Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.68 KB, 10 trang )

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2013
K52G: Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phạm Nguyễn Minh Phương, Tô Minh Thúy, Huỳnh Thị Trang Thư

Tóm lược: Xuất khẩu, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi, là một mảng nghiên
cứu thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách
thời gian gần đây. Tuy nhiên, trên thực tế, những nghiên cứu xuất khẩu và các yếu tố ảnh
hưởng đến xuất khẩu tại Việt Nam hầu hết chỉ tập trung vào giai đoạn trước năm 2000,
trong khi thực tiễn hiện nay hết sức phức tạp và đòi hỏi những nghiên cứu mới, cập nhật
gần hơn với tình hình hiện tại.Vì vậy, trong bài tiểu luận, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích
mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2013 dựa
trên mô hình phân tích hồi quy để giải thích tác động của các biến. Sau quá trình nghiên
cứu và làm bài tiểu luận nhóm đã rút ra được GDP là nhân tố có tác động chủ yếu đến
xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhóm xin đưa ra một số giải pháp tương đối phù hợp nhằm cải
thiện và gia tăng GDP.
Từ khóa: GDP, FDI, lạm phát.
1. Giới thiệu

Hiện nay, nền kinh tế toàn cầu đang bùng nổ với nhiều tiềm năng được khai phá và
phát triển, thì sự tăng trưởng vẫn chính là thước đo chủ yếu và đánh giá khách quan nhất
về kinh tế vĩ mô của một quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở để
thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và các vấn đề khác. Nhận thấy xuất
khẩu là một trong những vấn đề quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
trên thế giới đồng thời nhằm mục đích tìm hiểu về các nhân tố tác động đến chỉ tiêu quan
trọng này ở nước ta, nhóm đã chọn đề tài: Phân tích các yếu tố tác động đến xuất khẩu
của Việt Nam từ năm 2000 đến 2013.
Nhóm sẽ phân tích các nhân tố có tác động đến xuất khẩu của Việt Nam bằng cách
sử dụng mô hình hồi quy đa biến và số liệu thu thập từ các nguồn đáng tin cậy, từ đó
đánh giá nhân tố nào có tác động đến xuất khẩu để tập trung xem xét và tìm ra giải pháp .
Bằng việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn
2000 – 2013, chúng ta có thể đánh giá, xem xét và đề ra những chính sách phù hợp để tạo




điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu dùng của Việt Nam trong
tương lai và đẩy mạnh các mối quan hệ thương mại với nước ngoài.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1 Cơ sở lý thuyết và khung phân tích
Nhóm đã dựa trên mô hình hồi quy đa biến được sử dụng trong nghiên cứu
“Analysis of Economic Factors Affecting Export and Import in the Countries of the South
Caucasus” được công bố vào ngày 12/04/2010 của các tác giả Elnur Aslanov, Taleh
Gasimov và Aygul Isayeva để phân tích những ảnh hưởng của: INF (lạm phát), GDP
(tổng sản phẩm quốc nội) và FDI (đầu tư trực tiếp của nước ngoài) đến EXP (xuất khẩu)
của Việt Nam. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã phân tích ảnh hưởng của INF,
GDP và FDI đến xuất khẩu và nhập khẩu của ba nước Armenia, Georgia và Azerbaijan
dựa trên những số liệu thu được từ năm 1990 đến 2010 của ba nước này.
Những nghiên cứu đã được thực hiện trong và ngoài nước:
Mối quan hệ giữa xuất khẩu và FDI:
Trong nghiên cứu “Foreign Direct Investment and Export Performance:
Empirical Evidence” của Ali M. Kutan và Goran Vukšić về tác động của dòng FDI đến
biểu hiện của xuất khẩu ở 12 nền kinh tế chuyển đổi, bao gồm cả những quốc gia là thành
viên mới của Liên Minh châu Âu chỉ ra rằng: “đầu tư trực tiếp từ nước ngoài có thể đóng
góp vào xuất khẩu nhiều hơn bằng cách tăng sức cung cấp và/hoặc thông qua FDI-những
ảnh hưởng cụ thể có thể có như các công ty đa quốc gia có thể có kiến thức tốt hơn về các
thị trường nước ngoài, công nghệ tốt hơn, giá thành sản xuất thấp hơn.”
Theo nghiên cứu “The Impact of Foreign Direct Investment on Exports in
COMESA Countries” của Omega Simon Heliso công bố vào tháng 4 năm 2014: “ kết quả
thực nghiệm tìm ra rằng có một mối quan hệ rõ ràng và có ý nghĩa giữa vốn đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài và xuất khẩu trong lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất và tài nguyên thiên
nhiên. Thêm vào đó, tầm quan trọng của tác động FDI thì tương đối lớn. Kết quả cũng
chỉ ra rằng tác động của FDI đến xuất khẩu thì rộng hơn xuất khẩu sản xuất.”
Mối quan hệ giữa xuất khẩu và GDP:



