Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Đề cương môn lý luận về công tác dân vận của đảng trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.33 KB, 39 trang )

ĐỀ CƯƠNG
MÔN LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Câu 1: Phân tích những quan điểm cơ bản của Đảng về công tác Dân vận trong thời kỳ
mới
Câu 2: Phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác Dân vận trong giai đoạn hiện
nay?
Câu 3: Phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận của Nhà nước!
Câu 4: Phân tích chức năng, nhiệm vụ ban dân vận cấp ủy các cấp.

Câu 5: Nêu và phân tích nội dung công tác Dân vận của tổ chức Đảng trong giai đoạn
hiện nay ?
Câu 6:Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ và đoàn thể nhân dân
trong tình hình mới:

TRẢ LỜI
Câu 1:
Thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong suốt quá trình lãnh đạo 86 năm qua (1930 – 2016) gắn liền với sự trưởng thành
của Đảng, công tác dân vận đã trở thành một truyền thống cực kỳ quý báu, tốt đẹp của
Đảng ta. Công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng, có ý nghĩa
chiến lược trong mọi thời kỳ cách mạng, là điều kiện quan trọng bảo đảm giữ vững sự
lãnh đạo của Ðảng ta. Đảng đã vận động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân tạo
nên sức mạnh to lớn, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang trong các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh:“Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
1



Đảng ta đưa ra quan niệm về CTDV: CTDV của Đảng là toàn bộ những hoạt động
của Đảng nhằm tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức
các phong trào nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và để chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện
quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
các khóa đã ban hành nhiều chủ trương về công tác dân vận.
Trong đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (số 25NQ/TW, ngày 3-6-2013) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới.Đảng ta, đã chỉ ra rằng, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, cần quán triệt các quan điểm
sau:
Quan điểm 1, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ.
Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Đó là một sự thật hiển nhiên,
được chứng minh bởi khoa học, có căn cứ lý luận và thực tiễn vững chắc từ các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trong suốt quá trình cách
mạng Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử.
Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân.Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu,
tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Công tác dân vận là nhiệm vụ có
ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

2



Trong nhân dân, đảng viên của Đảng lúc nào cũng là thiểu số, do vậy tất cả công tác
của Đảng đều phải dựa vào nhân dân, tin tưởng ở nhân dân, thu hút trí tuệ của nhân
dân, tôn trọng sức sáng tạo của nhân dân, đồng thời chịu sự giám sát của nhân dân.
Đảng không chỉ phải thấy rõ vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân, mà
vấn đề có ý nghĩa quan trọng hơn đó là còn phải biết chăm lo cái gốc của mình là quần
chúng nhân dân, phải bám rễ trong nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân
dân.
Bất cứ lúc nào, làm gì và ở đâu, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải nhớ chính nhân dân
là người làm nên những thắng lợi lịch sử; “Nâng thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”,
“quan nhất thời, dân vạn đại”.
Bất kỳ ở đâu, trong ý thức cũng như trong hành động của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng
và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuân theo yêu cầu căn bản đó là phải xuất phát
từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân, “những gì có lợi cho dân
thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh”; phải phát huy tối đa quyền
làm chủ của nhân dân, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, nhất là lợi ích trực tiếp
liên quan đến đời sống của nhân dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức
dân... nhằm tạo động lực thúc đẩy phong trào trong nhân dân.
Quán triệt sâu sắc quan điểm: sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, Đảng ta tiếp tục phát huy khả năng to lớn của các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân tạo nên sức mạnh cộng đồng dân tộc, để xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh vì hạnh phúc của nhân dân.
-Quan điểm 2, động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ,
đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi
với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải
đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại
cho dân thì hết sức tránh.
Trong tiến trình tiếp tục đổi mới và phát triển ở nước ta, cần phải nghiên cứu và
giải quyết thỏa đáng những vấn đề kinh tế - xã hội liên quan trực tiếp tới quần chúng

như: quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với đô thị hóa,
3


là phân bổ, tái cơ cấu lực lượng lao động, giải quyết việc làm và không ngừng nâng cao
thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người lao động, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo...
Quán triệt quan điểm này, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao quan điểm vì dân
trong từng chủ trương và chính sách phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng thực hiện
kiềm chế lạm phát hoặc chống suy giảm kinh tế luôn đi đôi với ổn định kinh tế vĩ mô và
bảo đảm an sinh xã hội. Điều đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, củng cố quan
hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Trong xã hội do nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội
gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Công tác
vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công khi Đảng, Nhà nước cùng các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị bảo vệ và đáp ứng trên thực tế những lợi ích thiết
thân của người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi ích, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ
công dân.
Trong xã hội có nhiều giai tầng khác nhau và ngay trong mỗi giai tầng cũng có
nhiều nhóm xã hội khác nhau. Do đó, để tập hợp quần chúng, ngoài các tổ chức chính trị
- xã hội, trong từng giai đoạn cách mạng cần có những hình thức tập hợp quần chúng
phù hợp, đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống của từng nhóm, từng
giai tầng, hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái, giúp nhau
trong cuộc sống, trong sản xuất, kinh doanh để cùng phát triển...
Các tổ chức quần chúng được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự
trang trải về tài chính được tổ chức trong phạm vi địa phương hoặc có quy mô toàn
quốc, không nhất loạt giống nhau, đều được quản lý bằng pháp luật Nhà nước.
- Quan điểm 3, phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với
công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân,

vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân
tin tưởng, noi theo.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là cách thức, phương pháp, bước đi để thực hiện
nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống. Phương thức lãnh đạo của Đảng luôn
4


phải bổ sung, hoàn thiện phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể. Đây cũng là một yêu cầu khách
quan, một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng đảng nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng. Trong đó có nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về
công tác dân vận.
- Quan điểm 4, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt
trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt.
Quan điểm này xác định chủ thể tiến hành công tác dân vận. Bác Hồ đã chỉ rõ: “Tất
cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân
dân, đều phải phụ trách dân vận. Đảng ta chỉ rõ: “Công tác quần chúng không chỉ là
trách nhiệm của các đoàn thể, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị, có sự phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi cán bộ, đảng
viên, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình”.
Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng là một nhiệm vụ quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhằm tuyên truyền, giáo dục,
thuyết phục, tổ chức thực hiện và động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “trọng dân, gần dân, hiểu

dân, học dân và có trách nhiệm với dân” và theo phương châm “tất cả hướng đến quần
chúng nhân dân, phục vụ quần chúng nhân dân”.
Công tác vận động quần chúng không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của
các đoàn thể nhân dân, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị, cần phải thường xuyên phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với nhau dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của
mình.

5


Đây không chỉ là một trong những phương thức cơ bản để đổi mới, phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà còn là phương thức trong cuộc đấu tranh
quyết liệt của các lực lượng cách mạng chống lại các thế lực thù địch trên các lĩnh vực để
vận động và tổ chức nhân dân tự giác đi theo con đường cách mạng, đập tan những âm
mưu và thủ đoạn nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Quan điểm 5, Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính
trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thực
hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa
học, hiệu quả.
Nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng coi
trọng việc tổ chức, tập hợp nhân dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong giai đoạn mới
Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, vì mấy lý do sau:
- Trong giai đoạn mới, cơ cấu giai cấp, dân cư, nghề nghiệp… có sự phát triển mới
cùng với sự phát triển kinh tế thị trường. Do đó nhu cầu lợi ich của xã hội, nhu cầu về tổ
chức cũng rất đa dạng.
- Để nhân lên sức mạnh của nhân dân, để xây dựng cuộc sống mới cần phải có nhiều
hình thức và hoạt động thích ứng.
- Trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác

nhau về hình thức tập hợp.
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân được thể hiện trên các mặt sau đây:
- Đa dạng hóa về mặt tổ chức: Các tổ chức chính trị - xã hội truyền thống gồm: Tổ
chức liên đoàn lao động (Công đoàn), Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ. Các tổ chức mang tính xã hội, nghề nghiệp: Hội luật gia, Hội nhà báo,
Hội chữ thập đỏ, Hội nuôi ong, Hội làm vườn…; Hội nhân đạo từ thiện như Hội người mù,
Hội nạn nhân chất độc màu da cam, Hội bảo vệ người tàn tật và trẻ em mồ côi…; các tổ
chức theo nhu cầu cầu, sở thích như: thể dục, thể thao… đây là các tổ chức tự nguyện của
quần chúng nhằm giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực lao động, nghề nghiệp…đáp ứng các
nhu cầu, sở thích, nhân đạo.
- Đa dạng hóa về mặt hệ thống tổ chức:
6


+ Không nhất thiết đoàn thể nào cũng phải có tổ chức ở 4 cấp, mà tùy theo tình
hình, nhiệm vụ có thể chỉ tổ chức 1 hoặc 2 cấp. Có tổ chức chỉ có ở địa phương này mà
không có ở địa phương khác trong một thời gian nhất định hòan thành một công việc rồi
tự giải thể, cũng có tổ chức chỉ phát triển ở cơ sở như Hội cha mẹ học sinh…
+ Không nhất thiết phải tổ chức thành Hội, đoàn mà tập hợp nhân dân bằng nhiều
hình thức khác như: câu lạc bộ, các loại quỹ, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tương
trợ…
+ Các tổ chức chính trị xã hội cũng phải đa dạng hóa về nhiều hình thức tổ chức và
tập hợp nhằm phát huy vai trò nòng cốt, sáng tạo của các đoàn thể theo nhu cầu, nguyện
vọng của từng đối tượng quần chúng ở cơ sở…
+ Xu hướng chung là sẽ có nhiều tổ chức mới ra đời. Vấn đề đặt ra là ở đâu có sự tập
hợp quần chúng ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.Ở đâu có
sự tập hợp của quần chúng ở đó có sự lãnh đạo của Đảng, tuyệt đối không được buông
lỏng.
Liên hệ thực tiễn: (Tham khảo)
Quán triệt tinh thần đó, những năm qua, CTDV luôn được cấp ủy, chính quyền, ban,

