Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thiên nhiên trong sáng tác của các nữ tác giả việt nam thời trung đại – nhìn từ phê bình sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.75 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******

NGUYỄN THỊ THÚY

THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA
CÁC NỮ TÁC GIẢ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
- NHÌN TỪ PHÊ BÌNH SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******

NGUYỄN THỊ THÚY

THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA
CÁC NỮ TÁC GIẢ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
- NHÌN TỪ PHÊ BÌNH SINH THÁI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN HẢI YẾN


Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi thực
hiện dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Trần Hải Yến. Các kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực và chƣa sử dụng để bảo vệ một công trình khoa học nào.
Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác giả luận văn đều có
ghi chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác
thực và nguyên bản của luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thúy


LỜI CẢM ƠN
Để có đƣợc những thành quả nhƣ ngày hôm nay, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến những ngƣời đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận đƣợc sự chỉ
bảo tận tâm, chu đáo từ phía TS Trần Hải Yến. Cô đã tận tình hƣớng dẫn cách
trình bày, giải quyết vấn đề để tôi hoàn thành tốt luận văn này. Xin trân trọng
cảm ơn cô!
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Văn học,
trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, những ngƣời đã nhiệt
tình giảng dạy để tôi hoàn thành tốt khóa học và luận văn tốt nghiệp.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu nhà trƣờng,
phòng Sau Đại học đã tạo những điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian
học tập tại trƣờng.
Tác giả luận văn chân thành biết ơn những ngƣời thân trong gia đình và
bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời

gian qua.

Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Thúy


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7
4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 8
6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 8
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................... 10
1.1. Thiên nhiên trong quan niệm Việt Nam thời trung đại ..................... 10
1.1.1. Quan niệm của tam giáo về quan hệ thiên – nhân................................ 10
1.1.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam ...................... 13
1.2. Nhìn lại “nữ lƣu” trong lịch sử văn chƣơng thời trung đại ............... 35
1.3. Những nét phác về phê bình sinh thái và tiềm năng của nó trong
nghiên cứu văn chƣơng ................................................................................. 41
1.3.1. Đôi nét về phê bình sinh thái ................................................................ 41
1.3.2. Phê bình sinh thái với nghiên cứu văn chương..................................... 44
Tiểu kết ........................................................................................................... 45
Chƣơng 2 TOÀN CẢNH THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA

CÁC CÂY BÚT NỮ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI ............................. 47
2.1. Sáng tác về thiên nhiên của các tác giả nữ qua những con số thống kê .... 47
2.2. Thế giới tƣ ̣ nhiên - con ngƣời theo cái nhin
̀ của tác giả nƣ̃ ................ 52
2.2.1. Thiên nhiên được biểu hiện qua thảm thực vật ..................................... 52
2.2.2. Thiên nhiên xuất hiện qua thế giới động vật......................................... 57


2.2.3. Thiên nhiên chuyển vận theo bốn mùa .................................................. 61
2.2.4. Thiên nhiên danh thắng......................................................................... 66
Tiểu kết ........................................................................................................... 68
Chƣơng 3 THIÊN NHIÊN – HÌNH DUNG VÀ BIỂU TẢ CỦA NỮ GIỚI
VỀ MÔI SINH TRONG VĂN HÓA THỜI TRUNG ĐẠI ........................ 69
3.1. Những khoảng thiên nhiên khuyết vắng và dôi dƣ ............................. 69
3.2. Đặc điểm của chủ thể sinh thái trong thơ văn nữ Việt Nam thời trung
đại.................................................................................................................... 77
Tiểu kết ........................................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
TƢ LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 86


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thời trung đại của Viê ̣t Nam , các sáng tác văn chƣơng không chỉ
thể hiện những tƣ tƣởng lớn nhƣ yêu nƣớc, nhân đạo qua tinh thầ n chố ng giă ̣c
ngoại xâm, qua tình yêu con ngƣời ở nhiề u cung bâ ̣c cảm xú c…. mà còn có
nhiề u sáng tác về thiên nhiên . Bởi tình yêu vố n có của ngƣời cầ m bút với thế
giới tƣ̣ nhiên , và còn bởi nhƣ̃ng quan niê ̣m đă ̣c biê ̣t của thời đại đó về mố i
quan hê ̣ con ngƣời – tƣ̣ nhiên.
1.2. Thiên nhiên trở thành nguồn cảm hứng lớn trong văn chƣơng,

