Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG và các HÌNH THỨC CHỦ yếu của nền KINH tế đối NGOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.64 KB, 16 trang )

Chủ Đề
PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG VÀ CÁC HÌNH THỨC CHỦ YẾU CỦA NỀN
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

I.

Một số khái niệm và sơ lược về kinh tế đối ngoại:
1. Thế nào là nền kinh tế đối ngoại ?
Kinh tế đối ngoại là tổng thể các hoạt động, các quan hệ kinh
tế,
tài chính, khoa học kỹ thuật và công nghệ của một nước với
bên
ngoài; qua đó một nước tham gia vào phân công lao động

2.

3.

4.

quốc tế và
trao đổi mậu dịch quốc tế.
Phân công lao động quốc tế ?
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc
sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch
vụ vào một quốc gia nhất định dựa trên những cơ sở ưu thế
của quốc giia đó về điều kiên tự nhiên, khoa học – công
nghệ, lao động… để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia khác
thông qua trao đổi quốc tế. Như vậy, kinh tế đối ngoại là một
bộ phận rất quan trọng của nền knh tế quốc dân, nó bao
gồm nhiều ngành kinh tế. Khi quốc gia thực hiện chính sách


“ mở cửa ” kinh tế thì hầu như toàn bộ các ngành, các lĩnh
vực kinh tế đều tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại.
Lĩnh vực hoạt động ?
Kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động của
nền kinh tế như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển
giao công nghệ quốc tế,
các dịch vụ có thu ngoại tệ như
du lịch quốc tế, vận tai quốc tế, tài chính, bảo hiểm…Ngày
nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới, xu thế hội
nhập mạnh mẽ vào kinh tế thế giới và khu vực thì quan hệ
kinh tế đối ngoại giữa các nước ngày càng được mở rộng và
đa dạng.
Cơ sở:


Hoạt động kinh tế đối ngoại xuất hiện và phát triển dựa
trên các cơ sở sau:
Một là, Sự hình thành và phát triển của thị trường quốc
tế. Hoạt động kinh tế là cơ sở của sự tồn tại và phát triển
của con người và xã hội loài người. Trong qúa trình phát
triển của mình, nhu cầu của con người ngày càng nảy sinh.
Để thỏa mãn nhu cầu của mình, lao động sản xuất của con
người cũng ngày càng phát triển và sản phẩm lao động làm
ra cũng ngày càng dồi dào hơn và dư thừa hơn. Con người
bắt đầu trao đổi sản phẩm cho nhau, kinh tế hàng hóa ra đời
và ngày càng phát triển, thị trường cũng xuất hiện và ngày
càng mở rộng. Sự ra đời các quốc gia độc lập dẫn đến hình
thành các thị trường độc lập thống nhất. Do sự khác nhau về
điều kiện tự nhiên, sự phát triển của sản xuất ở các quốc gia
khác nhau nên nhu cầu của thị trường một quốc gia không

được thỏa mãn bởi sản xuất trong nước đó. Điều này dẫn
đến các quốc gia phải có mối quan hệ với nhau mới có thể
có đủ các điều kiện thỏa mãn nhu cầu của quốc gia mình.
Các quan hệ kinh tế quốc tế bắt đầu hình thành.
Ban đầu các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia chủ
yếu dựa trên sự khác biệt về điều kiện tự nhiên. Các quốc
gia cung cấp cho nhau các nguyên liệu, những sản phẩm
riêng biệt, đặc thù mà họ có được do các điều kiện khoáng
sản, khí hậu, đất đai mang lại. Về sau, do tác động của quá
trình phát triển lực lượng sản xuất và sự phân công lao động
đã làm nảy sinh những sự khác biệt về trình độ công nghệ,
kỹ thuật, quản lý dẫn đến có sự chênh lệch về năng suất lao
động và giá thành sản phẩm làm suất hiện những lợi thế mới
cho mỗi quốc gia và các quốc gia đã tận dụng lợi thế của
mình để đẩy mạnh việc sản xuất và mua bán, trao đổi sản
phẩm và dịch vụ trên thị trường quốc tế. Các quan hệ kinh tế
cũng diễn ra ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
Hai là, phân công lao động quốc tế là cơ sở của sự phát
triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Phân công lao động
quốc tế là qúa trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một
hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ vào một quốc gia nhất
định dựa trên những ưu thế của quốc gia đó về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, khoa học, công nghệ và xã hội để đáp ứng
nhu cầu của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế.


