Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.25 KB, 19 trang )

1

Page 1


2
MỤC LỤC

Page 2


3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hàng hoá, có những quy luật kinh tế chi phối hoạt
động của những người quản lý sản xuất hàng hoá. Quy luật kinh tế hoạt
động ở mỗi phương thức sản xuất hợp thành hệ thống tác động chi phối
hoạt động của phương thức sản xuất đó. Vì vậy, việc tìm hiểu và nắm bắt
các quy luật kinh tế có ý nghĩa hết sức to lớn. Đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay, khi đất nước ta đang xây dựng mô hình kinh tế là: "Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Trong đề án này, tôi xin được đi sâu phân tích quy luật giá trị và vai
trò của nó trong nền kinh tế thị trường.

Page 3


4
NỘI DUNG
1.QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ
TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ
1.1. Quy luật giá trị


1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị
Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá và dịchvụ do các doanh nghiệp,
những người sản xuất hàng hoá tư nhân, riêng lẻ sản xuất ra. Những chủ
thể sản xuất hàng hoá cạnh tranh với nhau. Mỗi người sản xuất hàng hoá
đều nghĩ đến cách chen lấn người khác, đều muốn giữ vững và mở rộng
thêm địa vị của mình trên thị trường. Mỗi người đều tự mình sản xuất
không phụ thuộc vào người khác, nhưng trên thị trường những người sản
xuất hàng hoá là bình đẳng với nhau. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì
quyền lực của thị trường đối với người sản xuất hàng hoá càng mạnh. Nó
như thế có nghĩa là trong nền kinh tế hàng hoá có những quy luật kinh tế
ràng buộc và chi phối hoạt động của những người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ
vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
Qui định ấy là khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp lý, bình đẳng
giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị buộc
những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo "mệnh lệnh" của
giá cảthị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được
sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một cách tự
phát xoay quanh giá trị hàng hoá và biểu hiện sự tác động của quy luật giá
trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
1.1.2. Hình thức của quy luật giá trị
Page 4


5
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn: sản phẩm làm ra, trao đổi với
mục đích là để thoả mãn nhu cầu cá nhân.Vì vậy, lưu thông và buôn bán
không phải là mục đích chính của người sản xuất.

Trong nền sản xuất hàng hoá TBCN: Hàng hoá được làm ra không đơn
thuần để trao đổi mà còn để buôn bán và lưu thông.
Giá trị hàng hoá biểu hiện ra bằng tiền được gọi là giá cả hàng hoá.
Trong nền kinh tế XHCN, tiền tệ cũng dùng làm tiêu chuẩn giá cả.
Tuỳ vào từng giai đoạn mà quy luật giá trị có các hình thức chuyển hoá
khác nhau. Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật giá trị chuyển
hoá thành quy luật giá cả sản xuất. Trong giai đoạn CNTB độc quyền, quy
luật giá trị chuyển hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.
1.2. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.
Như đã biết quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá quy luật giá trị có
những tác dụng sau đây:
1.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu thường xảy ra tình
hình: người sản xuất bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác; tư liệu sản xuất
và sức lao động xã hội được chuyển từ ngành này sang ngành khác, quy mô
sản xuất của ngành này thu hẹp lại thì ngành kia lại mở rộng ra với tốc độ
nhanh chóng. Chính quy luật giá trị đã gây ra những hiện tượng đó, đã điều
tiết việc sản xuất trong xã hội. Muốn hiểu rõ vấn đề này, cần xem xét
những trường hợp thươnừg xảy ra trên thị trường hàng hoá:
- Giá cả nhất trí với giá trị;
- Giá cả cao hơn giá trị;
- Giá cả thấp hơn giá trị.
Page 5