Mahmoud Abolpour, Mofrad Faulty của Đại học Azad Branch of Firouz Abad với
nghiên cứu “The relationships between GDP, exports and investment: case study Iran”
công bố năm 2012 so sánh mối quan hệ trong dài hạn và ngắn hạn giữa GDP, xuất khẩu
và đầu tư từ năm 1991 đến 2008. Những kết quả cho thấy có một mối quan hệ rõ ràng và
có ý nghĩa trong dài hạn giữa đầu tư và xuất khẩu với tổng sản phẩm quốc nội với độ tin
cậy 95%.
Mối quan hệ giữa xuất khẩu và lạm phát:
Theo những tài liệu dựa trên Economics and Contemporary Issues, 3rd ed.
(Dryden Press, 1996), eds. Michael Edgmand, Ronald Moowaw, and Kent Olson., mối
quan hệ giữa lạm phát và xuất khẩu ròng thể hiện qua lạm phát bất ngờ có thể gây ra
giảm xuất khẩu ròng vì: “ lạm phát làm cho những hàng hóa được sản xuất ở Mỹ mắc
hơn tương đối, gây ra sự giảm xuống trong xuất khẩu”; “lạm phát làm cho những hàng
hóa được sản xuất ở nước ngoài rẻ hơn tương đối , gây ra sự tăng lên trong nhập khẩu.”
Những nghiên cứu về các biến số vĩ mô khác tác động đến xuất khẩu:
Nghiên cứu “The Impact of Domestic and Foreign Macroeconomic Variables on
U.S.Meat Exports” của Donald J. Liu, Pin J. Chung và William H. Meyers đã kiểm tra tác
động của những biến số vĩ mô nội địa và nước ngoài đến xuất khẩu thịt ở Mỹ, gồm thịt
bò, thịt heo, thịt gà tây và thịt gà trong bối cảnh của một nền kinh tế mở. Kết quả chỉ ra
rằng những biến số vĩ mô nước ngoài có các tác động ý nghĩa và lâu dài lên xuất khẩu
thịt ở Mỹ hơn là những biến số vĩ mô nội địa.
Nghiên cứu của các tác giả Anthony Imoisi Ilegbinosa, Peter Uzomba, Richard
Somiari “The Impact of Macroeconomic Variables on Non-Oil Exports Performance in
Nigeria, 1986-2010” cung cấp kết quả về các biến vĩ mô tác động đến việc không xuất
khẩu dầu của Nigeria như sau: tỷ giá hối đoái, chi tiêu vốn chính phủ và chi tiêu định kỳ
của chính phủ có mối quan hệ tích cực với việc không xuất khẩu dầu, trong khi lãi suất có
mối quan hệ tiêu cực với việc không xuất khẩu dầu.
Theo nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở
Pakistan “Relationship between Exports and Economic Growth of Pakistan” của các tác

giả Athar Iqbal, Irfan Hameed, Komal Devi, có thể kết luận rằng tồn tại quan hệ nhân quả


theo một hướng duy nhất , đó là từ GDP thực đến xuất khẩu thực, không phải theo chiều
ngược lại. Xuất khẩu dẫn dắt tăng trưởng kinh tế trở thành chủ đề được tập trung vào
trong các cuộc tranh luận kinh tế. Tuy nhiên, những kết quả tìm được và phát hiện của
các nghiên cứu gần đây được giám sát ở Pakistan lại chứng minh điều ngược lại.
Nghiên cứu “Đánh giá tác động giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”của TS. Phạm Thị Hoàng Anh và Lê Hà Thu sử dụng
mô hình VAR để phân tích mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam..
Nghiên cứu cũng chỉ rõ, nguồn vốn FDI đã kích thích xuất khẩu, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, công nghệ, giúp tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Trên cơ sở lý thuyết và kết quả của các nghiên cứu trước, nhóm sử dụng mô hình
log tuyến tính để phân tích tác động của FDI, GDP, INF đến EXP với nghiên cứu “Phân
tích những tác động đến xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2013”.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.2. Mô hình Log tuyến tính
Xem xét mô hình sau với tên gọi là mô hình hồi quy mũ:
Yi=βXiβ2eui