Việc phân công lao động quốc tế dẫn đến việc chuyên
môn hóa và hợp tác hóa quốc tế trong từng quốc gia và giữa
các quốc gia với nhau. Việc chuyên môn hóa diễn ra theo
các hướng chuyên môn hóa khác nhau: giữa các ngành,

theo tứng sản phẩm và theo dây chuyền công nghệ.
Trong lịch sử phân công lao động xã hội có các giai
đoạn phát triển sau:
Đại phân công lao động làn thứ nhất diễn ra khi chăn
nuôi tách khỏi trồng trọt. Đây cũng là mầm mống cho sự xuất
hiện của trao đổi hàng hóa và kinh tế hàng hóa.
Đại phân công lao động làn thứ hai diễn ra khi thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiêp trở thành một ngành độc lập.
Thủ công nghiệp là mầm mống của công nghiệp sau này.
Với sự phân công này, trình độ chuyên môn hóa sản xuất đã
trở nên sâu sắc hơn cùng với sự xuất hiện của tiền tệ đã làm
thúc đẩy trao đổi hàng hóa và nền kinh tế hàng hóa phát
triển hơn nữa.
Đại phân công lao động lần thứ ba đánh dấu bởi sự xuất
hiện của thương nghiệp. Với sự hoạt động của thương nhân
đã làm cho việc trao đổi hàng hóa phát triển mạnh và vượt
biên giới quốc gia. Mậu dịch quốc tế ra đời và ngày càng
phát triển mạnh mẽ.
II.

Vai trò của kinh tế đối ngoại :
Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua
các các mặt sau đây:
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản
xuất và trao đổiquốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị
trường thế giới và khu vực.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư
trực tiếp (FDI) vàvốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và
tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA);thu hút khoa học, kỹ thuật,
công nghệ; khai thác và ứng dụng những kinhnghiệm xây

dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.


-

Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đấtnước, đưa nước ta từ một nước
nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện

-

đại.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công
ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định
và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu

-

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Tất nhiên, những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt
được khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được
những thách thức (mặt trái) của toàncầu hoá và giữ đúng

III.

định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các hình thức chủ yếu của nền kinh tế đối ngoại:
1. Ngoại thương
-


Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự
trao đổi hàng hoá, dịch vụ (hàng hoá hữu hình hoặc vô
hình) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu.

-

Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị
trí trung tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức
mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng
có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao
đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
"điều tiết thừa thiếu" trong mỗi nước; nâng cao trình độ
công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước; tạo công
ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động
nhất là trong các ngành xuất khẩu.

-

Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập
khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu,


trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của
hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước nói chung và ở
nước ta nói riêng.
2.

Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất
-


Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây
dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá
sản xuất quốc tế...

3.

Nhận gia công
-

Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt,
giúp tận dụng nguồn dự trữ lao động, tạo nhiều việc làm
và tận dụng công suất máy móc hiện có. Rất nhiều nước
trên thế giới chăm lo đẩy mạnh hình thức này, kể cả
những nước và lãnh thổ "công nghiệp mới" như Hàn
Quốc, Đài Loan... Đối với nước ta, trong những năm
trước mắt, tăng cường việc nhận gia công là một phương
hướng đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược để mở rộng quan
hệ kinh tế với nước ngoài, ổn định tình hình kinh tế - xã
hội trong nước.

-

Các ngành có hàm lượng lao động cao cũng thích hợp với
nước ta bởi vì chúng đòi hỏi ít vốn đầu tư, việc đào tạo
công nhân cũng nhanh hơn việc đầu tư công nhân cho
các ngành có hàm lượng khoa học cao. Cần thấy rằng,
muốn mở rộng việc nhận gia công cho nước ngoài phải
chọn những gì thế giới cần chứ không thể chọn những gì
mà chủ quan ta mong muốn.


4.

Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp
chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài


-

Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp,
thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính - tín dụng...
Hiện nay, những xí nghiệp loại này đang tồn tại một cách
phổ biến ở nhiều nước. Về mặt pháp lý, xí nghiệp chung
thường được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần với
trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của
các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên
xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào
xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành
nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà
nước tiết kiệm ngoại tệ. Ở nước ta hiện nay, hình thức
này đóng vai trò rất quan trọng.

5.

Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá
-

Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác
theo những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham
gia, cũng có thể hình thành một cách tự phát do kết quả

cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các công
ty xuyên quốc gia tại các nước.

-

Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành
khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành
(chuyên môn hoá theo sản phẩm, theo bộ phận sản phẩm
hay chi tiết và theo công nghệ), hình thức hợp tác này
làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan
kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau.

6.

Hợp tác khoa học - kỹ thuật


-

Hợp tác khoa học kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình
thức như trao đổi những tài liệu - kỹ thuật và thiết kế, mua
bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công
nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân.

-

Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho
nghiên cứu khoa học kỹ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật chưa nhiều, phương tiện vật chất còn thiếu

thốn như nước ta thì việc tham gia hợp tác khoa học kỹ
thuật với nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là một
điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước
tiên tiến.

7.

Đầu tư quốc tế
-

Đầu tư quốc tế (trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản) là
một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là
quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác
nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án
đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.

-

Đầu tư quốc tế có tính chất hai mặt đối với các nước nhận
đầu tư. Nó làm tăng thêm nguồn vốn, tăng công nghệ
mới, nâng cao trình độ quản lý tiên tiến, tạo thêm việc
làm, đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận kinh tế thị
trường hiện đại trên thế giới. Mặt khác, đầu tư quốc tế
cũng có khả năng làm tăng sự phân hoá giữa các giai
tầng trong xã hội, giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài
nguyên, làm ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng tính lệ


thuộc vào bên ngoài. Những điều bất lợi trên đây cần

được tính toán và cân nhắc kỹ trong quá trình xây dựng,
thẩm định ký kết và triển khai dự án được ký kết trong
thực tế.
-

Có hai loại đầu tư quốc tế là: đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp.



Đầu tư trực tiếp (Trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản
hoạt động) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và
quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất
với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia
vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu
trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi
nhuận. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu là của doanh



nghiệp và tư nhân.
Đầu tư gián tiếp (Lênin gọi là xuất khẩu tư bản cho vay) là
loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng
vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia
vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình
thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ
phần (nếu là vốn cổ phần), hoặc có thể không thu lợi trực
tiếp (nếu cho vay ưu đãi). Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất

8.


đa dạng về chủ thể và hình thức.
Chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài
-

Cùng với chính sách ngoại thương, chính sách thu hút vốn
đầu tư quốc tế là một hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại
có tầm quan trọng chiến lược. Sau những năm đổi mới,
việc thực hiện chính sách này ở nước ta đã mang lại
những thành tựu nhất định.


9.

Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế
-

Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của
kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt
động dịch vụ tăng lên so với các hàng hoá khác trên thị
trường thế giới. Với Việt Nam việc đẩy mạnh hoạt động
dịch vụ thu ngoại tệ là giải pháp cần thiết, thiết thực để
phát huy lợi thế của đất nước.

a.

Các hình thức thu ngoại tệ chủ yếu:

Du lịch quốc tế


Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động càng cao thì nhu
cầu du lịch - nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập của
con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi cũng nhiều
hơn. Do đó ngành kinh tế du lịch nảy sinh trên cơ sở nhu cầu
khách quan, đó là sản phẩm và là một bộ phận trong hệ thống
phân công lao động xã hội. Phát triển ngành du lịch quốc tế sẽ
phát huy lợi thế của Việt Nam về cảnh quan thiên nhiên, về
nhiều loại lao động đặc thù mang tính dân tộc, truyền thống của
Việt Nam.
b.

Vận tải quốc tế
-

Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành
khách giữa hai nước hoặc nhiều nước. Sự phát triển của
vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông
qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận
chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.