6
Trường hợp thứ nhất nói lên cung và cầu trên thị trường nhất trí với
nhau, sản xuất vừa khớp với nhu cầu của xã hội. Do dựa trên chế độ tư hữu,
sản xuất hàng hoá tiến hành một cách tự phát, vô chính phủ, nên trường

hợp này hết sức hiếm và ngẫu nhiên.
Trường hợp thứ hai nói lên cung ít hơn cầu, sản xuất không thoả mãn
được nhu cầu của xã hội nên hàng hoá bán chạy và lãi cao. Do đó, những
người sản xuất loại hàng hoá đó sẽ mở rộng sản xuất; nhiều người trước kia
sản xuất loại hàng hoá khác cũng chuyển sang sản xuất loại này. Tình hình
đó làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển vào ngành này
nhiều hơn các ngành khác.
Trường hợp thứ ba chỉ rõ cung cao hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều
so với nhu cầu xã hội, hàng hoá bán không chạy và bị lỗ vốn. Tình hình đó
buộc một số người sản xuất ở ngành này phải rút bớt vốn chuyển sang
ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này.
Như vậy là theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống
xoay quanh giá trị mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ
ngành này sang ngành khác, do đó quy mô sản xuất của ngành đó mở rộng.
Việc điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động trong từng lúc có xu hướng
phù hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định giữa
các ngành sản xuất. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết sản xuất của quy luật
giá trị. Nhưng sản xuất trong điều kiện chế độ tư hữu, cạnh tranh, vô chính
phủ nên những tỷ lệ cân đối hình thành một cách tự phát đó chỉ là hiện
tượng tạm thời và thường xuyên bị phá vỡ, gây ra những lãng phí to lớn về
của cải xã hội.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất mà điều tiết cả lưu thông
hàng hoá. Giá cả của hàng hoá hình thành một cách tự phát theo quan hệ
cung cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng đến giá cả, nhưng giá cả cũng có tác
dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá
Page 6


7
cao. Vì thế, lưu thông hàng hoá cũng do quy luật giá trị điều tiết thông qua

sự lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị.
1.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng
năng suất lao động.
Các hàng hoá được sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên có
giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường đều phải trao đổi theo giá trị
xã hội. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị
xã hội thì có lợi; trái lại, người có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội sẽ ở
thế bất lợi, có thể bị phá sản. Để tránh bị phá sản và giành ưu thế trong
cạnh tranh, mỗi người sản xuất hàng hoá đều tìm cách giảm giá trị cá biệt
hàng hoá của mình xuống dưới mức giá trị xã hội bằng cách cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động. Lúc đầu, chỉ có kỹ
thuật của một số cá nhân được cải tiến, về sau do cạnh tranh nên kỹ thuật
của toàn xã hội được cải tiến. Như thế là quy luật giá trị đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất và sản xuất phát triển.
1.2.3. Phân hoá những người sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy sinh
quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trên thị trường, các hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau đều phải trao
đổi theo giá trị xã hội. Do đó, trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá
không tránh khỏi tình trạng một số người sản xuất phát tài, làm giàu, còn số
người khác bị phá sản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, sự tác động của quy luật giá trị
dẫn đến kết quả là một số ít người mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân công
và trở thành nhà tư bản, còn một số lớn người khác bị phá sản dần, trở
thành những người lao động làm thuê. Thế là sự hoạt động của quy luật giá
trị dẫn tới hệ phân hoá những người sản xuất hàng hoá, làm cho quan hễ tư
bản chủ nghĩa phát sinh. Lênin nói "… nền tiểu sản xuất thì từng ngày,
Page 7


8

từng giờ, luôn luôn đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, một cách tự
phát và trên quy mô rộng lớn".
Trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị cũng tác
động hoàn toàn tự phát "sau lưng" người sản xuất, hoàn toàn ngoài ý muốn
của nhà tư bản. Chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con người mới có thể nhận thức
và vận dụng quy luật giá trị một cách có ý thức để phục vụ lợi ích của
mình.
Nghiên cứu quy luật giá trị không chỉ để hiểu biết sự vận động của sản
xuất hàng hoá, trên cơ sở đó nghiên cứu một số vấn đề khác trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa coi
trọng việc vận dụng quy luật giá trị trong việc qui định chính sách giá cả,
kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, thực hiện hạch toán kinh tế v.v..

