MỞ ĐẦU
1 : Lý do chọn đề tài
Cuộc sống của con người và xã hội loài người là một quá trình hoạt động
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tình thần của mình , đồng thời lại tiếp tục nảy
sinh những nhu cầu mới ở cấp độ cao hơn. Vì con người cần được thỏa mãn nhu
cầu về vật chất để giúp cho sự tồn tại của thể các và con người cũng cần được thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ để tồn tại đời sống tinh thần . Nếu sự tồn tại của con người
chỉ dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu sinh tồn , nhu cầu vật chất thì cuộc sống sẽ
như thế nào ? Vì vậy trong hệ thống nhu cầu giúp cho sự tồn tại của con người ,
thẩm mỹ có vai trò rất quan trọng.
Trước đây, khi điều kiện kinh tế xã hội của nước ta còn thấp , việc thỏa mãn
nhu cầu về thẩm mỹ vẫn còn là mục đích của xa xôi. Nhưng hiện nay khi nền kinh
tế xã hội đã phát triển mạnh mẽ , đời sống vật chất của người dân được nâng cao ,
con người có điều kiện để quan tâm tới yếu tố thẩm mỹ trong từng sản phẩm nhằm
phục vụ đời sống của mình hơn thì việc thiết kế ra một sản phẩm vừa mang tính
thẩm mỹ cao lại vừa đáp ứng được mục đích sử dụng mà giá thành lại phù hợp với
từng đối tượng kinh tế là một vấn đề quan trọng trong thiết kế. Xe máy Honda Air
Blade 125 là một sản phẩm đáp ứng được những nhu cầu mà xã hội hiện giờ đang
hướng tới nên em đã mạnh dạn chọn sản phẩm này để làm đề tài nghiên cứu tiểu
luận của mình.
2 : Mục đích nghiên cứu của đề tài
Qua sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125 giúp cho người đọc thấy được
mối liên hệ giữa thẩm mỹ và kinh tế, hai khái niệm tưởng chừng không hề liên
quan đến nhau nhưng thực tế lại liên quan mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau trong
thiết kế sản phẩm công nghiệp.
3 : Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của để tài là tính thẩm mỹ và kinh tế trong thiết kế
sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125 .
Phạm vi nghiên cứu về tính thẩm mỹ và kinh tế trong thiết kế nói chung đối
với mọi sản phẩm cùng với tính thẩm mỹ và kinh tế trong thiết kế của hãng
HONDA với sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125.
4 : Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu điều tra, thực tế.
- Phương pháp nghiên cứu phân tích.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh.
5 : Kết cấu của Tiểu luận
Gồm 3 phần:
A. Mở đầu
B. Nội dung
C. Kết luận
Phần nội dung chia làm 2 chương lớn:
Chương I: Thẩm mỹ và kinh tế .
Chương II: Thẩm mỹ và kinh tế trong thiết kế sản phẩm Xe máy Honda Air Blade
125.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
Thẩm mỹ và kinh tế .
1.1 : Thẩm mỹ
1.1.1 : Khái niệm thẩm mỹ
Thẩm mỹ là hiểu biết và thưởng thức cái đẹp. Một hệ thống lí thuyết về giáo
dục cái đẹp và nghệ thuật. Lựa chọn con đường tốt nhất để đưa toàn bộ những gì
thuộc về nghệ thuật và cái đẹp đến với từng loại đối tượng khác nhau, giúp cho họ
đồng hóa được những giá trị đó.
Nói đến thẩm mỹ không thể không nói đến khái niệm cái đẹp. Nhưng đó là
một câu hỏi làm đau đầu biết bao nhiêu nhà triết học thuộc đủ mọi quốc gia, sống
ở mọi thời đại trong lịch sử. Có thể nói: cái đẹp bao hàm hai cực: sự phóng khoáng
và sự tinh tế. Ở đây may ra có thể có sự phân biệt giữa phương Đông và phương
Tây. Phương Tây thường tìm tới cái đẹp trong sự phóng khoáng, hùng vĩ, còn
phương Đông - trong sự tinh tế, tỉ mỉ.
Cái đẹp là sự hài hoà, sự cân đối cả trong đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Nhưng trước khi nói đến thẩm mỹ của con người cần đề cập đến thẩm mỹ về con
người, tức cái đẹp của con người. Con người cần có cả sự phóng khoáng lẫn sự
tinh tế, hơn nữa, cần sự kết hợp hai cực khác nhau ấy cả vĩ mô lẫn vi mô, trong đời
sống của mình. Con người không phóng khoáng thì không tạo ra được sự hùng vĩ
về mặt nhân cách. Sự hùng vĩ thể hiện trong nghệ thuật như trường ca, như những
bức tranh hoành tráng. Con người cũng phải xây dựng cái đẹp của mình trong sự
hùng vĩ của cá nhân.
Nhưng con người sống với nhau, hàng ngày va chạm, còn cần có sự tế nhị,
sự tinh tế. Sự tinh tế cần phải được kết hợp với sự hùng vĩ của tâm hồn để tạo ra vẻ
đẹp. Nếu con người chỉ nghĩ đến cái đẹp bên ngoài bản thân thì không đủ. Người
ta nhận ra giá trị thẩm mỹ của con người chủ yếu là thông qua chính nó. Sự tinh tế
không chỉ bổ sung, mà còn duy trì cảm xúc của con người về đối tượng.
Tất nhiên, con người còn lệ thuộc vào phương tiện, vì thế phương tiện cũng
phải đẹp. Vẻ đẹp của tiện nghi là phương tiện bổ sung, giúp cho người ta nhận ra
cái vẻ đẹp thật của con người. Hiện nay, khi nghiên cứu mỹ họe, người ta thường
chỉ nghiên cứu vẻ đẹp nghệ thuật, vẻ đẹp kiến trúc, vẻ đẹp sản phẩm... Nghiên cứu
mỹ học, theo tôi, trước hết cần phải bắt đầu bằng nghiên cứu tiêu chuẩn của vẻ đẹp
con người.
Cái đẹp là sự kết hợp của các quan niệm cả khách quan lẫn chủ quan. Có thể
nói trí tuệ của nhân loại hiện nay chưa đủ để xây đựng được tiêu chuẩn về cái.đẹp.
Có những lúc, như trong thời kỳ chiến tranh chẳng hạn, người ta xem những người
anh hùng là vẻ đẹp. Từ thời La Mã cổ đại người ta đã tôn sùng vẻ đẹp của người
anh hùng. Người ta đem đối lập họ với những kẻ tiểu nhân. Nhưng con người
thông thường thì nhiều mà người anh hùng thì ít. Con người đã bắt đầu thay đổi lý
tưởng của mình về vẻ đẹp. Người ta không còn nhìn vào sự hùng vĩ, không còn
nhìn vào quá khứ nữa, mà bắt đầu nhìn vào nhau với tư cách là các đối tượng. Vẻ
đẹp bây giờ là vẻ đẹp dân sự.