(1)

Phương trình có thể được biểu diễn dưới dạng sau:
lnYi=lnβ1+β2lnXi +ui

(2)

với ln là logarit tự nhiên nghĩa là logarit với cơ số e (e=2,718). Nếu ta viết (1) dưới dạng :
ln Yi=α+β2lnXi+ui


(3)

với α=lnβ1, mô hình này tuyến tính theo các thông số α và β2, tuyến tính theo loogarit của
các biến Y và X. Mô hình có thể được ước lượng bằng hồi quy OLS. Do tính chất tuyến
tính này, các mô hình như thế được gọi là mô hình log-log, log kép, hay tuyến tính log.
Trong mô hình hai biến, cách đơn giản nhất để quyết định xem mô hình tuyến tính
logarit có thích hợp với số liệu hay không là vẽ lên đồ thị phân tán biểu diễn có thích
hợp với số liệu hay không là vẽ lên đồ thị phân tán biểu diễn lnY i theo lnXi và txem xem
nếu các điểm phân tán nằm gần đúng theo một đường thẳng.
3. Kết quả và thảo luận


3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Bảng 1: Xuất khẩu và nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 2000-2013
No of years
FDI
net GDP
per Inflation
Exports
inflows (USD) capita (USD)
2000
2398700000
33640085727, -1,7
14449000000
52
2001
2225600000
35291349277, -0,4
15027000000
31

2002
2884700000
37947904054, 3,8
16706000000
45
2003
2723300000
42717072777, 3,2
20176000000
58
2004
2708400000
49424107709, 7,8
26504000000
89
2005
3300500000
57633255739, 8,3
32442000000
41
2006
4100400000
66371664817, 7,4
39826000000
04
2007
8034100000
77414425532, 8,3
48561000000
25

2008
11500200000 99130304099, 23,1
62685000000
13
2009
10000500000 106014600963 7,1
57096000000
,96
2010
11000300000 115931749904 8,9
72237000000
,86
2011
11000100000 135539487317 18,7
96906000000
,01
2012
10046600000 155820001920 9,1
114529000000
,00
2013
11500000000 171391820360 6,6
132003300000
,00
0
Nguồn: Ngân hàng Thế giới và Hải quan Việt Nam
FDI (Foreign Direct Investment): Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư
quốc tế trong đó chủ đầu tư của một nước đầu tư toàn bộ hoặc phần đủ lớn vốn đầu tư
cho một dự án ở nước khác nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án
đó.



GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nôi là giá trị thị trường của tất cả
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất
định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Inflation: Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Export: xuất khẩu trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho
nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng
hóa cho nước ngoài.
3.2. Kết quả phân tích hồi quy Regression từ Excel 2013 và Eviews 8
Bảng 2: Hệ số
hồi quy
Intercept
FDI net inflows
(USD)
GDP per capita
(USD)
Inflation

Coefficients
-30,41547385
-0,661666769

Standard Error
9,156460487
0,790269943

2,803787445

0,887982325


-0,034736774

0,033713905

Thông qua phân tích từ Excel ta có hàm hồi quy theo mô hình như sau:
lnExport= -30,41547385 -0,6617lnFDI +2,8038lnGDP -0,0347Inflation +µ
Bảng 3: Phân tích phương sai hồi quy
Regression Statistics
Multiple R
0,903761334
R Square
0,816784549
Adjusted R Square
0,761819914
Standard Error
0,569347162
Observations
14
Ta thấy mối liên hệ tương quan bộ rất chặt chẽ (Multiple R=0,903761334). Trong
100% sự biến động của biến phụ thuộc Export thì có 81,67% là do sự biến động của FDI,
GDP, Inflation ảnh hưởng; còn lại là do sai số ngẫu nhiên.
Bảng 4: Kiểm định phương sai hồi quy
df
SS