ngành, đoàn thể, địa phương quan tâm đúng mức, với nhiều cách làm hay, sáng tạo và
mang lại hiệu quả thiết thực. Nội dung CTDV có trọng tâm, trọng điểm, hình thức đa
dạng, phong phú, xác định được mô hình phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, bám sát
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và tình hình địa bàn; tích cực làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. CTDV ở biên giới, vùng sâu, vùng xa đã giúp đồng bào các dân tộc thay đổi nếp
sống, cách nghĩ; sống định canh, định cư, xây dựng thôn, bản văn hóa, tích cực tham gia
phòng, chống tội phạm; không sinh hoạt đạo trái pháp luật, tàng trữ vũ khí, buôn bán ma
túy, tái trồng cây thuốc phiện. Thông qua CTDV, đồng bào các dân tộc đã nhận rõ âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”,
“nhân quyền” để chống phá cách mạng nước ta. Đồng thời, tích cực tham gia xây dựng
cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực
quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền, hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể các
7


cấp. Đội ngũ cán bộ dân vận đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương phối hợp
thực hiện tốt công tác quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc,
nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, v.v. Nhờ
làm tốt CTDV, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ được tăng cường; kinh tế - xã
hội tiếp tục phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện và ngày càng khởi sắc;
chính trị, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được củng cố và giữ vững; hoạt
động đối ngoại, hội nhập kinh tế thế giới được đẩy mạnh, vị thế nước ta ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay, CTDV của không ít cấp ủy, chính quyền các cấp vẫn còn những
hạn chế, cần khắc phục. Đó là, việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng về CTDV có lúc chưa kịp thời; chưa dự báo, nắm bắt được những diễn biến,
tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có biện pháp xử lý phù hợp. Việc thể
chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về CTDV còn chậm; công tác kiểm tra, sơ kết,

tổng kết thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTDV chưa được quan tâm đúng
mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc
chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc
của nhân dân. Phương pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối
tượng, đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, người theo đạo. Việc
chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm CTDV chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phân
hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xâm phạm quyền
làm chủ của nhân dân là thách thức không nhỏ đối với CTDV và mối quan hệ máu thịt
giữa nhân dân với Đảng.
Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, có nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải giải quyết cả trước mắt và lâu dài,
cả thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn. Các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ chiến
lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta, với âm mưu thâm độc là chia
rẽ Đảng với nhân dân, Đảng với Quân đội và Công an. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải

8


tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV phù hợp với yêu cầu của thực tiễn;
tập trung vào những giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục triển khai các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng và quán triệt các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTDV. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân là nguồn gốc tạo nên sức mạnh để giành thắng lợi trong mỗi giai đoạn của cách
mạng; đồng thời, cũng là mục tiêu hướng tới của CTDV. Vì vậy, trong tình hình hiện nay,
thực hiện nghiêm túc các nội dung, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình, tăng cường đoàn kết, thống nhất, gắn bó với nhân dân, cơ sở, ngăn
chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, gắn với tiếp

tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ thiết thực góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, củng cố lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Cùng với đó, các cấp ủy cần tiếp tục tổ chức học
tập, nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà
nước về CTDV, như: Nghị quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với CTDV trong tình hình mới, Quyết định
290 của Bộ Chính trị về Quy chế CTDV của hệ thống chính trị, Chỉ thị 18 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường CTDV, Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị về việc ban hành
Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính
trị - xã hội và về tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền đến toàn thể cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và người lao động. Trên cơ sở đó,
từng địa phương, ngành, lĩnh vực có nghị quyết, kế hoạch, chương trình CTDV phù hợp
với đặc điểm, tính chất nhiệm vụ; đề ra mục tiêu, yêu cầu đạt được, sao cho vừa đáp ứng
sự phát triển của tình hình, vừa tạo sự đồng bộ trong triển khai thực hiện.
Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cấp
ủy, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp đối với CTDV.Trong đó, lấy chi bộ làm
trọng tâm để chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng phải
bám sát nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, sâu sát đến từng địa bàn, cơ sở; thấy
được những thuận lợi, khó khăn cùng tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc của người
dân để có giải pháp lãnh đạo phù hợp, tính khả thi cao. Đồng thời, phải phát huy tinh
9


thần trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo CTDV; coi đó là nhiệm vụ chính trị trọng tâm,
yêu cầu về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ cơ
sở. Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội
đưa nội dung CTDV vào chương trình, kế hoạch công tác hằng tháng, quý, năm; chỉ đạo
các đoàn thể tổ chức phong trào thi đua yêu nước và tuyên dương tập thể, cá nhân có
thành tích về CTDV. Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức
xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến

đời sống, việc làm, đền bù, thu hồi đất đai, tệ nạn xã hội,… theo nguyên tắc: mọi chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Ba là, tăng cường đổi mới CTDV của các cơ quan nhà nước. Tiếp tục thể chế hóa
quan điểm, chủ trương mới của Đảng về CTDV thành văn bản pháp luật để các cấp chính
quyền, cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân thực hiện. Các cấp chính quyền phải
thường xuyên lắng nghe những đề xuất, kiến nghị từ các đoàn thể về xây dựng nội dung
và phương thức hoạt động của CTDV trong tình hình mới; đẩy mạnh thực hiện Quy chế
phối hợp trong tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương của
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; tích cực
tham gia quản lý việc thực hiện nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước, chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, v.v. Đổi mới nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri, lắng
nghe các ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội; gắn CTDV với thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở để khơi dậy và động viên tinh thần,
trí tuệ, vật chất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân hiểu
và giám sát hoạt động của chính quyền, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt
động quản lý nhà nước. Xây dựng và thực hiện phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Các
cơ quan nhà nước, nhất là những ngành, đơn vị có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần
công khai các quy định cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công
chức, viên chức để nhân dân biết và giám sát, kiểm tra việc thực hiện; đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với
10


nhân dân và giải quyết kịp thời đơn, thư khiếu tố của dân; làm tốt công tác thanh tra
nhân dân và hòa giải ở cơ sở; chủ động nắm tình hình, giải quyết có hiệu quả những
công việc liên quan đến đời sống của nhân dân.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung,

phương thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính
đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân,
hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở. Nội dung tuyên truyền phải phù hợp với trình độ
dân trí và đặc điểm của từng giai tầng xã hội, trong từng giai đoạn cách mạng. Đẩy
mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với “đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội phát động. Thông qua hoạt động thực tiễn, các cấp cần làm tốt công tác
tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương “người tốt,
việc tốt” trên mọi lĩnh vực; phát huy tinh thần yêu nước, thực hành dân chủ, tạo ra
phong trào hành động cách mạng sâu rộng của toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước. Thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt các quan điểm,
giải pháp về CTDV của Đảng để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao trình độ, kiến thức, năng
lực CTDV. Đồng thời, tích cực phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động nhân dân cho
những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, tạo điều kiện để họ tham gia việc tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự lan
tỏa, sức sống của CTDV trong tình hình mới.
Năm là, triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp về CTDV giữa
Ban Dân vận Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, nhằm nâng cao hiệu quả CTDV
trong các lực lượng này, góp phần củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; nâng cao vị
thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, thực hiện thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chủ động đấu tranh với các luận
điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là ở vùng
biên giới cùng với lực lượng Công an, Quân đội cần chú trọng công tác vận động, phát
động quần chúng nhân dân, nêu cao ý thức cảnh giác, tích cực xây dựng “thế trận quốc
11


phòng toàn dân”, “thế trận an ninh nhân dân”, “Toàn dân tham gia phòng, chống tội

phạm”, “Thanh niên vì cuộc sống bình yên, vì chủ quyền Tổ quốc”, “Khu dân cư, cơ quan,
doanh nghiệp, trường học an toàn không có tội phạm và tệ nạn xã hội”. Đặc biệt, cần
phải thực hiện tốt CTDV ở các địa bàn trọng điểm, như: Tây Bắc, Tây Nam bộ, Tây
Nguyên; huy động sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa
bình”, ngăn chặn các loại tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để
phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
Sáu là, quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận, mặt
trận, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp vững mạnh. Theo đó, phải chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là cán bộ dân vận tham mưu chiến lược; có cơ chế, chính sách thu hút
người có năng lực, uy tín, kinh nghiệm thực hiện CTDV ở các cấp; chú trọng luân chuyển,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm CTDV, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có
năng lực; khắc phục tình trạng bố trí cán bộ phẩm chất, năng lực yếu kém và không có
uy tín làm CTDV. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng
công tác vận động nhân dân.
Bảy là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện CTDV. Các tổ chức
đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ
quá trình triển khai thực hiện và thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về
CTDV. Đồng thời, quan tâm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp kịp thời
những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là về xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; từ đó, tham mưu với cấp ủy ban hành
các chủ trương, chính sách phù hợp, nâng cao hiệu quả CTDV trong tình hình mới.
Thực hiện đồng bộ những giải pháp trên đây là một bảo đảm quan trọng để đổi mới,
nâng cao hiệu quả CTDV, đáp ứng yêu cầu tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, tạo sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
trong tình hình mới.
Câu 2: Phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác Dân vận trong giai
đoạn hiện nay?
12



Công tác dân vận là một mặt công tác cơ bản của Đảng, nhân tố quan trọng góp
phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế trận lòng
dân” vững chắc. Trước yêu cầu mới của tình hình, nhiệm vụ, công tác dân vận cần tiếp
tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, xứng đáng là cầu nối giữa “ý Đảng” với “lòng
dân”, phát huy sức dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Hồ Chí Minh: Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân,
không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những
công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho.
Khái niệm: Công tác dân vận là toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị nhằm
tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức các phong trào
nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và để chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận
- Công tác dân vận góp phần quan trọng trong việc phát huy vai trò to lớn
và sự sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng
Sức mạnh của nhân dân là vô cùng to lớn nhưng nó chỉ được phát huy khi nhân
dân được tập hợp trong một khối thống nhất.
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử nhưng sự sáng tạo chỉ được phát huy khi
được động viên, quan tâm, khích lệ
Công tác Dân vận của Đảng luôn đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng, kể cả trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Điều này cho thấy vì sao Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất coi trọng công tác Dân vận: "Việc Dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc
gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công".
Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong điều kiện hội nhập quốc tế càng đòi hỏi
phải phát huy cao độ khối đoàn kết và sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của
thời đại, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện thành công công cuộc