không chỉ ở các bâ ̣c nam nhân của Viê ̣t Nam thời trung đa ̣i . Những tác gia nữ
đầy tài năng nhƣ Hồ Xuân Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm,
Ngô Chi Lan, Trƣơng Thị Trong, Nguyễn Tĩnh Hòa… đều có nhiều đóng góp
cho tiến trình vận động , phát triển của văn học nƣớc nhà nói chung và mảng
sáng tác này nói riêng . Sƣ̣ khác biê ̣t về giới tiń h hiể n nhiên sẽ chi phố i nhiề u
phƣơng diê ̣n của sáng tác mà chủ đề thiên nhiên là mô ̣t . Khảo sát chủ đề này
ở các cây bút nữ vì vậy sẽ làm sáng tỏ thêm những vấn đề xung quanh thái độ
của con ngƣời với thế giới tự nhiên , vai trò của tƣ̣ nhiên trong tiǹ h cảm , nhâ ̣n
thƣ́c của con ngƣời ; thêm nƣ̃a , tìm hiểu cách nhìn , cách phản ánh thiên nhiên
ở các tác giả nữ thời trung đại còn góp phần hiểu thêm đặc thù văn hoá giới
của giai đoạn này.
1.3. Những dẫn nhâ ̣p phê biǹ h văn ho ̣c sinh thái ho ̣c gầ n đây vào đời
số ng nghiên cƣ́u văn ho ̣c Viê ̣t Nam đã đem la ̣i nhi ều gợi ý cho việc nhìn lại
thế giới tự nhiên trong văn chƣơng. Đối tƣợng của hình th ức phê biǹ h khá
mới mẻ này là nhƣ̃ng sáng tác thể hiê ̣n thiên nhiên trong tiń h nguy cơ ở cuô ̣c
số ng bin
̀ h thƣờng của con ngƣời . Nói cách khác, phê bình sinh thái tập trung
chú ý vào những tác phẩm văn chƣơng thể hiện cảm quan bất an của con
ngƣời về mô ̣t môi sinh đang bi tổ
̣ n thƣơng , trong đó thiên nhiên là mô ̣t hiǹ h
1


ảnh chủ yếu ; hoă ̣c tim
̀ hiể u chiề u sâu văn hoá , tƣ tƣởng của cách con ngƣời
hình dung thiên nhiên , tác động vào tự nhiên . Ngoài ra , với tính chấ t liên
ngành, phê bình sinh thái luôn có xu hƣớng kế t hơ ̣p với nhƣ̃ng tiế p câ ̣n khác ,
nhƣ: giới, chủng tộc, dân tô ̣c… Đó là mô ̣t kiể u tiế p câ ̣ n hƣ́a he ̣n nh ững nhìn
nhận khả th ủ trong viê ̣c tìm hiể u sáng tác của các tác gi ả nữ Việt Nam thời
trung đại ở mảng thiên nhiên.

Vì tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Thiên nhiên trong sáng
tác của các nữ tác giả Việt Nam thời trung đại – nhìn từ phê bình sinh thái
với hy vọng bổ sung thêm mô ̣t và i lý giải mới cho mô ̣t chủ điểm đã đƣơ ̣c giới
nghiên cƣ́u tìm hiểu trƣớc đây.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ văn viết về thiên nhiên của các tác giả nữ
trung đại
Về các tác giả thời trung đại, có khá nhiều chuyên luận và bài viết, tuy
nhiên nghiên cứu về các tác giả nữ lại chƣa có một công trình đô ̣c lâ ̣p nào.
Năm 1929 trong cuốn Nữ lưu văn học sử Sở Cuồng, Lê Dƣ đã có những đánh
giá, ghi nhận đầu tiên về các tác giả nữ trong văn học Việt Nam nhƣ Hồ Xuân
Hƣơng, Đoàn Thị Điểm…. Theo đánh giá của tác giả thì đây đều là những
nhà thơ nữ tài năng, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học… Đến
năm 2010 Đỗ Thị Hảo cho ra mắt cuốn Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam thì
tác phẩm văn chƣơng nữ đƣợc nhìn nhận, sắp xếp một cách có hệ thống hơn
theo tiến trình phát triển của lịch sử. Trong cuốn sách này Đỗ Thị Hảo đã
điểm danh mƣời hai gƣơng mặt nữ tác giả trong suốt tiến trình phát triển của
văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỳ XIX đó là: Lý Ngọc
Kiều, Lê Thị Yến, Ngô Chi Lan, Đoàn Thị Điểm, Trƣơng Thị (Ngọc) Trong,
Phạm Lam Anh, Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan,
Nguyễn Trinh Thận, Nguyễn Tĩnh Hòa, Nguyễn Thị Nhƣợc Bích. Ngoài ra

2


còn một số công trình nhƣ: Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn
Gia Thiều: tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận văn học
của các nhà văn, nghiên cứu Việt Nam và thế giới (Tiến Quỳnh, 1991)… Văn
học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (Trần Nho Thìn, 2012), cũng
dành một lƣợng trang viết nhất định cho tác giả nữ.

Thứ nhất về lịch sử nghiên cứu thơ văn của Hồ Xuân Hƣơng. Hồ Xuân
Hƣơng đƣợc mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, tên tuổi của bà cũng đƣợc đặt
cạnh những đại thi hào của dân tộc nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…Thơ Hồ
Xuân Hƣơng là một hiện tƣợng độc đáo, không dễ bị trộn lẫn. Với số luợng
sáng tác không nhiều nhƣng ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX đã có
nhiều chuyên luận, bài nghiên cứu, bài phân tích, bình giảng, luận văn, luận
án nghiên cứu về thơ bà. Nhiều cuốn sách viết về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác
của Hồ Xuân Hƣơng đƣợc tái bản nhiều lần1.
Nói về thiên nhiên trong sáng tác của Hồ Xuân Hƣơng, ngay từ những
năm 1955 trong cuốn Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo
dục (1955) Văn Tân đã khẳng định Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ tả chân và yêu
thiên nhiên. Trong cuốn Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của Lê Chí Viễn (1987)
nhà nghiên cứu Hoài Nam đánh giá Hồ Xuân Hƣơng là một nhà thơ yêu thiên
nhiên và thiên nhiên trong thơ bà là thiên nhiên luôn dồi dào sức sống2. Bên
cạnh đó, nhiều luận án tiến sĩ đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của thơ
Hồ Xuân Hƣơng nhƣ: Lý giải cái dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc
độ tín ngưỡng phồn thực (Đỗ Lai Thúy, 1994), Hồ Xuân Hương và nền văn
hóa dân gian (Nguyễn Thị Ngọc, 1996), Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương (Trƣơng Xuân Tiếu, 2002). Trong đó Luận