Tiêu chuẩn trước tiên của thẩm mỹ về con người ở thời kỳ hiện đại chính là
khả năng hợp tác. Con người thường khâm phục những ai sống được với tất cả mọi
người. Những ai có ích cho tất cả mọi người, đó là những người đẹp nhất. Tiếp đó
là năng lực tiếp nhận. Chúng ta thường nói người này thông minh, người kia sáng
dạ. Đấy chính là một vẻ đẹp, vẻ đẹp của năng lực tiếp nhận cởi mở. Tiêu chuẩn thứ
ba của vẻ đẹp con người hiện đại là sự hài hoà giữa đời sống tâm hồn và đời sống
vật chất. Nói đến vẻ đẹp của con người thì không phải là nói về một sự nghiệp, mà
trước hết là nói đến tiêu chuẩn đời sống hàng ngày. Cuối cùng, một con người
muốn đẹp thì phải là con người có giáo dục, trong sự giáo dục đó có giáo dục về
cái đẹp. Giáo dục góp phần nâng cao khiếu thẩm mỹ của con người, giúp họ có
khả năng nhận ra cái đẹp và sau đó là khả năng làm mình đẹp lên.
1.1.2 : Vai trò của thẩm mỹ
Thẩm mỹ trực tiếp thúc đẩy tâm lý, làm tăng năng suất lao động, nhưng nó
còn tham gia nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, vai trò chủ yếu của nó vẫn
là làm giàu có cho đời sống tinh thần của con người.. Vai trò của những thước đo
thẩm mỹ trong đời sống tinh thần cũng tương tự như vai trò của những thước do
đạo đức trong đời sống xã hội.Những thước đo này liên quan chặt chẽ với nhau và
liên quan với trình độ dân trí, truyền thống, mức độ giao lưu quốc tế và nhiều yếu
tố khác.
Hoạt động thẩm mỹ: Là các hoạt động của nhà sáng tạo làm ra các giá trị
thẩm mỹ. Như trên đã nói, thẩm mỹ thực ra bao trùm cả đạo đức lẫn nghệ thuật, vì
thế nhà sáng tạo phải được hiểu theo nghĩa rộng. Đó không chỉ là các nhà văn, nhà
thơ nhà điêu khắc... mà cả những con người bình thường đang hàng ngày hàng giờ
tạo ra những vẻ đẹp thường ngày cho cuộc sống chúng ta.
Các giá tri thẩm mỹ: Các giá trị thẩm mỹ thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác
nhau. Đó có thể là những tác phẩm nghệ thuật (như văn học, hội hoạ, kiến trúc,
điêu khắc...), có thể là những phong cách ứng xử, giao tiếp..., nhưng cũng có thể
dưới dạng những công nghệ, kỹ thuật và cơ chế quản lý sản xuất... hay thông qua
luật pháp.
1.1.3 : Ý thức của thẩm mỹ
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức thẩm mĩ cũng giống như bất kỳ một hình
thái ý thức thức nào khác. Mọi nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận
dụng cho các hình thức ý thức nói chung đều được vận dụng cho ý thức thẩm mĩ.
Như mọi hiện tượng ý thức khác, ý thức thẩm mĩ nảy sinh, hình thành và phát triển
trên cơ sở thực tiễn đời sống xã hội.
Ý thức thẩm mĩ của con người nảy sinh trong lao động và phát triển trong sự
gắn bó với lao động. Trong quá trình hoạt động lao động sản xuất, con người cải
tạo tự nhiên trên cơ sở nhận thức thế giới trong tính thống nhất của bản chất và
biểu hiện của nó. Con người tạo ra sản phẩm lao động dựa trên cơ sở vận dụng tiêu
chuẩn vì tính hoàn thiện của sản phẩm. Các sản phẩm làm ra làm con người hài
lòng vì nó thỏa mãn nhu cầu vật chất. Ðồng thời, nó thể hiện tài nghệ của mình.
Con người nhận được niềm vui, khoái cảm bởi tính hoàn thiện và hài hòa của sự
vật, sản phẩm lao động. Con người nhìn thấy được chính mình trong sản phẩm lao
động của mình. Ðó là niềm vui tinh thần cao quý. Niềm vui đó lại kích thích con
người sáng tạo. Hoạt động thẩm mĩ, đó vừa là phương tiện để đạt được mục đích,
vừa là mục đích tự thân (xét trên một ý nghĩa nào đó).
Như vậy, sự phát triển sản xuất, đời sống xã hội, thực tiễn khoa học kỹ thuật
và nghệ thuật tạo ra khả năng ngày càng lớn cho hoạt động thẩm mĩ. Tuy nhiên, sự
phát triển thẩm mĩ và tính tích cực thẩm mĩ đạt đến đâu là do điều kiện xã hội quy
định. Nếu con người bị bao vây bởi lợi ích tiêu dùng thuần túy, bởi tính thực dụng
thô thiển, bởi lao động cưỡng bách thì không thể nói phát triển khả năng thẩm mĩ
được. C.Mác đã từng nói: Ðối với con người sắp chết đói thì không có hình thức
người của thực phẩm mà chỉ có sự tồn tại trừu tượng của nó với tính cách là thực
phẩm: thực phẩm có thể có một hình thức thô lỗ nhất và không thể nói việc ăn
uống như thế khác với việc động vật ăn uống ở chỗ nào. Con người cùng khổ bị
những nỗi lo lắng dày vò không có cảm giác ngay cả đối với vở kịch tuyệt tác.
Ý thức xã hội là phản ánh tồ tại xã hội, ý thức thẩm mĩ cũng nằm trong quy
luật chung đó. Nghệ thuật nhân loại từ xưa đến nay luôn bám sát đời sống. Từ thời
nguyên thủy người ta đã vẽ lại các hoạt động lao động sản xuất của mình: hình vẽ
những con thú trên đá (đối tượng lao động) bị trúng tên máu chảy đầm đìa; những
lời ca, điệu múa, điệu nhảy ăn mừng chiến thắng; những lời hò đưa đò, chèo
thuyền...
Ý thức xã hội không chỉ phản ánh thế giới mà còn cải tạo thế giới, ý thức
thẩm mĩ cũng nằm trong quy luật đó. Những hoạt động thẩm mĩ từ thời nguyên
thủy đều mang ý nghĩa thực tiễn: trao truyền kinh nghiệm (như các bức tranh, các
điệu nhảy, các bài ca dao, tục ngữ...). Ngày nay ý thức thẩm mĩ vẫn gắn bó với sản
xuất với lao động như trước, nó vẫn và càng phát huy vai trò cải tạo thế giới của
mình. Ý thức thẩm mĩ xuất hiện như là một nhu cầu, một đòi hỏi về chất lượng sản
phẩm và là người kiểm tra khắt khe về chất lượng sản phẩm. Ý thức thẩm mĩ khi
xuất hiện dưới dạng lí tưởng thẩm mĩ thì nó là mục đích phấn đấu của con người
nhằm cải biến bản thân và đời sống để chúng ngày càng tốt đẹp và hoàn hảo hơn.
Ý thức thẩm mĩ giữ vai trò trợ tác cho việc cải tạo và biến đổi xã hội. Nó vẽ trước
mắt con người mục tiêu cần đi đến, cần đạt được. Nó khích lệ, động viên con
người; nó tăng cường nghị lực, ý chí và tình cảm cho người trong quá trình lao
động biến cải hiện thực.