13


đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và thực tế, trong mỗi giai đoạn lịch sử
cách mạng, CTDV có phương thức, nội dung khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu vận
động tất cả các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia vào các phong trào cách mạng, thi
đua yêu nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố và tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
- Góp phần quyết định thắng lợi việc thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước của cấp ủy đảng và chính quyền địa
phương.
Công tác dân vận góp phần quan trọng làm cho nhân dân hiểu được đường lối, chủ
trương, chính sách, trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân, tạo sự đồng thuận giữa nhân
dân với Đảng, chính quyền
Công tác dân vận góp phần quan trọng trong việc tập hợp lực lượng để thực hiện
đường lối chủ trương, chính sách nghị quyết của Đảng, NN
Công tác dân vận góp phần phát hiện những thiếu sót, khuyết điểm trong đường
lối chủ trương, chính sách để kịp thời bổ xung, điều chỉnh cho phù hợp nguyện vọng của
nhân dân
Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tức là tuyên truyền, giáo dục, vận động,
thuyết phục mọi người dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Dân vận còn có nghĩa là làm gương trước dân. Mục tiêu cao
nhất của công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là vì dân. Do đó, mọi hành
động của chúng ta phải vì dân và mang lại hiệu quả thiết thực cho dân.
Công tác dân vận được xem là công việc và là nhiệm vụ chính trị của các tổ chức
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội. Do đó cần phải làm tròn trách nhiệm
trước Đảng và nhân dân. Ví dụ: Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng
nhân dân thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, đạo đức, lối sống văn hóa, văn minh, tác
phong làm việc gương mẫu của cán bộ, công chức, viên chức; thường xuyên học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI
chỉ rõ: “Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở phải nắm vững và làm đúng chức
năng lãnh đạo của mình bằng phương pháp dân chủ, kiên quyết khắc phục tình trạng
14


bao biện làm thay công việc của Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng”. Công tác dân
vận trong thời kỳ đổi mới là công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi
người dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.
- Góp phần quan trọng trong công tác xây dựng đảng, bảo vệ đảng, chính
quyền, bảo vệ cán bộ, đảng viên
Thông qua phong trào cách mạng của nhân dân để phát hiện nhân tố mới, những
người ưu tú cung cấp cho Đảng, Chính quyền, để sàng lọc cán bộ, đảng viên. Chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ dân vận tham mưu chiến lược; có cơ chế, chính sách
thu hút người có năng lực, uy tín, kinh nghiệm thực hiện CTDV ở các cấp; chú trọng luân
chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm CTDV, nhất là cán bộ trẻ
tuổi, có năng lực; khắc phục tình trạng bố trí cán bộ phẩm chất, năng lực yếu kém và
không có uy tín làm CTDV. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và
kỹ năng công tác vận động nhân dân.
Thông qua góp ý, phản biện của nhân dân để hoàn chỉnh đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước
Thông qua giám sát của nhân dân để quản lý cán bộ, đảng viên, để phát hiện các
tiêu cực trong bộ máy đảng, chính quyền
- Góp phần tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với Nhân dân, củng
cố lòng tin của nhân dân với đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ ổn định chính
trị xã hội của đất nước và mỗi địa phương.
Thông qua công tác dân vận, Đảng hiểu rõ hơn, nắm chắc hơn tình hình nhân dân.
Thông qua công tác tuyên truyền, nhân dân hiểu hơn đường lối, chủ trương, bản

chất, mục tiêu của Đảng, củng cố lòng tin vào chế độ
Thông qua công tác dân vận để giải tỏa những bức xúc trong nhân dân, góp phần
giữ vững ổn định chính trị - xã hội
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân được biểu hiện hằng ngày qua hoạt động của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị với nhân dân. Khắc phục
tình trạng "khoán trắng" cho đoàn thể hoặc cán bộ, cấp uỷ viên chuyên trách công tác
dân vận. Sự phối hợp hiệu quả giữa cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong
15


công tác dân vận là yếu tố quan trọng quyết định việc tập hợp mọi lực lượng, đoàn kết
toàn dân, tạo thành phong trào cách mạng quần chúng rộng lớn, đưa sự nghiệp đổi mới
đến thắng lợi.
Liên hệ: (Tham khảo)
Theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng thì một trong những nhiệm vụ quan trọng về
xây dựng Đảng trong điều kiện hiện nay là “tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác
dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Theo đó, nghị quyết
đưa ra mục tiêu rất rõ của công tác dân vận: “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của
nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân
dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với công tác
dân vận. Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận được các cấp ủy tiếp tục
triển khai tổ chức thực hiện sâu rộng và đi vào đời sống xã hội, gắn với việc ban hành các
chủ trương, nghị quyết, đề án về đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận
động quần chúng; nâng cao chất lượng công tác tôn giáo, tín ngưỡng...
Công tác dân vận của các cấp chính quyền, các sở, ngành, lực lượng vũ trang đang
thực sự có nhiều chuyển biến, chú trọng thực hành công tác dân vận trong triển khai

thực hiện nhiệm vụ, đẩy mạnh thực hiện QCDC ở cơ sở trong công tác tiếp dân và giải
quyết các ý kiến kiến nghị, đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân, tăng cường tổ chức
đối thoại, tiếp xúc với nhân dân; qua đó hạn chế được tình trạng đơn thư khiếu nại, tố
cáo đông người, vượt cấp. MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh việc đổi mới nội
dung, phương thức vận động, ngày càng thu hút nhiều quần chúng tham gia vào tổ chức;
tích cực phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội; bám cơ sở, bám địa bàn, lắng nghe
tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; kịp thời phản ánh những vấn đề liên
quan tới lợi ích chính đáng của nhân dân và tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực
tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng - an ninh.
16