Page 8


9
2. THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG QUI LUẬT GIÁ TRỊ VÀO
NỀN KINH TẾ NƯỚC TA THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN QUY LUẬT Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN TỚI.
2.1. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị và vai trò của quy luật
giá trị trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của nước ta được
xác định là: Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN.
2.1.1. Thực trạng việc vận dụng qui luật giá trị ở nước ta thời gian
qua

Trước khi đổi mới, cơ chế kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập
trung bao cấp. Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế một cách có kết hoạch mang
nhiều yếu tố chủ quan. Điều này đã phủ nhận tính khách quan của quy luật
giá trị làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Nền
kinh tế rơi vào tình trạng kém phát triển.
Sau khi đổi mới quy luật giá trị được nhà nước vận dụng vào kế hoạch
hoá mang tính định hướng. Nhà nước phải dựa trên tình hình định hướng
giá cả thị trường để tính toán vận dụng quy luật giá trị vào việc xây dựng
kế hoạch. Do giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện riêng của giá trị, nhưng
nó còn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khác như quy luật cung
cầu. Tình hình kinh tế nước ta trong thời gian qua:
a) Tăng trưởng kinh tế và đóng góp vào tăng trưởng GDP
Nhờ thực hiện đổi mới kinh tế, vận dụng đúng các quy luật kinh tế. Từ
năm 1991 nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung
bình 7,67% hàng năm từ 1991-1999, mức kỷ lục là 9,54% năm 1995.
Page 9


10
Từ năm 1998, tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều nguyên
nhân trong đó chủ yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế cũng như tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển dịch tích cực theo hướng
giảm tỷ trọng khu vực nông - lâm - ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu
vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên tốc độ dịch chuyển cơ
cấu GDP còn rất chậm. Năm 2000, khu vực nông - lâm - ngư nghiệp trong
GDP vẫn còn chiếm 24,3%. Trong khi đó khu vực công nghiệp xây dựng là
36,6% và khu vực dịch vụ là 39,1% từ mức 23,5% và 36% tương ứng của
năm 1991.
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế, cũng có những chuyển dịch đáng

lưu ý là: Sau thời kỳ suy giảm từ năm 1986-1991 tỷ trọng của khu vực kinh
tế nhà nước tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2% năm 1993. Sau đó
giữ ổn định khoảng trên 40% từ 1994-1999. Trong khi đó tỷ trọng của khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước trong GDP liên tục giảm từ
70,75% năm 1991 xuống còn 49,4% năm 1999. Tiềm năng của khu vực
kinh tế tư nhân vẫn còn lớn và chưa được khai thác cao cho tăng trưởng
kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu ở sản xuất nông - lâm ngư nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch vụ với quy mô nhỏ và
rất nhỏ. Từ năm 1994 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có vai trò ngày
càng tăng trong phát triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù từ năm 1997, đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh, tỷ trọng của khu vực này
trong năm GDP vẫn tăng, chiếm 9,82% năm 1998 và 10,4% năm 1999.
b) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2002 đạt 16,706 tỷ USD, tăng
11,2% so với năm 2001, đạt được mục tiêu tăng xuất khẩu năm 2002 là từ
10 đến 12% và cao hơn nhiều so với mức tăng 3,8% của năm 2001. Điều
đặc biệt là sau 6 tháng đầu năm 2002 liên tục giảm xuất khẩu bắt đầu tăng
Page 10


11
nhanh dần sau những tháng tiếp theo xuất khẩu hàng hoá của các doanh
nghiệp trong nước đạt 8,834 tỷ USD bằng 52,9% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng 7,4% xuất khẩu của các doanh nghiệp nước ngoài đạt 7,87 tỷ
USD, bằng 47,1% tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 15,8%.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2002 ước đạt 19,73 tỷ USD tăng
22,1% so với năm 2001. Tương tự như xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá liên
tục tăng và nhanh dần vào các tháng cuối năm. Nhập khẩu hàng hoá trong
nước ước đạt 13,11 tỷ USD, bằng 66,5% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng
17,3%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập 6,62 tỷ USD,
bằng 33,5%. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 32,8%. Trong tổng kim

ngạch nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu, máy móc thiết bị, ô tô xe máy chiếm
97,5% tăng 0,1% hàng tiêu dùng chỉ chiếm 2,5%, giảm 0,1%.
c) Lạm phát
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm
1990, Việt Nam đã khá thành công trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm
phát. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% năm 1991 xuống còn 0,1% năm
1996.
Sau ba năm liền gần như không tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2002
tăng 4% so với năm 2001. Điều đó phản ánh mức cầu gia tăng khá mạnh
đồng thời thấy được sự ổn định về giá trị của hàng hoá trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Trên thực tế, tổng giá trị hàng hoá bán lẻ và doanh thu
dịch vụ năm 2002 tăng tới 12,85 so với năm 2001. Tuy nhiên có sự khác
biệt khá rõ rệt trong diễn biến giá cả giữa các nhóm mặt hàng.
Giá hàng hoá phi lương thực thực phẩm tương đối ổn định. Mức tăng
giá của các mặt hàng này là thấp nhất so với giá cả của các nhóm mặt hàng
khác, đang được coi là dấu hiệu tốt trong mối quan hệ giữa hàng công
nghiệp và nông sản vốn bất lợi cho người sản xuất nông nghiệp trong
những năm qua.
Page 11


