ngày 16/7/1998 cho rằng: “Văn hóa Việt Nam là tổng
thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu
tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn
hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng
rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”
3
.
+ Hoạt động văn hóa là một bộ phận của hoạt động xã hội, là quá trình
sáng tạo (sản xuất), bảo tồn (bảo quản), phân phối, tiêu dùng các sản phẩm văn
hóa.
Có các dạng hoạt động văn hóa như:
- Hoạt động sáng tác và biểu diễn nghệ thuật,
- Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống,
- Hoạt động khai trí - giáo dục nhằm góp phần nâng cao dân trí: diễn
giảng, tọa đàm, thư viện,

- Hoạt động lưu giữ sản phẩm văn hóa như hoạt động bảo tàng, bảo tồn di
sản văn hóa,
- Hoạt động tiêu dùng sản phẩm văn hóa như đọc sách, nghe nhạc, xem
biểu diễn nghệ thuật, xem phim - ảnh, xem triển lãm, tham quan, du lịch,
- Hoạt động lễ hội, tín ngưỡng, xây dựng nếp sống, lối sống,
- Hoạt động vui chơi giải trí.
Với ý nghĩa rộng lớn như vậy, những nhà nghiên cứu lý luận về hoạt
động quản lý văn hóa đưa ra nhiều cách phân loại các lĩnh vực hoạt động văn
hóa.


1
Nguồn: , cập nhật ngày 02/03/2012.
2
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
3
Nguồn: />khoa-viii-ve-xay-dung-va-phat-trien-van-hoa.303883.html, cập nhật ngày 29/10/2010.

15
Giáo trình Quản lý Nhà nước về Văn hóa - Giáo dục - Y tế của Học viện
Hành chính Quốc gia - Khoa Quản lý Nhà nước về Xã hội - do tác giả Nguyễn
Thu Linh và tác giả Bùi Văn Nhơn biên soạn, cho rằng: “Các hoạt động văn hóa
cần được quản lý trên cơ sở các đạo luật và các văn bản pháp quy đã được ban
hành, được nhóm lại trong 12 lĩnh vực sau: các hoạt động thuộc lĩnh vực báo
chí, xuất bản, internet, quảng cáo; Các hoạt động thuộc lĩnh vực điện ảnh; Các
hoạt động thuộc lĩnh vực mỹ thuật; các hoạt động thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn; Các hoạt động thuộc lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng, thư viện; Các hoạt động
thuộc lĩnh vực văn hóa thông tin cơ sở; Các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa
các dân tộc thiểu số; Các hoạt động thuộc quyền tác giả, nhuận bút; Các hoạt
động thuộc lĩnh vực xuất nhập khẩu văn hóa phẩm; Các hoạt động thuộc lĩnh

vực tổ chức bộ máy quản lý văn hóa; Các hoạt động thuộc lĩnh vực đào tạo; Các
hoạt động thuộc lĩnh vực thanh tra”
1
.
Trong tập sách Quản lý hoạt động văn hóa của Trường Đại học Văn hóa
- Hà Nội (Nxb Văn hóa - Thông tin, 1998), được dùng làm giáo trình trong các
chương trình đào tạo chuyên ngành quản lý văn hóa của các trường đại học văn
hóa thuộc Bộ Văn hóa, có mô hình về đối tượng của chính sách văn hóa trong
đó có ghi: “Những thành phần văn hóa: văn hóa nghệ thuật; văn hóa nếp sống;
văn hóa khai trí; văn hóa giáo dục chính trị xã hội”
2
.
Chuyên đề Tư tưởng Hồ chí Minh về văn hóa (trong giáo trình Tư tưởng
Hò chí Minh của Bộ Giáo dục và đào tạo), mục “Tư tưởng Hồ Chí Minh về một
số lĩnh vực của văn hóa” có đề cập đến ba lĩnh vực văn hóa giáo dục; văn hóa
văn nghệ; văn hóa đời sống; đồng thời cũng đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc
3
.
Xét trên thực tế việc xây dựng bộ máy tổ chức của cơ quan quản lý văn
hóa ở thành phố, chúng tôi đưa ra một cách phân loại các hoạt động văn hóa tại
TP. Hồ Chí Minh thành ba lĩnh vực cơ bản là văn hóa lịch sử (di sản văn hóa),
văn hóa nghệ thuật và văn hóa đời sống (trước đây thường được gọi là văn hóa
cơ sở).
1.3 Xã hội hóa hoạt động văn hóa
:


1
Học viện Hành chính Quốc gia - Khoa Quản lý Nhà nước về Xã hội, giáo trình Quản lý Nhà

nước về Văn hóa - Giáo dục - Y tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr.44.
2
Trường Đại học Văn hóa, Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, 1998, tr.33.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.103-
106.