Ý thức thẩm mĩ có hình thức tư duy đặc thù, đó là tư duy hình tượng. Ý thức
thẩm mĩ nảy sinh, hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn đời sống xã hội.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người cần thiết phải nắm vững các quy
luật và bản chất của sự vật và hiện tượng. Con người có hai cách để nắm được điều
đó: trừu tượng hóa đối tượng để giữ lại cái quy luật, bản chất của sự vật; và hình
tượng hóa một cách toàn vẹn, cụ thể, sinh động về đối tượng. C. Mác viết: Con
nhện làm những động tác tương tự như động tác của người thợ dệt, và con ong làm
cho lắm nhà kiến trúc khéo léo phải ngạc nhiên về cách kiến trúc các ổ bằng sáp
của nó. Nhưng sự khác nhau trước hết giữa nhà kiến trúc tồi nhất với con ong khéo
léo nhất là ở chỗ con người thì phải xây dựng cái tổ đó trong óc mình trước khi
xây dựng tổ ong. Cái kết quả mà con người lao động đạt được, đã có trước bằng ý
niệm trong trí tưởng tượng của người lao động. Con người không phải chỉ làm cái
việc thay đổi hình thức các vật chất tự nhiên, đồng thời bằng việc đó, con người
còn thực hiện mục đích của chính mình mà mình đã có sẵn trong ý thức.
Chỉ có con người có ý thức mới hình dung trước trong óc mình về mục đích
cũng như kết quả của mỗi quá trình lao động. Việc hình dung, tưởng tượng trước
mục đích và kết quả (tức vật phẩm) lao động của mình là phẩm chất quan trọng
của tư duy- ý thức xã hội. Lênin đã từng khẳng định: Thật là ngu xuẩn khi nghĩ
rằng tưởng tượng chỉ cần cho các nhà thơ, ngay cả trong toán học, phép tính vi
phân và tích phân cũng cần đến trí tưởng tượng. Việc hình dung trước sản phẩm
lao động là sự phác họa trước, thiết kế trước, là mô hình hóa trước sẽ thúc đẩy, cổ
vũ và điều chỉnh hoạt động của con người và làm cho lao động có hiệu quả và
năng suất. Ðấy cũng là một dạng tư duy của con người tư duy hình tượng tư duy
phát hiện bản chất và quy luật của đối tượng nhưng vẫn giữ được tính sinh
động, cụ thể của đối tượng.
1.1.4 : Thị hiếu của thẩm mỹ
Thị hiếu là sở thích trong mọi lĩnh vực đời sống của các nhân và tập thể. Sở
thích của con người rất phong phú, nhiều lĩnh vực: đời sống, đạo đức, tâm hồn...
Sở thích gần như là thói quen của từng người trong sinh hoạt. Thị hiếu thẩm mĩ là
sở thích của con người về phương diện thẩm mĩ. Ðó là thái độ tình cảm trước cái
đẹp, cái xấu, cái cao cả, cái thấp hèn, cái bi, cái hài...
Sự phản ứng mau lẹ gần như bản năng của chủ thể trước các hiện tượng
thẩm mĩ. Do kinh nghiệm, do tôi luyện, do hun đúc... kinh nghiệm mĩ cảm đã trở
thành ổn định, và trở thành giá trị thẩm mĩ thường trực chi phối sự đánh giá tức
thời của chủ thể thẩm mĩ. Vì vậy mà, trước một hiện tượng thẩm mĩ, chủ thể phản
ứng thích hay không thích ngay lập tức, cơ hồ như không hề có sự suy xét nào.
1.2 : Thẩm mỹ trong thiết kế
Yếu tố thẩm mỹ trong thiết kế nói chung là tạo ra một tác phẩm nhìn vào thể
hiện đúng qui luật, qui tắc mỹ thuật, bố cục. Điều này có nghĩa, người thiết kế
không phải chỉ là việc tạo ra một mẫu thiết kế nhìn bắt mắt, đẹp, mà nó phải được
trình bày nội dung và có các yếu tố thiết kế phù hợp, các thiết kế khác nhau thì
truyền tải những thông điệp khác nhau cho người sử dụng sản phẩm mà bạn tạo ra.
Do đó, mẫu thiết kế phải trình bày được thông điệp mà nhãn hàng muốn sản phẩm
của mình hướng tới.
Thiết kế một sản phẩm đẹp nhưng lại không đúng với nội dung mà nhãn
hàng muốn thể hiện thì chúng ta sẽ có một kết quả tồi. Điều đó giải thích tại sao,
các nhà thiết kế không nên mù quáng đi theo một xu hướng nhất thời, hoặc chiều
theo ý khách hàng một cách thái quá. Bạn nên suy nghĩ là mình không chỉ tạo ra
một sản phẩm nhìn đẹp, mà còn phải thích hợp với nội dung mà nhãn hàng muốn
truyền tải.
Các quy luật về thẩm mỹ trong lĩnh vực đồ họa nói chung và ngành thiết
kế hiện đại nói riêng đều giống nhau. Các quy tắc bố cục, các qui luật thị giác, luật
xa gần, luật phối cảnh, các yếu tố chính phụ, sự tương phản, tính cân bằng…
Trong thiết kế đều cần phải được đảm bảo nhằm tạo ra được một sản phẩm
có tính thẩm mỹ cao nhất. Sản phẩm đẹp sẽ thu hút người xem, tao sự hấp dẫn và
cuốn hút về mặt hình thức sẽ dẫn dắt người tiêu dùng mua sản phẩm và tạo nên sự
thành công cho nhãn hàng.
1.2 : Kinh tế
1.2.1 : Khái niệm kinh tế
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã
hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người,
các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy
cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
Ngày nay trên các phương tiện truyền thông ta thấy hai từ “kinh tế” được sử
dụng rất thường xuyên, và dường như ý nghĩa của từ này rất rộng. Nói đến kinh tế
ta thường nghĩ đến “chứng khoán”, “lạm phát”, rồi “đầu tư”, “tín dụng” v.v… Vậy
đâu mới là bản chất ý nghĩa của từ này ?
Theo ngôn ngữ Hán – Việt, kinh tế được hiểu theo nghĩa “Kinh bang tế thế”,
kinh bang có nghĩa là trị nước và tế thế có nghĩa là cứu đời. Hay còn có thể hiểu
theo nghĩa đó là công việc mà một vị vua phảm đảm nhiệm, đó là: chăm lo đời
sống vật chất của bề tôi, chăm lo đời sống tinh thần của những người dân đen con
đỏ.
Theo ông Adam Smith, cha đẻ của môn kinh tế, định nghĩa từ “kinh tế”
trong cuốn sách nổi tiếng “Sự giàu có của các quốc gia” (Wealth of Nations) của
ông là: Khoa học học gắn liền với những quy luật về sản xuất, phân phối và trao
đổi. Ông cho rằng “sự giàu có” chỉ xuất hiện khi con người có thể sản xuất nhiều
hơn với nguồn lực lượng lao động và tài nguyên sẵn có. Về định nghĩa từ kinh tế,
xét theo bản chất, làm kinh tế là con người cố gắng thực hiện những công việc để
sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có của mình như: tiền, sức khỏe, tài năng thiên
bẩm và nhiều tài nguyên khác, để tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu
nhân loại. Từ đó tạo ra của cải vật chất cho chính mình. Hoạt động kinh tế là bất kì
hoạt động nào mà sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có của mình để tạo ra những
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đem trao đổi và thu được một giá trị lớn hơn cái mà
mình đã bỏ ra. Như vậy, định nghĩa “kinh tế” vào thời mới khai sinh của môn khoa
học này đơn giản là: “nghiên cứu về sự giàu có”
Tuy nhiên, như trong bài viết về “Kinh tế tri thức ở Việt Nam”, của GS Hồ
Tú Bảo, tạp chí Tia sáng đăng ngày 20-07-2010 có đưa ra quan điểm: “Theo một
định nghĩa được thừa nhận rộng rãi, kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của một cộng đồng hay một quốc
gia”.