Với vai trò là cơ quan tham mưu trực tiếp cho cấp ủy về công tác dân vận, phát
huy vai trò tham mưu, bám sát cơ sở, nắm bắt tình hình nhân dân, dân tộc, tôn giáo để
có những nghiên cứu, đề xuất, tham mưu với cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực
hiện toàn diện, hiệu quả các mặt của công tác dân vận. Trong đó, đã tập trung tham mưu
lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tiếp tục triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu
quả Nghị quyết số 25-NQ/TW (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Quyết định 290-QĐ/TW của Bộ
Chính trị (khóa X) và Quyết định 150-QĐ/TU của Tỉnh ủy về Quy chế công tác dân vận
của hệ thống chính trị; các Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Quy chế
giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội”, “Quy định về
cơ chế để MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền”.
Đồng thời, tham mưu kịp thời việc sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, kết luận
của Trung ương, của tỉnh về công tác dân vận, tôn giáo. Thông qua đó đã tiếp tục nâng
cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội về vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của công tác dân vận. Kịp thời rút ra bài học kinh nghiệm, đề ra
những nhiệm vụ, giải pháp sát thực tiễn nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nghị

quyết, chỉ thị về công tác vận động quần chúng trong thời gian tới; QCDC ở cơ sở được
quan tâm, chỉ đạo và thực hiện tốt hơn, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về
QCDC ở cơ sở được nâng lên; việc thực hiện QCDC ở các loại hình cơ sở, nhất là ở loại
hình xã, phường, thị trấn có nhiều chuyển biến tích cực, huy động được nội lực từ trong
dân để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội. Quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy và có
chuyển biến tích cực, đặc biệt là về vai trò giám sát của nhân dân trong việc thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại các địa phương, đơn vị.
Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, công tác dân vận đã được triển khai phối
hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng, các cấp, các ngành. Các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án của tỉnh đã được
phổ biến, quán triệt đến người dân, góp phần phát huy dân chủ theo phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Qua đó, hệ thống dân vận tỉnh cũng chủ động
17


trong công tác tham mưu cho cấp ủy giải quyết những vấn đề trọng tâm, phức tạp, bức
xúc như: giải phóng mặt bằng thực hiện các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh. Đặc
biệt năm 2015, lực lượng làm công tác dân vận đã phối hợp thực hiện tốt Chỉ thị 36CT/TW ngày 30/5/2015 của Bộ Chính trị và các văn bản hướng dẫn của Trung ương,
của Tỉnh ủy về tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng; phát huy tinh thần dân chủ, lắng nghe và phản ánh kịp thời tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân với cấp ủy đảng, chính quyền, làm tốt công tác tổng hợp các ý
kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân vào dự
thảo văn kiện đại hội đảng các cấp; tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, nhất là
phong trào thi đua “Dân vận khéo” đem lại nhiều lợi ích thiết thực trên các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh.

Thực hiện công tác dân vận đã góp phần xây dựng tổ chức đảng và chính quyền
vững mạnh; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò và quyền làm chủ của nhân dân, tạo được
sự đồng thuận, tin tưởng của nhân dân, phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết các

dân tộc, góp phần ổn định tình hình nhân dân, dân tộc, tôn giáo, tạo động lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt đã
góp phần tổ chức thành công đại hội đảng từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, nhiệm kỳ 20152020.

Câu 3: Phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận của
Nhà nước!
Câu 3: Phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận của Nhà
nước
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm
vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng

18


bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan
trọng của phương thức lãnh đạo và yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với công tác dân vận của Nhà nước về hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức
lãnh đạo và đã mang lại những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo
của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò của Nhà nước trong công tác dân vận.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh:“Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người
dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những
công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
Đảng ta đưa ra quan niệm về CTDV: CTDV của Đảng là toàn bộ những hoạt động của
Đảng nhằm tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức các
phong trào nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và để chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, đưa ra Nghị quyết số 25NQ/TW, ngày 3-6-2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới. Đảng ta, đã chỉ ra rằng, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, đã đưa ra những nhiệm vụ và giải pháp
để tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, cụ thể:
- Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về dân vận thành các văn bản
pháp luật để các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp
nhân dân thực hiện. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối
với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ,
cựu chiến binh, người cao tuổi. Ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào
định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc,
hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước; góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị
giữa nhân dân ta với nhân dân các nước
- Cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm vận động nhân dân. Xây dựng và
thực hiện phong cách: "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân",
"nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; thường xuyên đi công tác cơ sở. Các cơ quan nhà
19