MS

F


Regression

4,81702039

14,8601832

3

14,4510611

Significance
F
0,00051437


Residual

10

Total

13

7
3,24156190
9
17,6926230
8

3


3

0,32415619

Ta có F0.05;3,10 = 3,71. Ta thấy F = 14,86018323> F0.05;3,10. Đồng thời, nhìn vào bảng
ta thấy giác trị p rất nhỏ (Significance F = 0,000514373), ta có thể bác bỏ giả thuyết H 0,
nghĩa là tổn tại một mối quan hệ tuyến tính giữa xuất khẩu (Export) với ít nhất một trong
các yếu tố FDI, GDP, Inflation.
Bảng 5: Hệ số
tương quan
FDI
1
0,948792022
0,688854568
0,386367696

FDI
GDP
IN
EX

GDP
1
0,622413328
0,508235368

IN

EX


1
0,0029624
6

1

Qua bảng tính hệ số tương quan này cho ta thấy có sự tương quan giữa các biến
FDI, GDP, Inflation rất chặt chẽ. Cụ thể FDI, GDP, Inflation tỉ lệ thuận với nhau.
Bảng 6: Kiểm định
hệ số hồi quy
Intercept
FDI net
(USD)
GDP per
(USD)
Inflation

t Stat
-3,321750134
inflows -0,837266779

P-value
0,007724616
0,422001289

capita 3,157481143

0,010202387


-1,030339687

0,327126537

Ta có t0.025;10 = 2,228. Ta thấy t Stat của các biến FDI và Inflation nằm ngoài miền
bác bỏ, t Stat của biến Intercept, GDP nằm trong miền bác bỏ. Đồng thời ta thấy P-value
của FDI và GDP đều rất cao. Từ đó, cho thấy FDI và lạm phát (Inflation) không có mối
quan hệ tích cực với xuất khẩu (Export) và các mối quan hệ này không có ý nghĩa (Pvalue = 0,422001289 và P-value = 0,327126537) , trong khi đó GDP lại có ảnh hưởng
lớn đến xuất khẩu (Export).


3.3 Thảo luận kết quả nghiên cứu
lnExport= -30,41547385 -0,6617lnFDI +2,8038lnGDP -0,0347Inflation +µ
Từ phương trình hồi quy, ta thấy: Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi FDI tăng
1% USD thì xuất khẩu giảm 0,6617% USD. Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi GDP
tăng 1% USD thì xuất khẩu tăng 2,8030% USD. Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi
lạm phát tăng 1% thì xuất khẩu giảm 0,0347%USD. Mặt khác, từ kết quả phân tích bằng
Excel, ta thấy với độ tin cậy 95% thì khoảng tin cậy của hệ số của FDI là (-2,42;1,10),
khoảng tin cậy của hệ số của GDP là (0,83;4,78), của lạm phát là (-0,11;0,04).
Theo kết luận sơ bộ của nhóm, kết quả ở giai đoạn này chỉ ra rằng mối quan hệ
giữa GDP và xuất khẩu là rất cao. Tuy nhiên mối quan hệ giữa FDI, lạm phát với xuất
khẩu là không đáng kể. Các mối quan hệ tiêu cực có thể được giải thích bởi thực tế rằng
một lượng lớn nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp FDI cũng phải nhập khẩu do
nguyên liệu sản xuất trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của khu vực nước ngoài, và
các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hoạt động theo dây chuyền sản xuất quốc tế, nên phải
nhập khẩu các sản phẩm từ các công ty cùng dây chuyền. Điều này đã khiến cho phần giá
trị tăng thêm mà các doanh nghiệp FDI tạo ra cho nền kinh tế chưa được như mong đợi,
và phần nào làm lu mờ những tác động tích cực của khu vực FDI tới kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam. Mối quan hệ giữa lạm phát và xuất khẩu cho ta thấy, đối với những hàng
hoá được sản xuất ở Việt Nam để xuất khẩu ra nước ngoài thì giá bán không bị ảnh

hưởng bởi lạm phát; đồng thời hi vọng có những nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ này.
Việc phân tích mối quan hệ giữa GDP và xuất khẩu cho thấy tăng trưởng GDP là
liên quan chặt chẽ với xuất khẩu và ngược lại. Nói cách khác tăng trưởng thu nhập (GDP
tăng trưởng) từ xuất khẩu nguyên liệu cũng góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nguyên
liệu xuất khẩu.
Cũng như những nghiên cứu khác, nghiên cứu này có những hạn chế nên được
nhận xét và thực hiện vào cân nhắc khi diễn giải kết quả. Trong nghiên cứu này, nhóm
chỉ xem xét một số yếu tố kinh tế như FDI, GDP, lạm phát mà không chú ý đến mối quan
hệ của chúng với các yếu tố khác, như tỷ lệ tái cấp vốn, thuế quan và các rào cản khác.