1

Nhƣ Hồ Xuân Hương tiểu sử văn bản - Tiến trình huyền thoại dân gian hóa của Đào Thái Tôn năm 1999,
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX của tác giả Nguyễn Lộc năm 2005, hay Hồ Xuân
Hương về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu (2003)…
2
Lê Trí Viễn (chủ biên) - Lê Xuân Lít - Nguyễn Đức Quyền (1987), Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, NXB Sở
Giáo dục Nghĩa Bình, tr.162.

3



án của Trƣơng Xuân Tiếu [45] đã giới thiệu khái quát về không gian nghệ
thuật trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng theo cách phân loại thành
không gian vũ trụ, không gian địa lý phong tục và không gian sinh hoạt của
con ngƣời. Còn tác giả Đỗ Lai Thúy với công triǹ h Hồ Xuân Hương , hoài
niê ̣m phồ n thực3 lại dùng phƣơng pháp tiế p câ ̣n của phân tâm ho ̣c để tim
̀ kiế m
cội nguồn và dịch chuyển của tín ngƣỡng phồn thực từ các sinh hoạt văn hoá
dân gian vào hiê ̣n tƣơ ̣ng thơ Hồ Xuân Hƣơng . Tƣ̀ góc nhiǹ này , Đỗ Lai Thuý
đã phân tić h tin
́ h lấ p lƣ̉ng của các biể u tƣơ ̣ng trong thơ Hồ Xuân Hƣơng để
chỉ ra triết lý , mỹ học phồn thực có cội nguồn dân gian trong những sáng tác
này. Có thể thấy , qua cách nhiǹ của Đỗ Lai Thuý , nhƣ̃ng hiǹ h ảnh trong thơ
Hồ Xuân Hƣơng , trong đó có hình ảnh của thế giới tƣ̣ nhiên (nhƣ: Ốc nhồi,
Quả mít,... và chùm bài vịnh cảnh , đố i đáp) tuy dƣ̣a trên nhƣ̃ng quan sát thƣ̣c
tế và đƣơ ̣c mô tả bằ ng các chi tiế t cu ̣ thể nhƣng chúng chủ yế u thuô ̣c về thế
giới biể u tƣơ ̣ng của sƣ̣ sùng ngƣỡng phồ n thƣ̣c.
Thứ hai về lịch sử nghiên cứu thơ văn Bà Huyện Thanh Quan - tác giả
nữ của những năm đầu thế kỷ XIX. Thơ bà để lại không nhiều chủ yếu là thơ
Nôm viết theo thể Đƣờng luật. Giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm nhận xét “Những bài
thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tả tình nhƣng bài nào cũng hay và tỏ ra bà
là một ngƣời có tính tình đoan chính, thanh tao, một ngƣời có học thức, thƣờng
nghĩ ngợi đến nhà đến nƣớc, lời văn rất trang nhã điêu luyện” [19, tr.396-397].
Qua khảo sát có thể thấy thơ Bà Huyện Thanh Quan đƣợc quan tâm nghiên cứu
từ khá sớm với nhiều cuốn sách đƣợc xuất bản nhƣ Luận đề về Bà Huyện Thanh
Quan của Nguyễn Sỹ Tế xuất bản năm 1953, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị
Điểm, Nguyễn Gia Thiều tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận
văn học của các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam và thế giới của Tiến Quỳnh
xuất bản năm 1991, Người đẹp Nghi Tàm cuộc đời và thơ Bà Huyện Thanh

Quan của Bội Tinh xuất bản năm 1996…

3

Đỗ Lai Thúy (in lầ n thƣ́ hai, 2010), Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực, NXB Văn ho ̣c, Hà Nội.

4


Khác đôi chút với Hồ Xuân Hƣơng, thiên nhiên trong thơ Bà Huyện
Thanh Quan đƣợc các học giả quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Trong cuốn Bà
Huyện Thanh Quan , Đoàn Thị Điểm , Nguyễn Gia Thiều tuyển chọn và trích
dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà nghiên cứu văn học
Việt Nam và thế giới (1991), soạn giả Tiến Quỳnh đã tập hợp những bài phê
bình, bình luận về thơ Huyện Thanh Quan, trong đó những bài thơ viết thiên
nhiên của Huyện Thanh Quan đƣợc nhiều nhà nghiên cứu phân tích. Chẳng
hạn, nhà nghiên cứu Phạm Văn Diêu cho rằng “tâm hồn bà là một không gian
lặng lẽ đìu hiu và thơ bà là tiếng lòng sầu muộn, những hơi thở dài chán nản”
[48, tr.8] và vì thế nên khung cảnh trong thơ văn bà Huyện Thanh Quan
thƣờng là thu cảnh và chiều tà, những cảnh mờ nhạt của cổ họa, cổ thi [48].
Một nữ tác gia nữa cũng làm tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên
cứu, đó là Đoàn Thị Điểm. Bà có biệt hiệu là Hồng Hà Nữ sĩ, một nữ sĩ tài
hoa hội tụ đủ công, dung, ngôn, hạnh, nổi tiếng về tài thơ văn đối đáp. Theo
các nhà văn bản học thì bà sáng tác nhiều nhƣng tản mát phần lớn, ngoài bản
dịch Chinh phụ ngâm bà còn là tác giả của tập truyện Truyền kì tân phả và
một số ít câu văn câu đối chữ Hán và chữ Nôm. Viết về Đoàn Thị Điểm ngoài
Thơ tình nữ sĩ Việt Nam (Kiều Văn tuyển chọn), Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm [12],
Nữ lưu văn học sử [11] còn một số luận án nhƣ Về từ ngữ Hán Việt trong bản
dịch Nôm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm4, Nhân vật người phụ nữ
trong Truyền kì Tân phả và Lan trì kiến văn học5, Nghiên cứu Đoàn Thị Điểm