16
1
.

2
.
Như vậy có thể hiểu Xã hội hóa hoạt động văn hóa là sự gia tăng tính
chất xã hội, thu hút sự tham gia của nhiều chủ thể vào quá trình hoạt động văn
hóa.
Năm 1998, tác giả người Nhật là Michihiro Watanabe viết tham luận tiêu
đề “Huy động nguồn lực cho hoạt động văn hóa” (Mobilizing resources for
cultural activities)
3

cũng đưa ra khái niệm “Mobilizing the People”, để nói về
việc vận động toàn dân tham gia vào hoạt động văn hóa. Ông nhấn mạnh rằng:
“Nếu thiếu vắng sự tham gia đóng góp của các tầng lớp dân chúng khác nhau
trong xã hội thì dù có nhiều tiền đến đâu cũng không thể làm cho xã hội trở nên
tràn đầy sức sáng tạo. Tuy nhiên, thật không may là sự nhiệt tình và tài năng
của người dân chưa từng được huy động đầy đủ để phát triển văn hóa. Hầu hết
các chính sách văn hóa ở đâu cũng đều chú trọng đến sự sáng tạo của giới nghệ
sĩ chuyên nghiệp và bỏ qua sự đóng góp của số đông tầng lớp nhân dân. Điều
này trái với thực tế là ngày càng có nhiều người không còn muốn làm một người

hưởng dụng bị động các công trình sáng tạo, họ thích trở thành người đồng sáng
tạo ra cuộc chơi hơn”. Thêm nữa, Watanabe phản bác hiện tượng kỳ thị và loại
trừ trong sáng tác văn hóa. Chính sách văn hóa thường loại bỏ một số cộng đồng
khỏi các hoạt động sáng tạo, ví dụ như nhóm người cao tuổi, nhóm dân tộc thiểu
số, nhóm người nghèo, nhóm người khuyết tật, và nghiêm trọng hơn nữa là loại


1
Hoàng Vinh, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Nxb VHTT, Hà
Nội, 1999, tr.300.
2
Đinh Xuân Dũng, Xã hội hóa hoạt động văn hóa - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Ban tư
tưởng Văn hóa Trung Ương, Hà Nội, 2000, tr.21.
3
Nguồn:


17
bỏ phụ nữ và người trẻ tuổi vốn dĩ là lực lượng chiếm đa số trong mọi xã hội.
Sáng tạo không chỉ dành riêng cho giới chuyên nghiệp. Trong một xã hội dân
chủ, hoạt động sáng tạo nào không được sự ủng hộ của đa số người dân thì
không thể nào có cơ hội trở thành dòng văn hóa chủ đạo. Do đó, sẽ không có gì
đáng ngạc nhiên khi lĩnh vực văn hóa nghệ thuật - vốn chưa được dân chúng
hóa một cách thuyết phục - vẫn còn ở bên lề của chính sách phát triển quốc gia.
Để khắc phục tình trạng này, chính phủ và các tổ chức nghệ thuật nên có chính
sách và những cách thức nhằm loại bỏ sự kỳ thị trong sáng tạo nghệ thuật và
hướng đến một nền dân chủ văn hóa nơi mà cơ hội sáng tạo được mở rộng cho
tất cả mọi người trên cơ sở bình đẳng.
Watanabe đề cập đến tư nhân hóa các hoạt động văn hóa như sau: Các
chính phủ đang cố gắng chuyển phần lớn chi tiêu trong hoạt động văn hóa nghệ