Trong xã hội hiện nay, khái niệm kinh tế vẫn chưa có một cách nhìn thống
nhất, hay là một chuẩn mực nhất định. Có thể hiểu một cách cơ bản rằng, kinh tế là
tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội liên quan
trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã
hội với một nguồn lực có hạn.
Khái niệm kinh tế đề cập đến các hoạt động của con người có liên quan đến
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Nói cách khác, kinh
tế có nghĩa là: “Dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và hạn hẹp,con người và xã hội
loài người tìm cách trả lời 3 câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào?Sản
xuất cho ai?”
1.2.2 : Kinh tế trong thiết kế
Khi nhắc đến kinh tế và thiết kế , chắc hẳn các bạn sẽ nghĩ 2 từ này chả có
liên quan gì tới nhau cả , nhưng trên thực tế chúng lại có mối quan hệ mật thiết và
phụ thuộc lẫn nhau .
Một sản phẩm thiết kế có tính thẩm mĩ cao thì giá thành cũng cao và ngược
lại .
Mỗi sản phẩm thiết kế đều hướng tới nhu cầu của 1 tầng lớp điều kiện kinh
tế nhất định .
+ Với những người có điều kiện kinh tế cao thì một sản phẩm thiết kế phải
có tính thẩm mĩ cao và giá thành có cao thì nó cũng là tương xứng cho một thiết kế
đẹp.
+ Với những người có điều kiện kinh tế thấp thì một sản phẩm thiết kế
không cần có tính thẩm mĩ quá cao nhưng giá thành phải rẻ .
Đó là lý do vì sao lại có sự khác nhau giữa thiết kế của các loại sản phẩm
trong cùng 1 mặt hàng của một nhãn hàng.
Thiết kế có tính thẩm mĩ cao theo thơi gian chỉ giảm giá trị về kinh tế chứ
không hề bị đào thải . vd : ip4 chỉ bị hạ giá thành từ khi mới ra các dòng ip mới
nhưng lại vẫn đk ng tiêu dùng rất ưa chuộng
1.3 : Mối liên hệ giữa thẩm mỹ và kinh tế trong thiết kế.
Ảnh hưởng trực tiếp với nhau tác động xoay vòng chi phối và ảnh hưởng tới
nhau.
Thẩm mỹ bị chi phối bởi kinh tế. Thẩm mỹ được đánh giá qua thị hiếu của
nhiều người sẽ có nhiều ý kiến thích hoặc không thích nên Nói thẩm mỹ bị chi
phối bởi kinh tế là do, 1 sản phẩm được thiết kế ra mức độ được tiếp nhận và tin
dùng như một phiếu đánh giá chất lượng và độ đáng tin cậy của sản phẩm.Hay nói
ngược lại chính là kinh tế chi phối thẩm mỹ bằng mức độ tiêu thụ của sản phẩm.
Kinh tế bị chi phối bởi thẩm mĩ. Tính thẩm mỹ phải tương xứng với giá trị
kinh tế theo thời gian để phù hợp với điều kiện kinh tế ng tiêu dùng.
Tiểu kết chương I
Thẩm mỹ trực tiếp thúc đẩy tâm lý, làm tăng năng suất lao động, nhưng nó
còn tham gia nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, vai trò chủ yếu của nó vẫn
là làm giàu có cho đời sống tinh thần của con người.. Như vậy, các giá trị thẩm
mỹ không thể hiện trong một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội mà trong mọi
hoạt động xã hội của con người. Nó tham gia cấu tạo nên môi trường văn hoá của
con người và có vai trò rất quan trọng và không thể thiếu trong cuộc sống con
người. Kinh tế đề cập đến lợi ích các hoạt động của con người có liên quan đến sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Thẩm mỹ và kinh tế
tưởng chừng như không liên quan đến nhau nhưng lại có mối quan hệ tác động
xoay vòng, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau, tương tác thúc đẩy nhau cùng phát
triển.
CHƯƠNG II
Thẩm mỹ và kinh tế trong thiết kế sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125.
2.1. Lịch sử ra đời và phát triển của HONDA.
Thị trường xe máy càng ngày càng phát triển, nhiều dòng xe mới ra đời, bên
cạnh đó các hãng sản xuất xe cũng mọc lênh rất nhiều, nhưng đối với xe máy tại
Việt Nam thì mỗi khi nhắc đến xe máy người ta sẽ nghĩ đến Honda, Yamaha,
Suzuki, SYM …. Nhưng trong số đó Honda vẫn đứng đầu và giữ được cho mình
một vị thế nhất định.
Tên tuổi Honda không chỉ quen thuộc với người Việt Nam mà còn là một
thương hiệu nổi tiếng trên khắp thế giới bởi đây là một hãng xe Nhật Bản có lịch
sử hình thành – phát triển đầy thăng trầm và đáng nể.
Nhãn hiệu xe máy Honda gắn liền với tên tuổi và cuộc đời của một người
đàn ông đầy đam mê và nhiệt huyết, ông chính là Soichiro Honda. Từ ước mơ và
sự thành công của mình ông đã có những đóng góp to lớn trong việc “đưa những
phương tiện di chuyển của con người lên một tầm cao mới”.
Đầu những năm 1940, hãng Honda được thành lập nhưng chưa phải là một
tên tuổi lớn. Lúc này hãng chỉ đơn thuần là một công ty kinh doanh motor máy.
Thử thách đầu tiên mà ông Soichiro Honda gặp phải chính là làm sao để tiêu thụ
một số lượng lớn những động cơ hai thì dư thừa sau thế chiến thứ II – do chính
phủ đề nghị. Đây thật sự là một bài toán khó vì loại động cơ này vào thời đó khá
hiện đại và đắt tiền, sử dụng lại rất hao tốn nhiên liệu trong khi sự tàn phá của
chiến tranh làm cho nguồn cung nhiên liệu cho người dân rất hạn chế. Sau nhiều
đêm suy nghĩ, cuối cùng ông Soichiro Honda đã có một quyết định táo bạo. Ông
đem những động cơ kia cải tiến lại để gắn vào những chiếc xe đạp, như thế giá
thành sẽ hạ và dễ tiêu thụ hơn. Bắt tay vào kế hoạch, đến tháng 10 năm 1946,
xưởng sản xuất ở Hamamatsu đã hoàn thiện sản phẩm “mô tô đầu tiên” có cả pedal
và bàn đạp nổ. Riêng để đối phó với tình trạng khan hiếm nhiên liệu, những chiếc
xe này được ông Soichiro thiết kế lại để chạy bằng dung dịch chiết xuất từ nhựa
thông (loại nhiên liệu này thời bấy giờ được sản xuất nhiều và cung cấp trong cả
nước). **Tuy nhiên, nhựa thông dẫu sao cũng không phải là một giải pháp hay cho
những chiếc động cơ 2 thì, bởi nó yêu cầu người sử dụng đạp pedal liên tục để làm
nóng động cơ trước khi khởi động. Mức độ tạo khói bụi thì không thể tồi hơn.