12
d) Đầu tư và tiết kiệm
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1999 - 2000 đạt khoảng 682.880
tỉ đồng, tăng liên tục từ 6.747 tỷ đồng năm 1990 lên 68.018 tỷ đồng năm
1995 và 120.600 tỷ đồng năm 2000 (giá hiện hành). Tổng đầu tư xã hội so
với GDP cũng tăng nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3% năm 1997 là mức
cao nhất trong cả giai đoạn. Từ năm 1998 khi khủng hoảng tài chính châu
Á nổ ra, tỷ lệ này có xu hướng giảm chỉ còn 26,3% năm 1999, là một trong
những nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 2 năm

1998 và 1999. Năm 2000 mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu
tăng trở lại với mức 6,7% so với mức 4,8% của năm 1999, nhưng tổng đầu
tư xã hội ước tính chỉ đạt khoảng 27,2% so với GDP.
Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài
ngày càng chiếm tỉ trọng lớn năm 1990 vốn nhà nước chiếm 43,8%, vốn
của tư nhân và vốn của dân cư chiếm 41,5% và vốn GDI chiếm 14,7%.
Năm 1995 tỷ lệ tương ứng của vốn GDI có chiều hướng giảm mạnh, năm
2000 mặc dù có dấu hiệu tăng trở lại cũng chỉ đạt khoảng 18,6% của tổng
dân cư xã hội. Đầu tư của tư nhân trong nước không còn ở mức thấp mà
còn tăng chậm, kết hợp với xu hướng giảm của FDI đã ảnh hưởng xấu tới
việc tăng trưởng kinh tế. Từ đó gây sức ép cho đầu tư từ ngân sách nhà
nước.
Tiết kiệm trong nước trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990 lên 18,25 năm
1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ 1997 trở đi tăng liên tục, đạt 23,6% năm
1999. Trong cả thập kỷ 90, tỉ lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục, kích thích đầu
tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Điều này còn thể hiện rõ hơn qua tỷ lệ trong đầu tư tăng so với tổng
vốn sử dụng dành cho tiêu dùng, tích luỹ tăng nhanh từ 12,9% năm 1990
lên 24,95 năm 1995 và ước khoảng 27,95 năm 2000. Tiết kiệm trong nước

Page 12


13
tăng nhanh đã giảm sức ép, phụ thuộc vào vốn đầu tư từ bên ngoài, góp
phần quan trọng cho tăng trưonửg kinh tế bền vững hơn.
e) Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
Một trong những tác động quan trọng nhất của chuyển đối nói chung và
của tăng trưởng kinh tế nói riêng là cải thiện chỉ số GDP bình quân đầu
người. Theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã

tăng từ 222 USD năm 1991 lên 400 USD năm 2000.
Thu nhập của nhóm dân cư tăng đã làm thay đổi cơ cấu chi tiêu theo
hướng tích cực. Tỉ lệ chi tiêu dành cho ăn uống giảm từ mức 665 năm 1993
xuống còn 53% năm 1998, đồng thời chi cho sinh hoạt tăng từ 34% năm
1993 lên 47% năm 1998.
So sánh mức thu nhập giữa thành thị nông thôn và các vùng có sự
chênh lệch đáng kể, mức thu nhập ở thành thị đạt 832,5 nghìn đồng/tháng
năm 1999 tăng 17,8% năm so với năm 1996, nếu loại trừ lạm phát thì mức
tăng là 13,1%/năm (theo kết quả của điều tra mức sống dân cư năm 1999
của Tổng cục Thống kê). Mức thu nhập ở nông thôn đạt 225 nghìn
đồng/tháng tăng 6,2% so với cùng kỳ nếu loại trừ yếu tố giá chỉ còn tăng
1,9%. Như vậy mức thu nhập ở khu vực thành thị gấp 3 lần mức thu nhập ở
khu vực nông thôn. Mức tăng thu nhập ở khu vực thành thị có xu hướng
ngày càng doãng ra so với mức tăng thu nhập ở nông thôn (17,8%/năm so
với 6,2%/năm). Nếu loại trừ mức tăng giá thì mức thu nhập ở nông thôn
trong 4 năm 1996-1999 hầu như không tăng.
Năm 1999, dân số Việt Nam là 76,76 triệu người đứng thứ 12 trên thế
giới. Trong suốt thập kỷ 90 chính phủ đã thành công thực hiện chương
trình kế hoạch hoá gia đình, nhờ vậy tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đã giảm liên
tục, từ 2,33% năm 1991 xuống còn 1,75% năm 1998.