thuật sang khu vực tư nhân. Việc tư nhân hóa các cơ sở, các thiết chế và chuyển
việc quản lý vào tay tư nhân có lẽ là cách tốt nhất để thu hút một lượng lớn
nguồn hỗ trợ tư nhân cho văn hóa. Tuy nhiên điều đáng nghi vấn là liệu việc
chuyển giao trách nhiệm công cho khu vực tư nhân có được sự chấp nhận vô
điều kiện trong những đất nước mà chính phủ có truyền thống đóng vai trò then
chốt trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật; hay nó sẽ bị phản đối bởi các quan chức
và chính trị gia muốn giữ lại ảnh hưởng của họ trên hoạt động sáng tạo và bởi
các nghệ sĩ, các cơ quan văn hóa lo sợ mất đi sự ổn định tài chính. Song thật khó
tin khi trong một nền kinh tế tư nhân hóa hiện nay, hoạt động văn hóa và nghệ
thuật vẫn còn bị độc quyền quy hoạch và quản lý bởi chính phủ. Và Watanabe
đặt ra vấn đề phân chia trách nhiệm giữa Nhà nước và khu vực tư nhân. Bởi
không phải hoạt động văn hóa nào cũng có thể thích hợp cho tư nhân tài trợ và
không phải hoạt động văn hóa nào cũng có thể tồn tại trong nền kinh tế thị
trường mà không cần đến sự bảo hộ của Nhà nước. Điều cần thiết là xác định
vai trò tương ứng của hai khu vực công và tư trong phát triển văn hóa, từ đó đi
đến một hiểu biết rõ ràng về việc làm thế nào để phân chia trách nhiệm giữa hai
khu vực công và tư
1
.
1.4 Chính sách, chính sách văn hóa
+ Chính sách: Sách lược chính trị cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất
định


1
Nguồn:

18
+ “Chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các
cách thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và giải pháp về ngân sách

của Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa.
Một cách diễn đạt khác, Hội nghị bàn tròn về các chuyên gia văn hóa tại
Monaco đã đưa ra quan niệm về chính sách văn hóa như sau: Chính sách văn
hóa là một tổng thể những thực hành xã hội hữu thức và có suy tính về những
can thiệp hay không can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động văn hóa nhằm
đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, bằng cách sử dụng tối ưu tất cả những
nguồn vật chất và nhân lực, mà một xã hội nào đó có được vào một thời điểm
thích hợp”
1
.
Hội nghị liên chính phủ về “Chính sách văn hóa vì sự phát triển” tại
Stockholm, tháng 3/1998, đã thông qua Chương trình hành động nhằm khẳng
định vai trò của chính sách văn hóa đối với phát triển. Chương trình đã nêu ra
các vấn đề như:
- “Chính sách văn hóa là một thành phần chủ yếu của tất cả các chính
sách phát triển,
- Trong thiên niên kỷ mới, chính sách văn hóa phải đi trước sự phát triển
nhanh chóng của các nhu cầu văn hóa trong xã hội,
- Chính sách văn hóa cần phải khuyến khích sự sáng tạo dưới mọi hình
thức của mọi tầng lớp, cộng đồng nhằm làm giàu thêm đời sống tinh thần của
nhân dân,
- Chính sách văn hóa của quốc gia là chính sách của một cộng đồng của
nhiều thành viên bám rể vào những giá trị truyền thống, mọi cộng đồng trong
quốc gia đều có thể có vị trí và được tự thể hiện mình,
- Chính sách văn hóa phải tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ trong mọi
cộng đồng xã hội,
- Cơ quan chính phủ và mọi tổ chức xã hội cùng phối hợp để xây dựng
các chương trình, kế hoạch thực hiện chính sách văn hóa,
- Sự trao đổi thông tin, giao lưu hợp tác văn hóa và hiểu biết về văn hóa
của nhau là nền tảng cho hòa bình và hòa hợp”

2
.


1
Nguyễn Văn Tình, Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn thiện chính sách văn hóa ở
Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, 2009, tr.29.
2
Nguyễn Văn Tình, Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn thiện chính sách văn hóa ở
Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, 2009, tr.29.

19
Nhà nước Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách văn hóa, gồm
các loại chính sách sau:
- Chính sách về tổ chức quản lý hành chính Nhà nước, phân cấp quản lý,
- Chính sách về hoạt động và hưởng thụ văn hóa,
- Chính sách cho hoạt động sáng tạo,
- Chế độ ưu đãi đặc thù,
- Chính sách về xã hội hóa hoạt động văn hóa,
- Chính sách về văn hóa đối ngoại.
1.5 Quản lý hành chính Nhà nước
Hệ thống Nhà nước bao gồm các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Khi nói Quản lý Nhà nước là nói đến hoạt động quản lý
của cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Khi nói quản lý hành chính
Nhà nước là muốn nói đến chức năng quản lý của hệ thống hành chính Nhà
nước tức hệ thống hành pháp trong bộ máy Nhà nước.
+ Hành chính Nhà nước (hành chính công)
Nhà nước
1
.