-

Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường
biển, đường sắt, đường bộ, đường hàng không... trong


các phương thức đó, vận tải đường biển có vai trò quan
trọng nhất.Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng, lại có nhiều
hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể
phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh

vận tải quốc tế.
c.

Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ
-

Việt Nam với số dân gần 80 triệu người, kinh tế chưa phát
triển, là một nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất
khẩu lao động mang lại nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài
đó là: Thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người trực
tiếp lao động và cho ngân sách nhà nước; người lao động
được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động công
nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển. Khi hết hạn
hợp đồng về nước, sẽ trở thành lực lượng lao động có
chất lượng; giải quyết việc làm, giảm được tỷ lệ thất
nghiệp.

d.

Các hoạt động thu ngoại tệ khác
-

Ngoài những hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại
còn có nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như
dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ

IV.

kiểu hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn...
Chức năng của kinh tế đối ngoại:

Kinh tế đối ngoại đối với hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc
gia có chức năng, nhiệm vụ đặc thù riêng. Nhưng nhìn chung,
kinh tế đối ngoại của mọi quốc gia đều có các chức năng sau
đây:


1. Kinh tế đối ngoại hỗ trợ khai thác hiệu quả lợi thế của các
quốc gia, góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế và đạt được quy mô
sản xuất tối ưu.
* Lợi thế của các quốc gia thể hiện trên các mặt như:
- Vị trí địa lý: Các quốc gia nằm ở trung tâm các khu vực, đầu
mối các trục giao thông quốc tế có lợi thế trong phát triển kinh
tế. Vị trí địa lý là yếu tố trọng yếu của một quốc gia các khía
cạnh chính là vị trí địa lý tự nhiên, vị trí địa lý giao thông, vị trí
địa lý quốc phòng. Vị trí địa lý, đặc biệt là vị trí giao thông và vị
trí quốc phòng có ý nghĩa xác định tầm quan trọng của một
quốc gia trong quan hệ với các nước khác và giữa các nước
khác với nhau, đặc biệt là giữa các cường quốc.
- Khí hậu: Yếu tố này rất có ý nghĩa đối với các ngành sản xuất
phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như sản xuất nông
nghiệp. Cơ cấu, quy mô và hiệu quả ngành chăn nuôi và trồng
trọt được quyết định rất nhiều do nhiệt độ, độ ẩm, chế độ thủy
văn…
- Diện tích: Các quốc gia có diện tích đất đai rộng lớn thường
có ưu thế trong phát triển kinh tế. Diện tích lãnh thổ là yếu tố
ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, diện tích càng lớn thì nhìn
chung càng có điều kiện để phát triển kinh tế.
- Nguồn tài nguyên: Sự phong phú, đa dạng về tài nguyên thiên
nhiên
như tài nguyên rừng, biển, khoáng sản, là cơ sở để xây dựng

và phát triển nhiều ngành nghề của quốc gia. Tài nguyên thiên
nhiên có ảnh hưởng trọng yếu và lâu dài đối với một quốc gia.
Tài nguyên thiên nhiên đã và đang là trung tâm của những cuộc
tranh giành, thậm chí xung đột giữa các quốc gia đặc biệt là
dầu mỏ, khí đốt; khoáng sản kim loại; nước và những nguyên


tố hiếm phục vụ kỹ thuật, quốc phòng. Do tầm quan trọng của
tài nguyên thiên nhiên vốn đang bị cạn kiệt mà nhiều lãnh thổ
trước đây vốn ít được quan tâm như Bắc Cực, Nam Cực gần
đây đã trở thành trung tâm chú ý của các quốc gia.
- Nguồn nhân lực: Trong nền kinh tế tri thức, trí tuệ của con
người là yếu tố quan trọng nhất. Quốc gia nào có lợi thế về mặt
này sẽ là nước phát triển.
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực
của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa
học - công nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì
nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định
trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ
trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên
phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những
con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực
đó thì khó có khả năng đạt được sự phát triển như mong muốn.
Số lượng dân số là nhân tố sản xuất cũng như cấu thành
tầm quan trọng của một quốc gia, các quốc gia đông dân đều
gây được sự chú ý trong quan hệ quốc tế như Trung Quốc, Ấn
Độ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dân số phải đạt đến một
mức nhất định mới có thể đảm bảo cho sự phát triển an toàn,
bền vững của quốc gia.
Chất lượng và cấu trúc dân số: chất lượng dân số là nhân