Ảnh 1 :Chiếc xe A-Type hay còn gọi nó với cái tên ấn tượng: The Stove –
Bếp Lò. ( Phần phụ lục )
Bài toán đầu tiên đã được giải, sau khi số động cơ thừa được tiêu thụ hết,
ông Soichiro quyết định bắt đầu sản xuất những chiếc xe riêng của chính mình. Sử
dụng nguyên mẫu là những chiếc động cơ 2 kì còn thừa trước đây, ông đã xây
dựng một bản thiết kế mới cho một loại động cơ 50cc với vị trí lắp động cơ không
thay đổi so với những chiếc xe đạp trước. Mùa đông năm 1947, chiếc A-Type được
sản xuất với công suất 0,5 mã lực. Vẫn sử dụng dung dịch nhựa thông, chiếc xe
hoạt động cùng với vô số khói và mùi khó chịu, có lẽ vậy mà người ta vẫn quen
gọi nó với cái tên ấn tượng: The Stove – Bếp Lò.
Từ ước mơ đến hiện thực May mắn đã mỉm cười với ông Soichiro Honda
khi ông chính thức thành lập Honda Motor vào năm 1948 ở tuổi 41 dưới sự giúp
đỡ về tài chính của ngài Takeo Fujisawa (người mà sau này trở thành phó chủ tịch
của Honda Motor). Họ nhanh chóng xây dựng nên một kỷ nguyên xe gắn máy của
riêng họ. Dự án đầu tiên chính là sản xuất một phiên bản động cơ nâng cấp của AType với tên gọi B-Type có dung tích xy-lanh 90cc. Giai đoạn này cũng chính là
giai đoạn kết thúc chiến tranh gần 5 năm, kinh tế Nhật đang dần phục hồi sau thời
gian khó khăn nhất, điều này đã góp phần làm hãng Honda nghĩ tới việc sản xuất
những chiếc xe máy hoàn chỉnh chứ không phải loại xe đạp máy như A-type
(nhưng vẫn phải đảm bảo tiêu chí phù hợp với túi tiền của người dân). Vì vậy, 1
năm sau, năm 1949, Honda cho ra đời mẫu D-Type, chính Soichiro Honda tự tay
quản lí tất cả các công đoạn sản xuất, gia công đến khi hoàn thiện sản phẩm. Đó
cũng là chiếc xe đầu tiên do công ty Honda hoàn toàn sản xuất, một công việc
hoàn thiện, có quy trình và phức tạp hơn nhiều so với việc chỉ lắp động cơ lên một
thân xe đạp như trước đây. Ông Soichiro Honda đã gọi nó là “The Dream” bởi lúc
này giấc mơ của ông về việc tự sản xuất một chiếc xe gắn máy hoàn thiện đã thành
sự thật.
Ảnh 2 : Chiếc xe E-Type Dream. ( Phần phụ lục )
Năm 1950 – 1951 Honda tiếp tục phát triển phiên bản cải tiến của D-type,
đây là một động cơ có dung tích 146cc, loại OHV (Over Head Valve) 4 kì được đặt
tên là E-Type Dream. Động cơ mới này hết sức mạnh mẽ vào thời đó với công suất
5,5 mã lực và có thể đạt tốc độ 50mph ( khoảng 80km/h). Chiếc xe có khung thép
vững chắc và đầy đủ cả hai bộ phận giảm xóc trước và sau. Vào tháng 10 năm
1951, chiếc E-Dream đạt được sản tốc độ sản xuất 130 chiếc 1 ngày. Bên cạnh
những chiếc xe mô tô đua “đúng nghĩa” Honda vẫn không quên thị trường xe giá
rẻ. Năm 1952, họ sản xuất chiếc “Cub” F-Type đầu tiên, chiếc xe với động cơ hai
kì có dung tích 50cc đạt sức mạnh 0.5 mã lực. Chiếc xe bình dân này đã bán được
với số lượng cực lớn, vượt cả mong đợi. Chưa đầy một năm sau, sản lượng “Cub”
đã đạt tới 6500 chiếc/tháng, chiếm 70% thị phần xe hai bánh ở Nhật. Năm 1953,
Honda sản xuất chiếc xe 90cc J-Type, một sản phẩm được ứng dụng nhiều công
nghệ phức tạp, được biết đến với cái tên Benly (trong tiếng Nhật nghĩa là: sự tiện
nghi). Với hộp số 3 cấp, công suất 3.8 mã lực và thậm chí giảm xóc trước còn
dùng dạng ống lồng, Honda đã bán được với mức 1000 xe/tháng. Đến năm 1954,
chiếc scooter 200cc Juno (xe ga Honda đầu tiên) được sản xuất để cạnh tranh với
những chiếc Vespa của Piaggio – mẫu xe thời gian đó đã bắt đầu xuất hiện ở Nhật.
Honda cũng cải tiến chiếc Dream và Benly để cạnh tranh với nhiều hãng khác, đặc
biệt là về dung tích xy-lanh và sức mạnh động cơ.
Ảnh 3 : Xe Honda C70 Dream ( Phần phụ lục)
Tháng 9 năm 1957, Honda ghi dấu thêm một bước ngoặc trong công nghệ
sản xuất của họ bằng việc cho ra đời động cơ 2 xy-lanh đầu tiên của hãng. Động
cơ này được lấp cho chiếc xe C70 Dream huyền thoại với công suất 250cc. Đầu
những năm 1958, Honda bắt đầu gắn hệ thống khởi động điện cho những chiếc
C70 và đặt kí hiệu là C71. Năm 1959 chiếc Benly mới nhất được tung ra với động
cơ 125cc và đạt vận tốc đến 100km/h. **Sự phát triển liên tục của Honda được
đánh dấu bằng danh hiệu nhà sản xuất xe gắn máy thành công nhất tại Nhật. Lấn
sân vào thị trường xe Phân Khối Lớn – Chuyện phải làm. Sau sự khởi đầu thành
công với xe gắn máy giá rẻ, Honda tiếp tục sự phát triển của họ bằng những bước
tiến đầu tiên vào thị trường nước ngoài với dòng xe phân khối lớn. Năm 1959
Honda đặt chân vào thị trường Mĩ, đây là một mảnh đất thật sự màu mỡ cho hãng
Honda khi họ có những mẫu xe có doanh số bán chạy nhất. Những chiếc xe cua
Honda hoàn thiện đến nỗi mà sau 25 năm, những chiếc như C50, C70 và C90s
cũng chỉ cần thay thiết kế để chúng có dáng hiện đại hơn còn phần động cơ thì gần
như vẫn giữ nguyên vẹn.
Trong cùng năm 1959, Honda giới thiệu chiếc C72 Dream 250cc tại
Amsterdam. Đó là chiếc xe Nhật đầu tiên được trình diễn tại thị trường châu Âu.
Chiếc xe đã làm bất ngờ khách tham quan bởi những chi tiết mới lạ: khung thép
gia cường, giảm xóc kép phía trước, động cơ nhôm OHC với hệ thống khởi động
điện. Vào thời điểm đó ở Anh, người ta bị giới hạn không được lái xe có dung tích
quá 250cc, vì thế những tay mê xe vẫn muốn được lái những chiếc xe nhanh nhất
trong tầm dung tích được cho phép. Và C72 là một chiếc xe như thế, nó dễ dàng
đạt tốc độ 80mph (130km/h) mà chỉ tiêu thụ 4lít nhiên liệu cho 100km. Ngay từ
ngày mới thành lập, Soichiro Honda đã muốn thương hiệu Honda tham gia vào
những cuộc đua và họ đã có mặt tại hơn 100 giải đua xe trên khắp thế giới. Những
bài học từ việc tạo ra những cỗ máy có hiệu năng cao chính là tiền đề để phát triển
những cải tiến cho dòng xe thương mại sau này.