nước, nhất là những ngành, cơ quan, đơn vị có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần công khai
các quy định cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên
chức để nhân dân biết và giám sát, kiểm tra việc thực hiện. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, đổi mới lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết
kịp thời đơn, thư khiếu tố của dân. Làm tốt công tác thanh tra nhân dân, công tác hòa giải ở
cơ sở; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; chủ động nắm tình hình và giải quyết những công
việc liên quan đến đời sống của nhân dân.
- Chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết tốt các chính sách đối với người nghèo,
người khuyết tật và các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở các vùng đồng bào
dân tộc ít người, để các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Liên hệ thực tế tại Bình Định:
Ngày 27/7/2016, UBND tỉnh ban hành Văn bản số 3090/UBND-NC về việc triển khai

thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh.
Để triển khai thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính
quyền các cấp trong tình hình mới; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh yêu cầu Thủ trưởng các
sở, ban, ngành và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố tổ chức quán triệt,
tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của cơ quan,
đơn vị nội dung Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 15/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ; chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận bằng
nhiều hình thức, phù hợp với đặc thù của từng cơ quan, đơn vị; xây dựng chương trình, kế
hoạch và tổ chức thực hiện công tác dân vận gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn;
đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ, công chức, viên chức trong các
cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt phong trào thi đua "Dân vận khéo" gắn với việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác dân vận
trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp. Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt
và thực hiện tốt Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về
20


“Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới”; Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế công tác dân
vận của hệ thống chính trị; Kết luận số 114-KL/TW ngày 14/7/2015 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (Khóa XI) về nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các
cấp; Công văn số 1092-CV/TU ngày 29/9/2015 của Tỉnh ủy về việc nâng cao hiệu quả công
tác dân vận của cơ quan nhà nước các cấp, Công văn số 6314/UBND-NC ngày 31/12/2015
của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc triển khai thực hiện Công văn số 1092-CV/TU ngày
29/9/2015 của Tỉnh ủy Bình Định và các văn bản liên quan về công tác dân vận chính
quyền.
Đẩy mạnh thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý, điều
hành; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tác phong, lề lối làm việc; tăng cường giáo dục
đạo đức công vụ, nâng cao tinh thần, trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân của đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức; tập trung giải quyết kịp thời những bức xúc, kiến nghị của nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, vì nhân dân phục vụ; tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra công vụ, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên chức có hành vi cửa quyền,
tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà cho nhân dân.Triển khai thực hiện tốt Pháp lệnh số
34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của
Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn
vị sự nghiệp công lập; Chỉ thị số 13/CT-UBND ngày 29/7/2015 và Kế hoạch số 37/KHUBND ngày 07/9/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về triển khai thực hiện Nghị định số
04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành
Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020; Chỉ thị số 13/CT-TTg
ngày 10/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong công tác cải cách thủ tục hành chính; Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính
của Ủy ban nhân dân tỉnh; ưu tiên cải cách hành chính nhằm cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công; tạo bước chuyển biến mạnh mẽ
21


về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước.
Thường xuyên phối hợp với Ban Dân vận của cấp ủy cùng cấp, chỉ đạo, kiểm tra việc
thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở và công tác dân vận chính quyền;
phối hợp và tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cùng
cấp tham gia giám sát, phản biện xã hội theo Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số
218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành "Quy chế giám sát và phản biện
xã hội", "Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền". Hàng năm, các sở, ban, ngành
và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố đánh giá kết quả thực hiện công tác dân

vận của cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp gửi Ủy ban nhân dân tỉnh (qua
Sở Nội vụ) trước ngày 30 tháng 11 để tổng hợp báo cáo Bộ Nội vụ.
Giao Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra việc thực
hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở và công tác dân vận của chính quyền các
cấp; đề xuất hình thức biểu dương, khen thưởng đối với những tập thể và cá nhân triển khai
thực hiện tốt; đồng thời, đề xuất hình thức xử lý trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân thực
hiện không nghiêm túc, kém hiệu quả công tác dân vận chính quyền và chức trách, nhiệm vụ
được giao.
Câu 4: Phân tích chức năng, nhiệm vụ ban dân vận cấp ủy các cấp.
Công tác dân vận có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là cương lĩnh của Đảng về công
tác dân vận. Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều có các nghị quyết chuyên đề về dân
vận như nghị quyết về đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, tôn giáo, về công
nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, doanh nhân, người Việt Nam ở
nước ngoài… để định hướng lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận.
Trong hệ thống các ban chuyên môn của Trung ương Đảng, các cấp ủy đảng, Ban dân
vận có vai trò, vị trí quan trọng và được xác định là ban xây dựng Đảng để tham mưu Trung
ương, cấp ủy các cấp về công tác dân vận của Đảng.
I- BAN DÂN VẬN TRUNG ƯƠNG
22