tố đảm bảo cho số lượng nhân khẩu phát huy tác dụng. Chất
lượng dân số là tố chất công dân, trình độ giáo dục, tình trạng
sức khỏe, nền tảng đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống
văn hóa, quân sự... và tinh thần dân tộc. Cấu trúc dân số là các
khía cạnh về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc, tôn giáo.
Cấu trúc dân số hợp lý, thuần nhất sẽ tạo thuận lợi cho quốc
gia phát huy sức mạnh tổng hợp.


Khi quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào phân
công lao động, mỗi nước có thể khai thác tối đa lợi thế so sánh
của mình để đạt hiệu quả cao nhất trong mỗi ngành sản xuất,
đồng thời cũng xây dựng được những ngành kinh tế mũi nhọn,
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành,
tăng cường khả năng cạnh tranh trong nước cũng như trên thế
giới.
Quá trình này cũng giúp các quốc gia có thể thực hiện tái
sản xuất mở rộng theo chiều sâu, ứng dụng nhanh các thành
tựu, tiến bộ khoa học - công nghệ, thực hiện các phương án tối
ưu về tổ chức sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy, các nước thực hiện công nghiêp hóa đều sử
dụng kinh tế đối ngoại như một công cụ hữu hiệu, lựa chọn
ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại
tệ…
2. Kinh tế đối ngoại giúp các quốc gia giải quyết khó khăn và
thiếu hụt về các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên,
khoa học công nghệ.
Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại, các nước thu được
vốn, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tạo việc làm, tăng
thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua hợp tác,

chuyên môn hóa, các quốc gia tránh được những thiếu hụt
trong qúa trình hoạt động kinh tế.
Kinh tế đối ngoại đã mang lại cho nền kinh tế thế giới
những chuyển động tích cực không ngừng, có thể thấy rõ điều
này qua những điểm mốc dưới đây:
- Trước thế kỷ XIX, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ
nhất cho ra đời máy hơi nước và ứng dụng nó vào vận tải
đường biển, đường bộ… Đồng thời sự hình thành các công ty


ủy thác tài chính, các công ty cổ phần với quy mô nhỏ đã kích
thích mậu dịch gia tăng mạnh mẽ.
- Cuối chiến tranh thế giới làn thứ hai, đồng Dollar Mỹ được sử
dụng nhiều trên thế giới; quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) được thành
lập vào cuối năm 1945, lấy USD làm đơn vị tiền tệ cơ bản đã
thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp
nước ngoài gia tăng một cách nhanh chóng. Các công ty xuyên
quốc gia được thành lập nhằm tăng cường khả năng cạnh
tranh trên trường quốc tế.
- Toàn cầu hóa kinh tế lần thứ ba xuất hiện vào nửa cuối những
năm 80 của thế kỷ XX, khi các nước đang phát triển điều chỉnh
chính sách kinh tế, mở cửa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu và
áp dụng nhiều biện pháp thực hiện quá trình công nghiệp hóa.
Các nước công nghiệp phát triển cũng có những chiến lược
nhất định, chạy đua giành vị trí tối ưu vì biến động kinh tế thế
giới buộc các nước phải khẩn trương điều chỉnh chiến lược
quốc gia cho phù hợp với biến động ấy.
Ngày nay quan hệ kinh tế quốc tế vẫn phát triển theo
hướng đa dạng hóa. Khoảng cách giữa các nươc giàu – nghèo
còn quá xa và ngày càng tăng lên, vì vậy mở rộng quan hệ kinh

tế đối ngoại là để san lấp khoảng cách này trong thời gian ngắn
nhất. Một số nước nhỏ, nghèo nhưng có những biến đổi nhanh
chóng do lợi dụng các nguồn vốn, kỹ thuật cao của nước ngoài
và trở thành các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hồng
Kông, Hàn Quốc…Hiện nay, các nước trên thế giới đang tăng
cường mở rộng quan hệ hợp tác để học tập, rút kinh nghiệm và
giúp đỡ lẫn nhau.
3. Kinh tế đối ngoại là cầu nối giữa kinh tế trong nước và thế
giới, giúp các nước có điều kiện tiếp xúc với văn minh nhân
loại, tăng cường hiểu biết và củng cố hòa bình.