Page 13


14
Tổng số lao động làm việc trong ngành kinh tế tăng từ 30,2 triệu người
năm 1990 lên khoảng 40 triệu người vào năm 2000, trung bình mỗi năm
tăng trên 1 triệu lao động. Mặc dù cơ cấu lao động trong khu vực công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ giảm tỷ trọng lao động nông - lâm - ngư
nghiệp nhưng chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra với tốc độ rất chậm.

Năm 2000 khu vực nông nghiệp vẫn chiếm 62,5% tổng lực lượng lao động
so với tỷ lệ 73,26% vào năm 1991.
Trong giai đoạn vừa qua, việc làm được tạo ra trong khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh là chính. Tỷ lệ lao động trong khu vực này tăng liên tục
từ 89,5% năm 1991 lên 91,72% năm 1998, nhưng năm 1999 lại giảm còn
90,96%, tức bưàng mức của năm 1993. Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà
nước tăng lên chủ yếu trong ngành giáo dục, y tế.
Tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ qua đã có tác động tích cực tới giảm
tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, từ 9-10% năm 1990 xuống còn 5,8%
năm 1996. Từ năm 1997, giảm sút về tăng trưởng kinh tế làm cho số người
mất việc làm và không tìm được việc làm tăng lên, đạt mức cao nhất 6,85%
năm 1998 và 6,74% năm 1999. Năm 2000, tình hình kinh tế có dấu hiệu
khả quan hơn, nên tính tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm còn khoảng 6,5%.
2.1.2. Vai trò của quy luật giá trị
Quy luật giá trị, cùng với sự tác động của cung, cầu quyết định giá cả
có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó điều tiết sản xuất và
lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Như vậy nó đã góp phần
giúp nền kinh tế phát triển mạnh.
Quy luật giá trị tạo ra một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Nếu không
có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường nên nó dần hoàn thiện cơ chế
thị trường đang được xây dựng ở nước ta.

Page 14


15
Tuy nhiên quy luật giá trị có tác dụng phân hoá những người sản xuất
nhỏ, phân hoá giàu nghèo, dẫn dến bất công bằng trong xã hội. Từ đó hình
thành nên mâu thuẫn giữa hiệu quả và công bằng trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta.

2.2. Những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta
trong thời gian tới
2.2.1. Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô
Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô đồng thời có sự giám sát của xã hội,
nhằm khắc phục nhược điểm và mặt tiêu cực của thị trường. Muốn thế nhà
nước cần có những giải pháp như: Hoạch định chính sách ngành nghề dài
hạn cho nền kinh tế quốc dân. Thực hiện quản lý, giám sát và bảo vệ trật tự
thị trường. Hoạch định chính sách thu nhập, điều tiết phân phối thu nhập
v.v..
2.2.2. Giảm bất bình đẳng xã hội, giải quyết mâu thuẫn giữa hiệu
quả và công bằng
Về mặt khách quan bộ phận dân cư cần được hỗ trợ của các chính sách
xã hội được chia thành hai phần. Phần dân cư chịu sự thiệt thòi tự nhiên so
với phần còn lại do họ bị khiếm khuyết mặt nào đó trong năng lực cá nhân
và do đó thường xuyên có thu nhập thấp. Đó chủ yếu là người tàn tật,
thương binh, gia đình chính sách, các dân tộc thiểu số có trình độ văn hoá
thấp. Phần còn lại bao gồm những cá nhân gặp khó khăn về thu nhập không
thường xuyên do biến động của kinh tế, chính trị, chiến tranh và thiên tai.
Bộ phận này luôn thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước.
Nhìn chung gánh nặng phúc lợi xã hội của nước ta khá lớn do hậu quả
chiến tranh kéo dài do điều kiện kinh tế xã hội quá thấp và do tốc độ tăng
dân số quá nhanh trong khi đất đai, tài nguyên của nước ta không giàu có
lắm. Chính phủ không thể không gánh vác vấn đề này. Để giải quyết nó
Page 15