Hơn nữa, sẽ xác thực hơn nếu khám phá các mối quan hệ giữa xuất khẩu ròng (chênh
lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu) và sự tăng trưởng của GDP.
4. Kết luận và gợi ý chính sách
Qua kết quả phân tích từ mô hình hồi quy về các yếu tố tác động đến xuất khẩu, trong đó
GDP là yếu tố có tác động đến xuất khẩu nhiều nhất, nhóm xin đưa ra giải pháp như sau:
Tiến hành cải cách, xây dưng cơ chế truyền tải vốn trong sạch, lành mạnh, linh
hoạt nhằm thuyết phục nhà đầu tư nước ngoài hỗ trợ cho các dự án sản xuất bao gồm tất
cả các khâu: khai thác, sản xuất nguyên liệu, chế biến thành phẩm,...nhằm làm cho phần
giá trị tăng thêm của doanh nghiệp FDI trong nước đạt được như dự tính.
Có chiến lược thị trường phù hợp, đẩy mạnh quan hệ kinh doanh quốc tế nhằm
tăng cường hoạt động xuất khẩu và GDP trong khu vực này. GDP tăng sẽ chứng minh
cho sự phát triển của xuất khẩu Việt Nam, tạo thuận lợi trong quá trình đàm phán thương
thảo và là nguồn tái đầu tư bền vững. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư,
áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, thúc đẩy hoạt động cho vay của các ngân hàng
giúp các doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng, thuận lợi hơn trong việc sản xuất kinh
doanh, thúc đẩy tăng trưởng GDP, tác động tích cực đến xuất khẩu.
Tài liệu tham khảo
[1] Ali M. Kutan, Goran Vukšić, (2007), “Foreign Direct Investment and Export


Peformance: Empirical Evidence”, Comparative Economic Studies, 49(3), 430445.
[2]

Anthony Imoisi Ilegbinosa, Peter Uzomba, Richard Somiari, (2012), “The

Impact of Macroeconomic Variables on Non-Oil Exports Performance in Nigeria, 19862010”, Journal of Economics and Sustainable Development ISSN 2222-1700, 3(5),
2222-2855.
[3]

Athar Iqbal, Irfan Hameed, Komal Devi, (2012), “Relationship between Exports

and Economic Growth of Pakistan”. European Journal of Social Sciences ISSN 14502267, 32(3), 453-460.


[4]

Donald J. Liu, Pin J. Chung, William H. Meyers, (2012), “The Impact of

Domestic and Foreign Macroeconomic Varibles on U.S. Meat Exports”, Agricultural
and Resource Economics Review, 22(2), 210 -221.
[5]

Elnur Aslanov, Taleh Gasimov, Aygul Isayeva, (2010), Analysis of Economic

Factors Affecting Export and Import in the Countries of the South Caucasus.
[6]

Faulty Mahmoud, Abolpur Mofrad, (2012),“The relationships between GDP,

exports and investment: case study Iran”, Business Intelligent Journal, 5(2), 401-405.

[7]

Heliso Omega Simon, (2004), The Impact of Foreign Direct Investment on

Exports in COMESA Countries, University of Ottawa.
[8]

Kuntluru, Sudershan; Muppani, Venkata Reddy; Khan, Mohammad Akbar

Ali, (2012), “Foreign Direct Investment and Export Performance of
Pharmaceutical Firms in India: An Empirical Approach”, International Journal
of Economics and Finance, 4(5), 216-226.
[9]
Micheal Edgmand, Ronald Moowaw, Kent Olson, (1996), Economics
and Contemporary Issues 3rd ed., Dryden Press., Oak Brook, Illinois, USA.
[10] TS. Phạm Thị Hoàng Anh, Lê Hà Thu, (2014) “Đánh giá tác động giữa vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài (FDI) và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển
kinh tế trường Đại học Kinh tế TPHCM, 281, 37-56.



×