qua Đoàn Thị Thực Lục6, Không gian và thời gian trong Chinh phụ ngâm
khúc7… Tuy nhiên, xét riêng về thiên nhiên trong thơ Đoàn Thị Điểm thì chƣa
thấy ai bàn luận đến.

4

Nguyễn Thúy Hồng (1988), Về từ ngữ Hán Việt trong bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm,
NXB ĐHSP Hà Nội.
5
Lê Thu Trang (2013), Nhân vật người phụ nữ trong Truyền kì Tân phả và Lan trì kiến văn học, NXB ĐHSP
Hà Nội.
6
Nguyễn Thị Thanh Vân (2007), Nghiên cứu Đoàn Thị Điểm qua Đoàn Thị Thực Lục, NXB ĐHSP Hà Nội.
7
Phạm Thị Thanh Hải (1999), Không gian và thời gian trong Chinh phụ ngâm khúc, NXB ĐHSP Hà Nội.

5


Ngoài ba nữ tác gia trên, văn học trung đại Việt Nam còn ghi nhận sự
đóng góp của nhiều nữ sĩ tài hoa nhƣ: Trƣơng Thị (Ngọc) Trong, Ngô Chi
Lan, Nguyễn Thị Nhƣợc Bích, Nguyễn Tĩnh Hòa, Nguyễn Trinh Thận… tuy
nhiên do số lƣợng tác phẩm của các tác giả nữ này không nhiều hoặc chƣa
đƣợc dịch nên việc tìm hiểu về họ còn hạn hẹp.
Từ những lƣợc điểm trên, có thể nhận thấy hầu hết các bài nghiên cứu,
chuyên luận đều tập trung tìm hiểu thân thế, sự nghiệp, tìm hiểu khát vọng
hạnh phúc lứa đôi của ngƣời phụ nữ trong văn học, còn ở một số tác giả nữ
tiêu biểu, thiên nhiên đƣợc quan tâm nhƣ một vấn đề trung gian để phục vụ
cho các mục tiêu nghiên cứu khác.
2.2. Lịch sử dẫn nhập và thử nghiệm tìm hiểu văn chương từ phê

bình sinh thái ở Việt Nam
Đƣợc manh nha vào những năm 70 của thế kỷ XX nhƣng phải đến
những năm 90 của thế kỷ XX phê bình sinh thái mới thực sự trở thành một
khuynh hƣớng nghiên cứu văn học ở Mỹ và tiếp đó lan ra nhiều nƣớc trên thế
giới. Theo Scott Slovic, phê bình sinh thái “khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về
môi trƣờng sinh thái và quan hệ giữa con ngƣời - tự nhiên trong bất kỳ văn
bản văn chƣơng nào, kể cả những văn bản (thoạt nhìn) dƣờng nhƣ không để ý
gì đến thế giới con ngƣời” [39]. Nhƣ vâ ̣y, phê bình sinh thái ra đời bổ sung
thêm mô ̣t hƣớng tiế p câ ̣n văn chƣơng, và hứa hẹn đem lại những gợi ý đối với
viê ̣c “đo ̣c” la ̣i các sáng tác thời trung đa ̣i vố n hiǹ h dung mô ̣t quan niê ̣m con
ngƣời hài hoà với thế giới tƣ̣ nhiên.
Ở Việt Nam từ sau đổi mới, giới nghiên cứu khá cởi mở trong việc tiếp
thu các luồng tƣ tƣởng, học thuyết mới nhƣng đối với phê bình sinh thái thì
vẫn còn nhiều dè dặt. Lí giải hiện tƣợng đó, Đỗ Văn Hiểu với bài viết Phê
bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân (2012)
đã chỉ ra những đặc điểm riêng khiến phê bình sinh thái gặp trở ngại cho sự