.
khăn.


1
Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Hành chính công, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006,
tr.28.

20
:
- , quyền lực Nhà
.
-
thực hiện mục tiêu.
- , sáng tạo, linh hoạt trong việc huy
động các nguồn lực để phát triển sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân trên
địa bàn theo sự phân công, phân cấp đúng thẩm quyền.
- , ổn định trong tổ chức và hoạt động.
-
xuống dưới, cấp dưới nhận chỉ thị và chịu sự kiểm tra của cấp trên.
- .
- .
Từ khái niệm chung về QL HCNN, ta có thể hiểu QL HCNN về văn hóa
là quá trình tác động, điều chỉnh bằng pháp luật đối với mọi hoạt động văn hóa
trong đời sống xã hội nhằm hướng tới xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc
1.6 Dịch vụ công và Xã hội hóa dịch vụ công
1.6.1 Khái niệm dịch vụ công ra đời gắn liền với việc thực hiện chức
năng Quản lý hành chính Nhà nước
: chức năng

quản lý và chức năng phục vụ xã hội.
+ ) là chức
năng đặc trưng hàng đầu của bộ máy Nhà nước.
:
- Q ,
- ,
- ,
- ,
- ,
- Chức năng phối hợp,
- Chức năng tài chính,
- ,
- .

21
+ Chức năng phục vụ xã hội
Cung ứng dịch vụ công (public service) là một trong những chức năng
cơ bản mà các Nhà nước
phục vụ
xã hội.
Trong quá trình phát triển của nền hành chính, dịch vụ công được mở
rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, với yêu cầu về chất lượng ngày càng cao.
Phạm vi, mức độ và các loại hình dịch vụ do Nhà nước đảm bảo cung ứng tùy
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch sử cụ thể và truyền
thống của từng dân tộc.
, không tự mình giải quyết
tất cả các vấn đề xã hội, mà đẩy mạnh dân chủ hoá gắn với phân qu
, hướng tới một
nền hành chính năng động, linh hoạt, quan tâm đến hiệu quả. Quản lý công đặc
biệt nhấn mạnh đến chức năng phục vụ, đến yếu

-
, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính.
Dịch vụ công có thể chia thành 3 loại:
- Dịch vụ hành chính công do cơ quan quản lý hành chính Nhà nước
cung cấp để phục vụ nhân dân (cơ quan công quyền). Bao gồm các lĩnh vực như
cấp phép, đăng ký, công chứng, hộ tịch, hộ khẩu, phòng chống thiên tai
- Dịch vụ sự nghiệp công, gồm các hoạt động sự nghiệp cung cấp các
phúc lợi xã hội thiết yếu cho nhân dân (chăm sóc sức khỏe, giáo dục, văn hóa,
khoa học, thể dục thể thao, bảo hiểm an sinh xã hội ).
Dịch vụ công ích, phi lợi nhuận, là các hoạt động có tính chất kinh tế do
các doanh nghiệp thực hiện theo yêu cầu của Nhà nước, để phục vụ mọi người
như cung cấp điện, nước, vệ sinh môi trường, kết cấu hạ tầng xã hội nói chung
là cung cấp hàng hóa công.

22
1.6.2 Xã hội hóa dịch vụ công là tất yếu
Trong tiến trình thực hiện xã hội hóa, Nhà nước phải thực hiện đầy đủ hai
chức năng cơ bản: chức năng quản lý và chức năng phục vụ xã hội.
Quá trình thực hiện chức năng quản lý, Nhà nước phải
- ,
- ,
- Xác lập mô hình tổ chức các đơn vị công lập,
-
,
- ,
- .
Tác giả Huỳnh Khái Vinh đã viết: “Quản lý Nhà nước trong quá trình xã
hội hóa văn hóa thể hiện ở việc thiết lập và thực thi các chính sách văn hóa
nhằm bảo trợ cho các hoạt động có ý nghĩa định hướng lâu dài cho nhu cầu,
chuẩn bị cho tương lai văn hóa của đất nước. Ví dụ tài trợ cho các hoạt động văn