Nhờ có kinh tế đối ngoại mà các quốc gia liên kết, gắn bó và
ràng buộc với nhau. Thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ, đầu tư, hợp tác khoa học, xuất nhập khẩu lao
động…nhân dân các nước có điều kiện hiểu biết về truyền
thống văn hóa của nhau. Tích cực và chủ động tham gia vào
phân công lao động quốc tế sẽ làm nền kinh tế mỗi quốc gia trở
thành một hệ thống mở, trở thành một bộ phận của kinh tế thế
giới.
Ngày nay kinh tế thế giới phát triển theo bốn trào lưu mà
không có nước nào nằm ngoài những trào lưu này cả:
- Quốc tế hóa mọi mặt nền kinh tế: thể hiện ở các mặt sau:
+ Quốc tế hóa sản xuất: phân công lao động quốc tế ngày nay
dựa trên lợi thế so sánh mỗi nước, nên hiện tượng các công ty
ở mỗi nước xâm nhập lẫn vào nhau để tạo thành những công
ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia ngày càng trở nên phổ
biến do những ưu việt của nó hơn hẳn những công ty nhỏ hoạt
động riêng lẻ, đơn độc trước đây. Vd: Chẳng hạn hãng máy bay
Boing có 650 công ty cùng hợp tác sản xuất ở trên 30 nước

khác nhau; hoặc công ty Samsung của Hàn Quốc đặt chi nhánh
ở trên 60 nước để sản xuất nhiều loại sản phẩm.
+ Quốc tế hóa tiêu dùng: sản phẩm tiêu dùng có mặt trên thị
trường ở mỗi quốc gia hiện có xuất xứ từ nhiều nước trên thế
giới.
+ Quốc tế hóa mậu dịch: Theo Qũy tiền tệ quốc tế (IMF), tổng
khối lượng hàng hóa và dịch vụ buôn bán trên thế giới khoảng
6.000 đến 6.500 tỉ USD/năm và gia tăng bình quân 4 đến
6%/năm.
- Tập đoàn hóa: Trong những năm 80 – 90 của thế kỷ XX nhiều
tập đoàn kinh tế lớn được hình thành với mong ước về một
ngôi nhà chung thế giới; các tập đoàn kinh tế bao gồm nhiều
thành viên cùng ngành nghề (tập đoàn kinh tế đơn ngành) hoặc


những ngành nghề gần nhau hợp nhất lại (tập đoàn kinh tế đa
ngành) tạo thành một thể thống nhất nhằm tăng khả năng cạnh
tranh với các đối thủ khác trên thương trường.
- Kỹ thuật hóa: Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại với công
nghệ thông tin và ngành sinh học phát triển từ giữa những năm
70 đã có ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế thế giới, khiến cho
lực lượng sản xuất ngày nay trở thành lực lượng sản xuất quốc
tế có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của thế giới. Cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã đẩy nhanh quá trình luôn
chuyển vốn (bình quân khoảng 1.500 đến 1.600 tỉ USD/ngày),
số lượng mặt hàng cũng gia tăng theo đà phát triển của khoa
học kỹ thuật càng đòi hỏi quá trình mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế ở các nước phải tiến hành nhanh, mạnh và có chất
lượng.
- Thị trường hóa: Theo những phân tích của Ngân hàng thế

giới, hiện nay hầu hết các nước trên thế giới thực hành kinh tế
thị trường, dùng vốn và tài chính quốc tế để sản xuất tại nước
sở tại theo phân công lao động quốc tế và hội nhập vào nền
kinh tế thế giới.
Hiện nay có nhiều vấn đề tác động đến tổng thể nền kinh tế
thế giới và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia, nhưng trong phạm vi một quốc gia không đủ khả năng giải
quyết mà phải có sự hợp sức của nhiều nước, của cộng đồng
thế giới mới giải quyết được.



×