6


phát triển, mở rộng ở Việt Nam nhƣ: sự cách tân về tƣ tƣởng nòng cốt,
chuyển đổi từ tƣ tƣởng “nhân loại trung tâm luận” sang lấy “sinh thái trung
tâm luận” làm nền tảng, mang sứ mệnh mới là “nhìn nhận lại văn hóa nhân
loại”, đồng thời có nguyên tắc mỹ học riêng và xác lập đối tƣợng, phạm vi
nghiên cứu riêng.
Những dẫn nhập về phê bình sinh thái đƣợc giới thiệu ở Việt Nam chủ
yếu là qua các bài dịch của Đỗ Văn Hiểu và Hải Ngọc nhƣ Những tương lai
của Phê bình sinh thái và văn học [39] [40], Phê bình sinh thái cội nguồn và
sự phát triển [3]… và Trần Đình Sử với bài viết Phê bình sinh thái tinh thần
trong nghiên cứu văn học hiện nay [33] thì tƣ tƣởng sinh thái đã đƣợc vận

dụng để xem xét quan hệ giữa văn học và môi trƣờng văn hóa, tinh thần xã
hội. Những bài viết trên là nguồn tƣ liệu quan trọng cho giới nghiên cứu Việt
Nam vận dụng những lí thuyết của phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học.
Đến nay nghiên cứu văn học dƣới góc nhìn sinh thái học ở nƣớc ta đã có
những thử nghiệm với các bài viết Đọc cánh đồng bất tận từ điểm nhìn phê
bình sinh thái và Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp của Đặng
Thị Thái Hà, Khí quyển thơ sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ, bầu trời và
những linh hồn của Nhã Thuyên… trình bày tại một số hội thảo. Những tham
luận đó có ý nghĩa nhƣ mô ̣t thƣ̉ nghiê ̣m tìm tòi cho một hƣớng nghiên cứu
mới ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Tƣ̀ nhƣ̃ng khảo sát cu ̣ thể thế giới thiên nhiên qua ngòi bút nƣ̃ , phƣơng
thƣ́c hin
̀ h dung/biể u tả thiên nhiên, ngƣời viế t sẽ tim
̀ hiể u : 1) các chủ thể sáng
tạo văn chƣơng nữ giới này quan niệm nhƣ thế nào về mối quan hệ thiên

-

nhân quen thuô ̣c đó ; 2) quan hê ̣ chi phố i , tƣơng tác giƣ̃a diễn ngôn chung của
mô ̣t thời đa ̣i với mô ̣t bô ̣ phâ ̣n của nó là giới nƣ̃.
Nói cách khác, có thể coi đây là một thử nghiệm tiếp cận văn chƣơng từ
phê bin
̀ h sinh thái với sƣ̣ kế t hơ ̣p với góc nhiǹ giới ở mức độ nhất định.
7


4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tƣ liê ̣u : Triển khai đề tài Thiên nhiên trong sáng tác của các
nữ tác giả Việt Nam thời trung đại - nhìn từ phê bình sinh thái, tôi sử dụng

các tác phẩm đƣợc tuyển chọn trong cuốn Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam
với các tác giả nữ nhƣ: Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Trƣơng Thị
(Ngọc) Trong, Nguyễn Trinh Thận, Nguyễn Tĩnh Hòa…. Ngoài ra, ngƣời viết
cũng tham khảo các tuyể n tâ ̣p thơ văn riêng biê ̣t của những nhà văn nƣ̃ tiêu biể
. u
- Phạm vi vấn đề : Luâ ̣n văn chỉ tâ ̣p trung tìm hiể u các sáng tác của các
nhà văn nữ thời trung đại viết về thiên nhiên với tƣ cách một môi trƣờng sống
chứ không tìm hiểu toàn bộ thế giới văn thơ của họ.
Trong thực tế, đề tài có phầ n liên quan đ ến một hƣớng tiếp cận khác là
giới và đòi hỏi phải đƣợc xử lý cả từ góc nhìn nhƣ vậy mới thấu đáo. Tuy
nhiên, do khuôn khổ hạn hẹp của một tiểu luận Cao học, chúng tôi xin đƣợc
gác lại đòi hỏi này, hy vọng sẽ có dịp trở lại trong một dịp khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Do đố i tƣơ ̣ng và pha ̣m vi nghiên cƣ́u quy đinh
, phƣơng pháp chủ yếu
̣
của luận văn là vận dụng kết hợp giữa phƣơng pháp văn học sử và phƣơng
pháp liên ngành để giải quyết vấn đề. Đồng thời, luâ ̣n văn sẽ kế t hơ ̣p phân tić h, lý
giải các sáng tác về thiên nhiên của giới nữ cầm bút thời trung đại Việt Nam với
nhƣ̃ng gơ ̣i ý của phê bin
̣c thi thoảng với vấn đề giới).
̀ h sinh thái ho(và
Tấ t cả những tiế p câ ̣n trên sẽ đƣơ ̣c cu ̣ thể hoá thành thao tác nhƣ : phân
tích, thống kê, so sánh, để từ đó có cái nhìn chi tiế t , đầ y đủ và chiń h xác các
nô ̣i dung nghiên cƣ́u.
6. Đóng góp của đề tài
Với đề tài này, Luâ ̣n văn sẽ góp phầ n làm rõ thêm mô ̣t vài phƣơng diê ̣n
của đời sống văn chƣơng Việt Nam thời trung đại , nhƣ: đă ̣c điể m của nhóm
tác giả nữ trong cách cảm nhận và hình dung môi trƣờng thiên nhiên