Năm 1962, Studio Hondells đã ghi âm bản nhạc với tựa đề “Little Honda”,
đây là sự đánh dấu cho việc Honda chính thức đi vào nền văn hóa âm nhạc cũng
như đời sống Mĩ. Cũng thời điểm đó đứa con tốc độ C77 305cc ra đời như một
món quà kỉ niệm. Đây là bản cải tiến tiếp theo, một chiếc xe thể thao thực sự với
công suất tới 28,5 mã lực. Năm 1965, với khao khát luôn muốn chinh phục những
thị trường mới Honda đã chính thức bước chân vào vào thị trường xe phân khối
lớn với sản phẩm đầu tiên là chiếc CB450 với 43 mã lực. Chiếc xe được gắn động
cơ twin, cam đôi DOHC và hệ thống “torsion bar valve springs“ – hệ thống dây trợ
lực giúp van đóng mở tốc độ nhanh. Những cải tiến đó đã giúp chiếc xe dễ dàng
đạt vận tốc 167 km/h. * Tuy nhiên, dù có những thay đổi đáng kể, lượng xe CB450
bán ra trên thị trường vẫn khá thấp.
Ảnh 4 : Xe Honda CB72 Dream 1967 ( Phần phụ lục )
Ảnh 5 : Xe Honda CB350 1968 ( Phần phụ lục)
Rút ra những kinh nghiệm nhất định sau 3 năm kinh doanh, đến năm 1968
thì Honda chính thức dừng sản xuất dòng xe CB72 và CB77 mà thay vào đó là một
thế hệ xe mới: chiếc CB250 và CB350 có vận tốc lên đến 170km/h. Riêng tại thị
trường Tokyo Show năm 1968, sau nhiều tháng chuẩn bị, Honda cho ra đời một
chiếc concept mà từ đó về sau, đã thay đổi hoàn toàn thế giới xe thể thao. Đó là
chiếc xe với động cơ 4 xy-lanh 750cc, với sự xuất hiện lần đầu của phanh đĩa. Và
dĩ nhiên đứa con mang tên CB750K đã ra đời và cũng chính là chiếc xe lớn nhất ở
Nhật Bản khi ấy.
Ảnh 6 : Xe Honda CB750K ( Phần phụ lục )
Tháng 4 năm 1969, Honda thỏa lòng người hâm mộ bằng việc chính thức
sản xuất chiếc CB750F. Với tính năng vận hành hoàn hảo, chiếc xe đã đạt được
vận tốc 192km/h và là tốc độ cao nhất mà một chiếc xe có thể đạt được trên đường
vào thời điểm đó.
Giữa thập kỉ 70, Honda sản xuất loại moped hai kì với tên Amigo. Việc sản
xuất động cơ hai kì loại nhỏ tốn chi phí ít hơn nhiều so với động cơ 4 kì, vì thế,
chiếc Amigo đã mở ra một giai đoạn mới cho những chiếc xe hai kì.
Ảnh 7 : Honda Amigo ( Phần chú thích trang )
Có thể nói từ những năm 60 70 đến nay những chiếc xe Honda đã gần như
hoàn thiện về mặt cấu trúc động cơ. Những phiên bản sau này hay những mẫu xe
mới chủ yếu là cải thiện về thiết kế bên ngoài và những tính năng kỹ thuật hiện
đại, còn sức mạnh động cơ hầu như đều dựa trên những cấu trúc động cơ ban đầu
mà Honda đã hoàn thiện trước đó. Ông Soichiro Honda đã thật sự tạo nên một
huyền thoại từ ước mơ của mình.
Tháng 2/1970, chiếc ATC90. Off-road 3 bánh được ra đời, Honda đã nghiên
cứu một công nghệ mới áp dụng cho các dòng xe 3 bánh gọi là ATC (All Terrain
Vehicle – xe vượt mọi địa hình).
Ảnh 8 : Honda ATC ( Phần chú thích trang )
Giữa thập kỉ 70 cũng là giai đoạn mà Honda liên tục nâng cấp động cơ:
động cơ 500cc-four được cải tiến thành 550cc, 350cc được nâng lên 360cc. Xe vận
hàng bằng động cơ 250cc và 350cc cũng được cải tiến thường xuyên về kiểu dáng.
Năm 1976, họ cho ra mắt hộp số tự động đầu tiên cho chiếc CB750A và
động cơ V-twin 3 van cải tiến trên những chiếc môtô cross CR 250
Cuối thập kỉ 70, Honda giới thiệu mẫu SL 250 đường dài. GL 1000 đã được
coi là chuẩn mực về sự thoái mái, tiện nghi, được trang bị hệ thống dẫn động trục
cùng phanh đĩa và bình xăng gọn gàng 4.8 gallon (so với bình xăng chuẩn 6 gallon
của xe Harley).
Ảnh 9 : GL 1000 Gold Wing ( Phần chú thích trang )
Bước sang thập kỉ 80, Honda đạt được giấy phép sản xuất xe gắn máy với
dung tích lớn tại Hoa Kỳ. Chiếc CBX 1047ccvới 6 xylanh đã được ra đời.
Năm 1982, Honda cho ra mắt động cơ tăng áp đầu tiên cho xe gắn
máy. Honda Shadow – một chiếc xe kết hợp giữa kiểu dáng cổ điển và những
công nghệ tiên tiến nhất như động cơ làm mát bằng nước, dẫn động bằng trục.
Ảnh 10 : Honda Shadow ( Phần chú thích trang )
Trong suốt thập kỉ 90, Honda tiếp tục cuộc chinh phục thế giới bằng những
cải tiến về công nghệ và sự hiểu biết sâu sắc văn hóa thị trường của mình. Soichiro
Honda đã được vinh danh tại Automobile Hall of Fame (một bảo tàng vinh danh
những con người có đóng góp lớn nhất cho nền công nghiệp sản xuất xe) tại Hoa
Kỳ vào tháng 10 năm 1989.
Có thể nói từ những năm 60 70 đến nay những chiếc xe Honda đã gần như
hoàn thiện về mặt cấu trúc động cơ. Những phiên bản sau này hay những mẫu xe
mới chủ yếu là cải thiện về thiết kế bên ngoài và những tính năng kỹ thuật hiện
đại, còn sức mạnh động cơ hầu như đều dựa trên những cấu trúc động cơ ban đầu
mà Honda đã hoàn thiện trước đó. Ông Soichiro Honda đã thật sự tạo nên một
huyền thoại từ ước mơ của mình.
2.2 Khái quát về sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125.
Vào ngày 27 tháng 11 năm 2015, tại thành phố Hồ Chí Minh, Honda Việt
Nam chính thức giới thiệu ra thị trường phiên bản hoàn toàn mới của dòng xe Air
Blade 125.Việc ra mắt Air Blade 125 hoàn toàn mới xuất phát từ mục tiêu “tạo ra
một chiếc xe có thể khiến cho người sử dụng luôn cảm thấy tự hào khi sở hữu”.