16
chính phủ cần xây dựng phát huy các chính sách như: tạo ra cơ hội có việc
làm, mở các trường dạy nghề, giúp đỡ gia đình neo đơn khó khăn. Đóng
thuế thu nhập cá nhân, gây dựng quỹ phúc lợi xã hội.

Hiện nay việc giải quyết chế độ cho người thất nghiệp ở Việt Nam còn
khá tự phát và lộn xộn tuỳ thuộc chủ yếu vào năng lực taì chính của doanh
nghiệp, vào chế độ lương và việc làm của nhà nước trong từng thời kỳ, vào
chính sách đào tạo của nhà nước cũng như nhiều yếu tố khác. Chính vì
chưa có đường hướng rõ ràng về vấn đề này, nên công tác xử lý lao động
dôi dư ở các doanh nghiệp cổ phần hoá gặp không ít khó khăn. Về lâu dài,
nhà nước cần phải có chính sách rõ ràng, nhằm vừa tạo điều kiện vận hành
kinh tế một cách có hiệu quả, vừa ổn định xã hội.
Tóm lại, kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hoá giàu nghèo. Song
sự phân hoá đó không đáng sợ đến mức phải gạt bỏ kinh tế thị trường trong
chủ nghĩa xã hội. Ngày nay nhân loại đã tìm ra cơ chế khắc phục và kiểm
soát sự phân hoá giàu nghèo của kinh tế thị trường. Trung tâm của cơ chế
đó là các giải pháp thực thi công bằng trong thu nhập của nhà nước cùng
với các phong trào xã hội dưới ảnh hưởng của các tổ chức khác nhau.
Thành công và hiệu quả của cơ chế thực thi công bằng phụ thuộc vào
đường lối, chủ trương, thực lực kinh tế và tài năng của giới lãnh đạo xã hội.
2.2.3. Quan tâm, đầu tư hơn nữa vào nền giáo dục
Giáo dục để nâng cao trình độ, kiến thức cho toàn dân nói chung, cho
lực lượng lao động nói riêng. KHi đó người sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong
việc giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội, có khả năng
giành ưu thế trong cạnh tranh. Giáo dục tạo điều kiện cho giáo dục sẽ giúp
cho năng lực lao động của toàn xã hội tăng vọt. Muốn thế cần phải đưa ra
các giải pháp như: Tạo ra 1 sự tiếp cận công bằng hơn đến dịch vụ giáo
dục, nâng cao chất lượng và tính thiết thực của dịch vụ giáo dục, nâng cao

Page 16


17
hiệu quả trong chi tiêu cho giáo dục đồng thời ngăn chặn nạn "chảy máu

chất xám".

Page 17


18
KẾT LUẬN

Trên cơ sở phân tích quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chúng ta có thể thấy được vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quy luật giá trị
đối với nền kinh tế của Việt Nam. Qua đây chúng ta cũng có thể thấy việc
vận dụng chúng vào các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị vào
việc xây dựng các kế hoạch của nhà nước là rất quan trọng. Đề án cũng đã
đưa ra được một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào
nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới.

Page 18


19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Văn nghệ số 29 ngày 20/7/1991
2. C. Mác Tư bản quyển III tập 2, NXB Sự thật Hà Nội - 1978
3. C. Mác Tư bản quyển thứ nhất tập III, NXB Sự thật Hà Nội
4. Các phương pháp tài chính về liên quan đến xoá đói giảm nghèo Tạp chí kinh tế và phát triển.
5. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin - NXB Giáo dục.
6. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa - NXB Chính trị quốc gia.
7. Lý luận chính trị số 1/2002

8. Số liệu nguồn báo cáo phát triển kinh tế, con người của Tổng cục
thống kê.

Page 19



×