8

, thiên


nhiên trong văn chƣơng nhƣ mô ̣t phản chiế u của quan niê ̣m về quan hê ̣ con
ngƣời [nữ] với thế giới tƣ̣ nhiên.
Nguy cơ sinh thái đang là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến sự tồn
vong của nhân loại. Với việc nghiên cứu “Thiên nhiên trong sáng tác của các
nữ tác giả Việt Nam thời trung – nhìn từ phê bình sinh thái” chúng tôi thử
nghiệm một cách tiếp cận mới với sáng tác của các nữ tác giả trung đại. Bằng
việc thống kê và dựng lại bức tranh thiên nhiên của các tác giả nữ, luận văn sẽ
chỉ ra các đặc điểm của việc thể hiện đề tài này qua cái nhìn của ngƣời viết
[nữ]. Và thiên nhiên ở đây sẽ đƣợc luận giải chủ yếu nhƣ một môi trƣờng
sống, thể hiện qua cách hình dung [nữ] về mối quan hệ giữa con ngƣời và
thiên nhiên, tác động giữa con ngƣời với tự nhiên và ngƣợc lại trong thời kì
trung đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN, và danh mục TÀI LIỆU THAM
KHẢO, luận văn đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung
Chƣơng 2: Toàn cảnh thiên nhiên trong sáng tác của các cây bút nữ
Viêṭ Nam thời trung đa ̣i
Chƣơng 3: Thiên nhiên – hình dung và biểu tả của nữ giới về môi
sinh trong văn hoá thời trung đa ̣i

9


NỘI DUNG

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thiên nhiên trong quan niệm Việt Nam thời trung đại
1.1.1. Quan niệm của tam giáo về quan hệ thiên – nhân
Quan niệm của Phật giáo về mối quan hệ thiên - nhân
Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông, đã tạo nên sự hòa hợp con ngƣời và
thế giới bên ngoài , trong đó có tự nhiên, xóa bỏ ranh giới ta – vật, nội tâm –
ngoại cảnh, trạng thái hòa hợp đó cùng với quan niệm “đối cảnh vô tâm”
đƣợc coi là chuẩn mực trong cách ứng xử với tự nhiên, xã hội. Bên cạnh đó,
Phật giáo coi thiên nhiên là sự bảo đảm cho trạng thái cân bằng của con ngƣời
vì vậy con ngƣời phải có nghĩa vụ đối với thế giới tự nhiên. Nói cách khác
đây là vấn đề đạo đức sinh thái mà Phật giáo đã đặt ra cho con ngƣời.
Phật giáo coi chúng sinh bình đẳng ở Phật tính. Phật giáo Đại thừa xem
vạn pháp đều có Phật tính. Vạn pháp này không chỉ bao gồm loài vật hữu tình
mà bao gồm cả thực vật, vật vô cơ không có tình cảm ý thức. Đại sƣ Trạm
Nhiên (711–782) của Thiên Thai Tông định nghĩa rõ ràng: “Loài vô tình có
tính giác là chỉ sông núi, đất đai, gạch đá… không có tình cảm ý thức đều có
phật tính” [17, tr.128]. Thiền Tông còn nhấn mạnh hơn “Hoa vàng thơm ngát
không gì chẳng phải là Bát – nhã, trúc biếc xanh tƣơi há lại chẳng phải là
Pháp thân” [17, tr.128] Dựa trên những nguyên lý này ta có thể thấy theo Phật
giáo một cành cây, ngọn cỏ đều có giá trị tồn tại của nó, hành vi của con
ngƣời phải có lợi ích cho sự cộng tồn của vạn vật, yêu quý thiên nhiên cũng
chính là bổn phận của mỗi con ngƣời.
Hơn thế, Phật giáo chủ trƣơng hiếu sinh, luôn răn bảo con ngƣời không
sát sinh. Theo thuyết vũ trụ học của Phật giáo thì có hàng hà sa số các thế giới
và chủng loài, vì vậy mỗi con ngƣời cần phải mở rộng tấm lòng từ bi hỉ xả
10


của mình với tất cả các loài dù là có nhìn thấy hay không nhìn thấy. Tất cả các

loài có sự sống và không có sự sống trong thiên nhiên đều có mối liên hệ mật
thiết với nhau, giúp đỡ nhau để sinh tồn lâu dài hơn. Phật giáo vì vậy đƣợc coi
là một tôn giáo thân thiện với môi trƣờng, đề xuất một chuẩn mực đạo đức
môi sinh cho con ngƣời.
Quan niệm của Nho giáo về mối quan hệ thiên – nhân
Nếu Phật giáo đề xuất tƣ tƣởng thiên nhân bất nhị (con ngƣời và thế
giới sinh tồn là một) thì Nho giáo lại chủ trƣơng con ngƣời và thiên nhân hợp
nhất, coi sự hài hòa giữa con ngƣời và thiên nhiên là chuẩn mực sống của
nhân sinh.
Nho giáo là một học thuyết đạo đức, quan tâm các quan hệ ứng xử của
con ngƣời trong gia đình và xã hội nhƣ “tam cƣơng ngũ thƣờng”, “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”… Tuy xuất phát từ mối quan tâm đến cuộc sống xã hội
của con ngƣời nhƣng Nho giáo cũng có những luận bàn cụ thể về quan hệ của
con ngƣời với thế giới bên ngoài, nhất là từ thời kỳ Tống Nho.
Nho giáo quan niệm rằng, con ngƣời sở dĩ có vị trí hàng đầu là bởi hội
tụ mọi tinh hoa của vạn vật trong trời đất "Thủy hỏa hữu khí nhi vô sinh, thảo
mộc hữu sinh nhi vô tri, cầm thú hữu tri nhi vô nghĩa. Nhân hữu khí, hữu
sinh, hữu tri diệc thả hữu nghĩa. Cố tối vi thiên hạ quý dã" (Nƣớc lửa có khí,
nhƣng không có sự sống, cây cỏ có sự sống, nhƣng không hiểu biết, cầm thú
hiểu biết nhƣng lại không có nghĩa. Con ngƣời có khí, có sự sống có hiểu biết
lại có nghĩa. Do đó con ngƣời là quý nhất trên đời) [13, tr.11].
Đổng Trọng Thƣ cũng nhận thấy con ngƣời có địa vị trọng yếu giúp trời
đất mà hoàn thành vạn vật. Ông khẳng định: trời, đất, âm, dƣơng, mộc, hỏa,
thổ, kim, thủy, cộng với ngƣời nữa là mƣời, đến đó là con số của trời. Nhƣ
vậy theo ông khi con ngƣời đạt đƣợc khí, có sự sống, có hiểu biết…thì con
ngƣời sẽ đạt tới con số của trời tức là sự hoàn thiện, hoàn mỹ, mới trở thành