Mẫu xe Air Blade 125 mới lần này được nghiên cứu và giới thiệu dành riêng cho
thị trường Việt Nam.
Air Blade nhận được sự quan tâm khá đặc biệt khi ra mắt phiên bản mới
động cơ 125. Các phiên bản trước của dòng xe này đều được đánh giá cao nên
phiên bản mới được quan tâm kĩ hơn.Kể từ khi ra mắt tại thị trường Việt Nam, Air
Blade luôn là dòng xe giữ vị trí số một về lượng xe bán ra của Honda tại Việt Nam
và là một trong những mẫu xe ga bán chạy nhất của thị trường xe máy trong nước.
Với thiết kế thể thao, cao cấp và hiện đại cùng công nghệ mang tính đột phá, khả
năng vận hành ưu việt, Air Blade đã và đang trở thành một thương hiệu xe đáp
đứng được sự mong đợi của lượng lớn khách hàng Việt Nam qua từng phiên bản
cải tiến.
Air Blade thuộc phân khúc xe tay ga tầm trung, mức giá dưới 50 triệu, cũng
là phân khúc sôi động nhất trong làng xe máy Việt Nam. Việc Honda đầu tư mạnh,
từ động cơ tới công nghệ cho Air Blade, khiến chiếc xe có vẻ như sẽ tiếp tục dẫn
đầu phân khúc này trong một thời gian dài nữa, khi chưa có đối thủ xứng tầm.
Ảnh 11 : Xe máy Honda Air Blade 125 Black Edition
2.2.1 Hoạt động của sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125.
Honda Air Blade 125 sử dụng động cơ 125 phân khối mang xuống từ
PCX125 và SH125 nội. Động cơ này mang lại công suất tối đa 11 mã lực và mômen xoắn cực đại đạt 11,2 Nm, mạnh hơn tương đối so với Air Blade đời trước (9
mã lực và 9,5 Nm). Động cơ này được hỗ trợ bởi công nghệ phun xăng điện tử và
làm mát bằng chất lỏng.
Bóp phanh, đề nhẹ, xe nổ máy với âm thanh êm và rung khẽ, Honda cũng
khá chăm chút tới bộ phận đề khởi động của xe.
Ga nhẹ, chiếc xe từ từ lướt đi. Ở vòng tua thấp nhưng xe vẫn khá êm và dễ
dàng điều khiển. Có thể di chuyển với ga nhỏ, tốc độ dưới 10 km/h dễ dàng và
thăng bằng, không giật cục.
Tăng ga mạnh, chiếc xe vọt đi, tăng tốc khá tốt và bốc hơn hẳn so với phiên
bản Air Blade cũ. Chiếc xe tăng tốc rất đều ở các dải tốc độ khác nhau: 0-20, 2040, 40-60 và 60-80 km/h. Nhìn chung, về khả năng tăng tốc, Air Blade mới có thể
tự tin đứng ngang hàng với Nouvo mới của đối thủ Yamaha.
Ga êm, nhẹ, tăng tốc mượt mà, kết hợp với tay lái nhẹ và kích thước ngắn
nên Air Blade 125 hoạt động hiệu quả nhất trong phố. Xe tăng tốc từ 0-80 km/h
trong khoảng 8-10 giây.
Hệ thống Idling Stop hoạt động khá hiệu quả khi không cần tắt máy lúc
dừng đèn đỏ. Động cơ tự ngắt sau 3 giây, đèn báo hiệu nháy đều trên đồng hồ hiển
thị và chỉ cần ga nhẹ là xe tự động khởi động đi tiếp.
Giảm xóc khá êm khi đi chậm qua vật cản ở tốc độ 10-15 km/h. Phanh bên
trái kết hợp cả phanh đĩa phía trước và phanh tang trống phía sau, cho khả năng
giảm tốc ổn định và an toàn hơn.
Phanh bên phải vẫn là phanh đĩa phía trước, cần cẩn thận khi sử dụng.
Phanh giảm tốc từ 60 km/h bằng phanh bên trái, xe giảm tốc nhanh và không có
hiện tượng rê bánh.
Đi một hay hai người, xe đều thể hiện khả năng tăng tốc, giảm tốc tốt. Yên
xe đủ rộng và êm ái cho hai người lớn.
Chạy 100 km trong thành phố, Honda Air Blade tiêu thụ khoảng 2,5 lít xăng,
một con số không quá xuất sắc nhưng khá tốt cho chiếc xe 125 phân khối.
Động cơ được trang bị eSP và tích hợp các công nghệ hàng đầu của Honda,
Air Blade thật sự sẽ khiến người sở hữu sẽ tự hào.
Với thiết kế nhỏ gọn, eSP-động cơ 125cc, 4 kỳ, xy-lanh đơn, làm mát bằng
dung dịch & tích hợp những công nghệ tiên tiến nhất: Hệ thống phun xăng điện tử
PGM-FI, động cơ tích hợp bộ đề ACG, Hệ thống ngắt động cơ tạm thời IdlingStop, công nghệ giảm thiểu ma sát & khả năng đốt cháy hoàn hảo. Air Blade 2015
vốn đã đạt hiệu suất tiêu hao nhiên liệu ấn tượng nay tiếp tục được cải thiện và là
một trong những mẫu xe tiết kiệm nhiên liệu nhất trong cùng phân khúc của
Honda với khả năng tiết kiệm nhiên liệu hơn 4% so với phiên bản Air Blade 2014
(*). Việc nâng cao tính năng tiết kiệm nhiên liệu lần này chính là kết quả của việc
nghiên cứu giảm thiểu hơn nữa ma sát của động cơ và thiết kế xe thon gọn hơn.
(*) Theo số liệu nghiên cứu nội bộ của Honda
Hơn cả một chiếc xe, Air Blade mới chính là trợ lý đắc lực và đáng tin cậy
của người sử dụng trên mỗi hành trình.
2.3 Thẩm mỹ trong thiết kế Xe máy Honda Air Blade 125.
Tính thẩm mỹ của sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125 được thể hiện
trong thiết kế và màu sắc của sản phẩm bởi thiết kế phù hợp với số đông. Trong
khi các đối thủ của Air Blade trên thị trường thường có xu hướng tập trung nhiều
cho một số nhóm đối tượng khách hàng nhất định, thì mẫu xe của Honda lại mang
tính trung hòa, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng hơn. Từ những cậu sinh
viên còn đi học, những người mới đi làm hay những người trung niên đều có cảm
giác phù hợp với thiết kế của Air Blade 125.
Không những vậy, mặc dù được định vị là mẫu xe dành cho nam giới, nhưng
số lượng phụ nữ chạy dòng xe này không phải hiếm. Nhờ thiết kế tiện dụng, Air
Blade có cốp đủ rộng để chị em thoải mái đựng đồ khi đi chợ, nhưng cũng không
hề làm giảm sự nam tính của cánh mày râu. Điều này trái ngược hẳn với đối thủ
Yamaha Nouvo - mẫu xe được đánh giá cao về thiết kế trẻ trung, thời thượng
nhưng chỉ phù hợp với đối tượng nam giới trẻ tuổi.