hóa miền núi, văn hóa các dân tộc ít người, bù lỗ cho xuất bản sách khoa học,
sách nghệ thuật đích thực có giá trị lâu dài, các đề tài phục vụ nhiệm vụ chính
trị, nuôi dưỡng các hoạt động phê bình, các thể loại nghệ thuật truyền thống, tôn
tạo các di tích lịch sử… càng ít thực dụng bao nhiêu càng mở ra nhiều triển
vọng to lớn cho tương lai văn hóa dân tộc bấy nhiêu”
1
.
Bên cạnh chức năng quản lý thì chức năng phục vụ xã hội là chức
năng mà xã hội đòi hỏi ngày càng cao đối với cơ quan hành chính Nhà nước.
Việc phục vụ xã
hội.
Nhà nước bằng quyền lực của mình, thông qua các công cụ quản lý vĩ mô
như pháp luật, kế hoạch, chính sách, tài chính… để quản lý và điều tiết hoạt
động cung ứng dịch vụ công nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho xã hội. Vai
trò của Nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công được thể hiện qua việc:
Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức tự quản của cộng đồng tham gia cung ứng dịch vụ công.
Để thực hiện vai trò này, Nhà nước cần xác lập cơ chế, ban hành chính sách
khuyến khích tư nhân, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham gia cung ứng


1
Huỳnh Khái Vinh, Cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội hóa hoạt
động văn hóa, trong Xã hội hóa hoạt động văn hóa, Viện Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1996, tr.31.

23
dịch vụ công. Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý chung, bình đẳng
cho tất cả các đơn vị cung ứng dịch vụ công.
Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở ngoài Nhà nước

cung ứng dịch vụ công. Nhà nước cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng
dịch vụ công để giám sát, kiểm tra, đánh giá hoạt động của các đơn vị cung cấp
dịch vụ công. Nhà nước cần định hướng phát triển, hướng tư nhân tham gia vào
những lĩnh vực mà tư nhân hoạt động có hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ công. Bởi vì Nhà
nước vẫn là người chịu trách nhiệm trước xã hội về số lượng và chất lượng dịch
vụ công.
Ở Việt Nam, Xã hội hóa cung ứng dịch vụ công là một tất yếu nhằm
giải quyết những mâu thuẫn mà Nhà nước hiện đang phải đối đầu. Cụ thể là:
- “Mâu thuẫn giữa khoản kinh phí bao cấp quá lớn về dịch vụ công với
ngân sách Nhà nước còn rất hạn hẹp…,
- Mâu thuẫn giữa khối lượng dịch vụ công mà Nhà nước cung ứng và
năng lực thực thi của bộ máy Nhà nước…,
- Mâu thuẫn giữa dân số tăng nhanh với khả năng cung ứng dịch vụ công
có hạn của Nhà nước…
Những mâu thuẫn trên cộng với những tiến bộ khoa học công nghệ trong
lĩnh vực dịch vụ, việc tăng đáng kể nhu cầu sử dụng dịch vụ công ở một bộ phận
dân cư có thu nhập cao trong xã hội, tính chất cạnh tranh của nền kinh tế thị
trường, xu hướng phi tập trung hóa các hoạt động Nhà nước… đã khiến cho
Nhà nước không thể tiếp tục bao cấp hoàn toàn đối với các dịch vụ công được
nữa”
1
.
Cũng tương như vậy, các nước cũng đã và đang tìm ra phương thức để
ngày càng mở rộng tính đa dạng và nâng cao chất lượng các dịch vụ công về
văn hóa.
Năm 2003, tác giả người Bungaria, Lidia Varbanova có bài nghiên cứu
tựa đề “Cấp vốn các hoạt động văn hóa ở Đông Nam Châu Âu” (Financing
cultural practices in South East Europe)
2

. Theo Lidia Varbanova, sau năm 1989
các chính phủ ở Đông Nam Châu Âu bắt đầu tái thiết tổng thể chính sách văn
hóa của họ để giảm thiểu sự tham gia trực tiếp của Nhà nước trong lĩnh vực
nghệ thuật và văn hóa và tăng sự hỗ trợ gián tiếp thông qua một loạt các công cụ


1
Đinh Văn Ân - Hoàng Thu Hòa, Đổi mới cung úng dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb Thống kê,
Hà Nội, 2006, tr.70.
2