11



ngƣời đứng đầu vạn vật [13, tr.11]. Mặc dù xếp con ngƣời vào vị trí hàng đầu
trong tự nhiên nhƣ vậy nhƣng Nho giáo cũng nhận thấy rằng con ngƣời và tự
nhiên luôn hài hòa với nhau. Nho giáo nhìn vũ trụ thành trời, đất và ngƣời,
nhƣng cho rằng ba bộ phận này hài hòa thể hợp trong một “thiên nhân hợp
nhất”. Theo đó mỗi bộ phận trên cơ thể con ngƣời đều tƣơng ứng với một
thực tiễn tự nhiên, mỗi đặc tính của con ngƣời sẽ là một đặc tính của thiên
nhiên phù hợp, con ngƣời có cái gì thì trời có cái đó và ngƣợc lại "Nhân hữu
tam bách lục thập tiết, ngẫu nhiên chi số dã; hình thể cốt nhục, ngẫu địa chi
hậu dã; thƣợng hữu nhĩ mục thông minh, nhật nguyệt chi tƣợng dã; thể hữu
không khiếu lý mạch, xuyên cốc chi tƣợng dã" (Ngƣời có ba trăm sáu chục
đốt xƣơng, số đó tƣơng phù với số của trời; hình thể xƣơng thịt của ngƣời hợp
với hình thể dày dặn của đất, trên có tai mắt sáng tỏ là hình tƣợng của mặt
trời, mặt trăng, đó là hình tƣợng của sông, hang) [13, tr.15-16].
Nhìn chung, triết lý Nho giáo về con ngƣời cố gắng chứng minh con
ngƣời luôn gắn liền với trời đất, là hạt nhân của trời đất, hòa quyện với trời
đất, là cầu nối giữa trời và đất. Con ngƣời không chỉ đƣợc hình dung là sản
phẩm của giới tự nhiên một cách trừu tƣợng mà còn đƣợc cụ thể hóa là kết
quả của sự giao cảm giữa trời và đất, giữa âm và dƣơng.
Quan điểm của Đạo giáo về mối quan hệ thiên - nhân
Nhƣ đã nói ở trên, Nho giáo là một học thuyết đạo đức, chính trị, chủ
trƣơng cai trị bằng Đức thông qua những quy ƣớc ứng xử gọi là Lễ. Quan
niệm này bị Lão Tử “phản ứng” lại bởi tính chất “nhân vi”. Thay vào đó, Lão
Tử chủ trƣơng phải thuận theo tự nhiên.
Đối với Lão Tử, nguyên thủy của vũ trụ và vạn vật là Đạo. Đạo là thể
vô hình vô tƣớng, không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Ở chƣơng bốn,
sách Đạo đức kinh ông viết: “Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất danh, uyên hề
tự vạn vật chi tôn. Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần,

12



trạm hề tự hoặc tồn” (Đạo bản thể thì hƣ không mà tác dụng thì vô cùng, nó
uyên áo mà tựa nhƣ làm chủ mọi vật. Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những
rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục, nó sâu kín mà dƣờng nhƣ trƣờng
tồn) [14, tr.11-12]. Cũng trong sách này, Lão Tử khẳng định “Nhân pháp Địa,
Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên” (Ngƣời bắt chƣớc Đất,
Đất bắt chƣớc Trời, Trời bắt chƣớc Đạo, Đạo bắt chƣớc Tự nhiên). Có thể
thấy Lão Tử đã coi tự nhiên là điểm đầu và cũng là tối thƣợng của vũ trụ. Từ
quan điểm này, Lão Tử khẳng định triết lý sống tối ƣu là vô vi với ý nghĩa
không làm những gì trái với tự nhiên.
Phát triển tƣ tƣởng của Lão Tử, Trang Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động,
xóa nhòa mọi ranh giới giữa con ngƣời với tự nhiên, giữa tồn tại và hƣ vô.
Trang Tử đề xuất quan điểm con ngƣời cần biết hƣởng thụ tự nhiên, ông đề
xuất tƣ tƣởng “tiêu dao phóng nhiệm”.
Tựu chung, Lão Trang chủ trƣơng trở lại với trật tự thế giới vốn có, cổ
súy sống theo tự nhiên, hòa nhập vào tự nhiên, hƣởng thụ tự nhiên. Thiên
nhiên là nguyên tố hàng đầu của vũ trụ và con ngƣời vì thế con ngƣời có bổn
phận thuận theo tự nhiên.
Có thể thấy Nho, Phật, Đạo là ba học thuyết quan trọng có ảnh hƣởng
lớn đến tƣ tƣởng, đạo đức và văn hóa văn chƣơng Việt Nam thời trung đại,
tuy có xuất phát điểm quan tâm khác nhau nhƣ: Nho giáo quan tâm đến xã hội
loài ngƣời, Phật giáo quan tâm đến đời sống tâm linh, còn Đạo giáo lại coi
trọng mô hình đời sống tự nhiên, nhƣng cả ba học thuyết này lại có điểm gặp
gỡ là khẳng định sự gắn bó, quan hệ hài hòa giữa con ngƣời và tự nhiên.
1.1.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam
Sáng tác về thiên nhiên chịu ảnh hưởng của Phật giáo
Phật giáo có ảnh hƣởng đến đời sống và văn hóa Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, tuy nhiên nó có ảnh hƣởng sâu