2.3.1 Thiết kế của sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125
Với ý tưởng chủ đạo trong thiết kế của Air Blade 125cc hướng đến việc tạo
ra chiếc xe tay ga đẳng cấp khác biệt, nhằm thỏa mãn niềm kiêu hãnh của người sử
dụng. Vượt qua những ý tưởng thiết kế quen thuộc về thiết kế, Air Blade 125cc
mới là hiện thân của sự đột phá, hiện đại với diện mạo được trau chuốt hoàn hảo
đến từng chi tiết. Air Blade 125cc mới được thiết kế thon gọn chắc chắn. Điểm
nhấn cho mẫu xe Air Blade 125cc hoàn toàn mới lần này chính là việc hệ thống
chiếu sáng được trang bị hoàn toàn bằng công nghệ LED hiện đại, giúp xe có thiết
kế thon gọn hơn, khả năng chiếu sáng vượt trội và giảm thiểu việc tiêu thụ điện
năng.Hơn nữa, Honda Việt Nam không chỉ đơn thuần áp dụng những công nghệ
mới, tiên tiến mà còn ưu tiên sự kết hợp hài hòa giữa công nghệ và kiểu dáng
Về tổng thể, Air Blade 125cc mới đảm bảo thiết kế vững chắc với diện tích
mặt trước được giảm xuống trong khi phần mặt trước được nâng cao lên. Vì vậy,
khách hàng sẽ cảm thấy thoải mái và dễ dàng khi điều khiển xe đặc biệt trong điều
kiện giao thông đông đúc.
Honda Air Blade 125 vẫn giữ vóc dáng thể thao, gọn gàng và phù hợp cho
cả nam lẫn nữ giới. Đầu và đuôi xe đều khá thon và gọn, thuận tiện cho việc di
chuyển trong thành phố.
Phía trước xe có cụm đèn chiếm diện tích lớn nhưng không khiến đầu xe bị
bè rộng, vẫn đem lại sự cân đối. Đèn trước được trang bị cặp đèn projector thời
trang, thứ mà ít ai nghĩ Honda mạnh dạn mang xuống trang bị cho Air Blade. Có
thể việc đối thủ Yamaha Nouvo trang bị đèn projector khiến Honda không thể ngồi
im sử dụng đèn halogen như cũ được nữa.
Nhựa ốp thân xe cứng chắc, những đường xẻ trên thân xe khiến chiếc xe
lướt gió khá tốt nhờ giảm được sức cản không khí. Đuôi xe gọn gàng và nhỏ ngắn,
với cụm đèn sau khá đơn giản.
Cụm đồng hồ được nâng cấp khá khá, không còn đơn điệu như phiên bản
trước. Trung tâm là đồng hồ đo tốc độ, bên dưới là đồng hồ điện tử hiển thị xăng
và công-tơ-mét. Bên trên là các đèn báo hiệu xi-nhan, đèn pha, đèn báo hệ thống
phun xăng điện tử và đèn báo hệ thống Idling Stop – tự động ngắt động cơ khi đỗ
xe.
Các nút điều khiển bên tay trái không có gì đặc biệt, vẫn gồm có nút xinhan, còi và thay đổi chế độ đèn pha/cốt. Honda Air Blade vẫn thay đổi vị trí giữa
nút còi và xi-nhan để hạn chế người sử dụng xe bấm còi.
Bên phải là nút đề, bật/tắt đèn pha và nút bật/tắt chế độ Idling Stop. Khi nút
ở chế độ “Idling Stop”, xe sẽ tự động ngắt động cơ mỗi khi dừng xe quá 3 giây. Vị
trí “Idling”, xe không tự động ngắt động cơ như các xe máy thông thường.
Honda Air Blade 125 sử dụng phuộc đôi phía trước có hành trình vừa phải,
cùng phanh đĩa đặt ở bên trái. Bánh sau là giảm xóc đôi và phanh tang trống.
Ổ khóa có thiết kế nhiều chức năng với 4 vị trí cho chìa khóa. Vị trí “Off”
tắt máy và rút chìa khóa ra được. Vị trí “On” để mở khóa xe và sẵn sàng khởi
động. Vị trí “Lock” là khóa cổ như các xe máy khác. Vị trí “Opener” là vị trí duy
nhất có thể sử dụng được nút bấm mở yên xe và mở nắp bình xăng.
Bình xăng được thiết kế ngay dưới chân ở phía trước, tiện cho việc đổ xăng
mà không cần xuống xe. Phía dưới yên xe là các vị trí được thiết kế sẵn để gắn các
dụng cụ sửa xe đơn giản, thay vì túi như thường lệ.
Cốp xe được thiết kế khá sâu, đủ để đựng một mũ bảo hiểm loại trùm đầu và
vẫn còn diện tích để thêm đồ đạc phụ kiện khác như túi xách, áo mưa.
Chỗ để chân phía sau không khác mấy so với các phiên bản trước, vẫn gọn
gàng và tiện dụng. Tay cầm phía sau Air Blade mới cũng êm tay và khiến việc dắt,
quay đầu xe dễ dàng và nhẹ nhàng hơn.
2.3.2 Màu sắc của sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125
Sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125 gồm 3 phiên bản và mỗi phiên bản
thì có những cách phối màu khác nhau để tạo nên nét khác biệt cho từng phiên
bản.
1 : Phiên bản Sơn Từ tính Cao cấp
Màu sắc : Vàng đen – Xám đen
2 : Phiên bản Cao cấp
Đen bạc – Xanh bạc – Trắng bạc – Đỏ bạc
3 : Phiên bản Thể thao
Trắng đen – Cam đen – Đỏ đen
Ảnh 12 : Các màu sắc trong thiết kế của sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125
ba phiên bản.
Ở phiên bản Từ tính cao cấp, khách hàng sẽ có thêm nhiều lựa chọn với màu
Xám đen và Vàng đen đầy huyền bí, sang trọng. Trong khi đó, ở phiên bản Thể thao,
Honda Việt Nam có nhũng màu Trắng đen, Cam Đen, Đỏ Đen màu của sự hiện đại,
giúp mang lại vẻ đẳng cấp cho người dùng khi “lướt” xe trên các cung đường. Những
gam màu trung tính này hứa hẹn sẽ thu hút sự yêu thích của không ít khách hàng là
nam giới và những gam màu nóng sẽ làm hài lòng vô số những khách hàng là nữ
giới .
Bằng việc có rất nhiều lựa chọn về màu sắc, Honda Air Blade 125 sẽ thỏa
mãn được thị hiếu số đông của người tiêu dùng Việt Nam về một mẫu xe không
những vận hành tốt mà còn thể hiện được phong cách, tạo niềm vui, niềm tự hào
khi cầm lái.
2.4 Kinh tế trong thiết kế của sản phẩm Xe máy Honda Air Blade 125
Xuất hiện muộn hơn một số mẫu xe tay ga nam tầm trung khác trên thị
trường, tuy nhiên dòng xe Air Blade của Honda lại thu được những thành công
đáng kể, góp phần vào sự tăng trưởng của liên doanh xe máy Nhật Bản tại Việt
Nam. Vậy đâu là lý do khiến Honda Air Blade được ưa chuộng tại dải đất hình chữ
S?
Ra đời sau một số mẫu xe tay ga tầm trung khác trên thị trường cũng có thể
là một lợi thế của Air Blade, bởi khi đó Honda có thời gian nghiên cứu thuộc tính
khách hàng và trang bị cho sản phẩm của mình những tính năng đáp ứng nhu cầu
của người dùng. Kể từ khi được tung ra thị trường vào năm 2007, Honda Air Blade