24
lập pháp. Mô hình Nhà nước là “chủ sở hữu chính” của ngành công nghiệp văn
hóa đang dần được thay thế bằng mô hình Nhà nước là “người điều phối chính”
thông qua các chức năng kinh tế và pháp luật. Khu vực hóa và phân cấp trong
việc tài trợ văn hóa là một xu hướng chính tạo nên sự linh hoạt và việc quản lý
tốt hơn các thiết chế và hoạt động văn hóa. Viết về sự phát triển mối quan hệ
giữa kinh tế, văn hóa và luật pháp, tác giả nhận định: du lịch văn hóa là một
phương thức quan trọng của sự liên kết văn hóa với kinh tế nhưng vẫn chưa
được khám phá sâu rộng, do đó cần phải nắm bắt ý nghĩa của văn hóa như một
nhân tố kinh tế - xã hội trong phát triển bền vững. Tác giả cũng tập trung vào sự
phát triển của khu vực thứ ba trong văn hóa và vai trò của các quỹ tổ chức. Sau
năm 1989, các tổ chức phi lợi nhuận ở Đông Nam châu Âu nhanh chóng trở
thành một lực lượng đáng kể cho sự thay đổi, hoạt động như một giám sát viên
của nền dân chủ, như người phục hồi những trách nhiệm cộng đồng và như một
ý thức về nguồn, một phương tiện cho sự biểu hiện của dư luận. Có nhiều thuật
ngữ được dùng để chỉ khu vực này như là tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức phi
chính phủ, tổ chức độc lập, tổ chức tình nguyện, tổ chức từ thiện, tổ chức dân
sự, tổ chức thứ ba v.v… nhưng không thuật ngữ nào truyền tải đầy đủ bản chất

phức tạp của khu vực này. Sự suy giảm nguồn công quỹ cho các hoạt động văn
hóa từng được tài trợ trước đây đã làm gia tăng vai trò quan trọng của các nguồn
quỹ từ các tổ chức phi chính thức.
Năm 1998, tác giả Michihiro Watanabe trong tham luận đã nêu ở trên,
nhận định vấn đề cấp thiết đang đặt ra cho chính sách văn hóa của nhiều chính
phủ trên thế giới đó là vấn đề đầu tư tài chính cho việc mở rộng các hoạt động
sáng tạo, bởi vì các quỹ có sẵn hiện vẫn không thể đáp ứng nổi nhu cầu hưởng
thụ văn hóa ngày càng gia tăng của người dân. Trước đây, vào thập niên 1970
và 1980, chi tiêu công cho văn hóa tăng đáng kể ở nhiều nước phát triển. Sự
phồn vinh ở nhiều khu vực trên thế giới từng cho phép xã hội hỗ trợ việc phân
bổ nguồn lực cho các vấn đề văn hóa. Ở các nước đang phát triển, văn hóa từng
có một chỗ đứng trong ngân sách Nhà nước và chiếm một vị thế trong quá trình
phát triển. Tuy nhiên, thời kỳ vàng son này đã chấm dứt. Hầu hết các chính phủ
hiện đều đang trải qua giai đoạn trì trệ trong ngân sách đầu tư cho văn hóa. Tình
hình này đặc biệt nghiêm trọng tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây ở Đông
Âu và Trung Á, và tại các nước nghèo hơn ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh,
nơi mà căn bệnh thiếu thốn ngân sách cho khu vực văn hóa vẫn còn mãn tính.

25
Hệ quả là, các nhà hoạch định chính sách văn hóa và những người tham gia hoạt
động văn hóa trở nên bi quan đối với việc tìm kiếm nguồn lực từ khu vực công.
2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về xã hội hóa
2.1 Quan điểm của Đảng
+ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
- “Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xã hội hóa các hoạt động văn hóa -
thông tin
- Thực hiện phương châm xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thông tin,
thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục và các mặt xã hội
khác, hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực
của nhân dân”

1
.
+ Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, ngày 23/12/2003
2
: “Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm
động viên sức người, sức của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây
dựng và phát triển văn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc
nâng cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về văn hóa
của Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ đối với
các hoạt động xã hội về văn hóa”.
2.2 Chủ trƣơng của Nhà nƣớc
- Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP của Chính phủ, ngày 21/08/1997
3
: “Xã
hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa là vận động và tổ chức sự tham gia
rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm
từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hóa và sự phát triển
về thể chất và tinh thần của nhân dân.
Xã hội hóa là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân
đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận
lợi cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa ở mỗi địa phương, đây là cộng
đồng trách nhiệm của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ
quan Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
đóng tại địa phương và của từng người dân…


1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 1996.
2
Nguồn: />khoa-viii-ve-xay-dung-va-phat-trien-van-hoa.303883.html, cập nhật ngày 29/10/2010.
3
Nguồn: download ngày 22/02/2012.

×