1- Chức năng
Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực
tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương chính sách và giải pháp lớn
về công tác dân vận.
2- Nhiệm vụ
2.1- Nghiên cứu, đề xuất:
Chủ trì hoặc tham gia, phối hợp nghiên cứu, tham mưu, đề xuất chủ trương, chính
sách về công tác dân vận của Đảng (bao gồm: công tác mặt trận, các đoàn thể nhân dân;

công tác dân tộc; công tác tôn giáo; công tác vận động các giai cấp, các tầng lớp nhân dân
và người Việt Nam ở nước ngoài); chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị nghị quyết đại hội, các
nghị quyết, chỉ thị, quyết định thuộc lĩnh vực nêu trên của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư.
Tham gia ý kiến với các cơ quan nhà nước trong việc thể chế hoá các nghị quyết, chỉ
thị, quyết định của Đảng về công tác dân vận; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, tổng hợp tình hình nhân dân (tình hình
dân tộc, tôn giáo, các giai tầng xã hội, các vấn đề bức xúc trong nhân dân) để báo cáo và
tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
2.2- Thẩm định:
Thẩm định các đề án về công tác dân vận của các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân ở Trung ương trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Tham gia thẩm định những đề án thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại có liên quan mật thiết đến công tác dân vận.
2.3- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát:
Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện và sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ
thị, quyết định của Đảng về công tác dân vận đối với các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng,
ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương.
Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ công tác dân vận và phối hợp với các cơ quan
liên quan bồi dưỡng nghiệp vụ công tác dân vận đối với đội ngũ cán bộ phụ trách công tác
dân vận của các cấp uỷ trực thuộc Trung ương.
23


Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy ban dân vận các cấp.
2.4- Tham gia công tác xây dựng đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong khối dân vận
Trung ương và ban dân vận các cấp uỷ đang trực thuộc Trung ương:
Tham gia với các tỉnh uỷ, thành uỷ và đảng uỷ trực thuộc Trung ương về phương
hướng, nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng.

Phối hợp, tham gia với Ban Tổ chức Trung ương về công tác cán bộ trong khối dân
vận Trung ương theo phân cấp quản lý. Tham gia ý kiến về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, miễn nhiệm, kỷ luật đối với đội ngũ cán bộ
dân vận theo danh mục phân cấp quản lý của Trung ương.
2.5- Thực hiện một số nhiệm vụ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao:
Thực hiện nhiệm vụ là cơ quan thường trực Hội đồng công tác quần chúng Trung
ương và cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Thực hiện những công việc khác do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao.
II- BAN DÂN VẬN TỈNH ỦY
1- Chức năng
Là cơ quan tham mưu của tỉnh uỷ mà trực tiếp, thường xuyên là ban thường vụ và
thường trực tỉnh uỷ về công tác dân vận (bao gồm cả công tác dân tộc, tôn giáo).
2- Nhiệm vụ
2.1- Nghiên cứu, đề xuất:
Những chủ trương, giải pháp về công tác dân vận của tỉnh uỷ và ban thường vụ tỉnh
uỷ. Chủ trì hoặc giam gia chuẩn bị nghị quyết đại hội, các nghị quyết, quyết định, chỉ thị,
quy định, quy chế, chương trình công tác dân vận của tỉnh uỷ, ban thường vụ tỉnh uỷ.
Tham mưu cho tỉnh uỷ, ban thường vụ tỉnh uỷ cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công
tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Theo dõi, tổng hợp tình hình nhân dân (bao gồm cả tình hình dân tộc, tôn giáo, các
giai tầng xã hội, các vấn đề bức xúc trong nhân dân) để báo cáo và tham mưu với tỉnh uỷ,
ban thường vụ tỉnh uỷ.
24


Sơ kết, tổng kết về công tác dân vận.
2.2- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát:
Việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, quyết định, chỉ trị, quy định, quy chế, kết

luận của Đảng về công tác dân vận.
Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể nhân dân nắm tình hình tư tưởng, tâm
trạng, nguyện vọng trong nhân dân và phong trào quần chúng để kịp thời báo cáo, tham
mưu cho cấp uỷ lãnh đạo tốt công tác dân vận và xử lý những vấn đề mới phát sinh.
Hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác dân vận cho cấp uỷ và cán
bộ làm công tác dân vận của các cấp trong đảng bộ tỉnh.
Tham gia ý kiến với các cơ quan chính quyền trong việc thể chế hoá nghị quyết,
quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng về công tác dân vận; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
2.3- Phối hợp:
Với ban tổ chức tỉnh uỷ trong việc quản lý tổ chức bộ máy, biên chế và việc thực hiện
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của ban dân vận
tỉnh uỷ. Tham gia ý kiến về công tác cán bộ đối với đội ngũ cán bộ trong khối và cán bộ dân
vận cấp uỷ trực thuộc theo phân cấp quản lý.
Chủ trì, phối hợp với các ban, ngành liên quan trong các hoạt động chung về công tác
dân vận; công tác nghiên cứu, kiểm tra, đào tạo, bồi dưỡng, thông tin... về công tác dân vận
ở địa phương.
Với Mặt trận Tổ quốc tỉnh để vận động nhân sĩ, trí thức, người có uy tín trong đồng
bào các dân tộc thiểu số và chức sắc trong tôn giáo.
Với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và hội quần chúng cấp tỉnh
tham gia công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
2.4. Thẩm định, thẩm tra:
Các đề án, văn bản về công tác dân vận trước khi trình tỉnh uỷ, ban thường vụ tỉnh
uỷ.
Tham gia thẩm định các đề án, dự án thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc
phòng, an ninh... có liên quan mật thiết đến công tác dân vận; các đề án, dự án có liên quan
25



×