13



đậm nhất ở thời kỳ Lý - Trần. Vì vậy, ở đây chúng tôi xin khoanh lại phạm vi
khảo sát trong giai đoạn Lý - Trần nhƣ một trƣờng hợp tiêu biểu về ảnh
hƣởng của quan niệm Phật giáo (Thiền) đối với sáng tác văn chƣơng thời
trung đại.
Vào thời Lý, Phật giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần dân
tộc. Văn học thời kỳ này vì thế mang đậm tinh thần Phật giáo với lực lƣợng
sáng tác chủ yếu là các nhà sƣ. Đáp ứng nhu cầu truyền bá rộng rãi đạo Phật
các nhà sƣ đã tìm cách thể hiện những triết lý Phật giáo vốn trừu tƣợng qua
hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động. Và họ đã tìm thấy một phƣơng tiện
hữu hiệu là văn thơ, đặc biệt là thơ.
Phật giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ này cùng chung một bản thể.
Cùng một bản thể mà lại biến hóa và biểu hiện dƣới muôn vàn dạng thức khác
nhau. Cũng nhƣ con ngƣời, trời đất và muôn loài chẳng qua chỉ là cùng một
thể chất. Với quan niệm ấy, văn học Thiền Tông đã dễ dàng đem nhập con
ngƣời làm một với thiên nhiên. Đoàn Văn Khâm trong Vãn Quảng Trí thiền
sư đã tỏ lòng thƣơng tiếc nhà sƣ vừa qua đời:
Đạo lữ bất tu thƣơng vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thủy thị chân hình
(Các bạn tu hành chớ nên đau thƣơng vì nỗi vĩnh biệt,
Núi sông trƣớc chùa trông xa, ấy là hình ảnh chân thực của
ngƣời)
Nhƣ vậy quan niệm của Phật đồng nhất bản thể của con ngƣời với thiên
nhiên. Cho dù nhà sƣ có mất đi thì đó chỉ là sự hủy diệt về thân xác, còn bản
thể của nhà sƣ vẫn tồn tại mãi trong thiên nhiên, cỏ cây, sông núi.
Hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong thơ văn thời Lý không chỉ giúp
các nhà sƣ giảng dạy lý thuyết nhà Phật của họ mà còn bày tỏ quan niệm về
sự hài hòa giữa vạn vật và con ngƣời. Trong bài Cáo tật thị chúng, Mãn Giác
14



thiền sƣ đã làm sáng tỏ cho quan niệm "sắc không" của nhà Phật qua sự đối
sánh giữa thời gian tuần hoàn của vũ trụ với thời gian ngắn ngủi của đời
ngƣời, đồng thời thể hiện niềm hi vọng của con ngƣời trong cuộc sống:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thƣợng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa nở.
Việc đời trôi qua trƣớc mắt,
Cảnh già hiện ra trên mái đầu.
Chớ bảo rằng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trƣớc một nhành mai.)
Còn Vạn Hạnh thì chủ trƣơng con ngƣời cũng nhƣ muôn vật không thể
thoát khỏi lẽ sinh hóa:
Thân nhƣ điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy nhƣ lộ thảo đầu phô.
(Thân nhƣ bóng chớp có rồi không,
Cây cối xuân tƣơi thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sƣơng đông.)
(Thị đệ tử - Dặn học trò)

15



Ngƣời không giác ngộ thƣờng sợ hãi, đau buồn trƣớc cái chết. Còn bậc
tu hành có thể vƣợt lên trên “sự biến động vô thƣờng” mà đến với cái đại ngã
của vũ trụ. Đó là tinh thần “vô úy” chấp nhận sự kết thúc của một dạng thức
tồn tại, hƣớng tới bản thể trƣờng tồn. Đó là sự hài hòa giữa nội tâm và ngoại
cảnh đạt đến cảnh giới cao của Phật giáo . Trạng thái này đƣợc nhánh Phật
giáo Thiền tông của Viê ̣t Nam thể hiê ̣n khá nhiề u ở s ự hài hòa giữa con ngƣời
và thiên nhiên trong thơ văn.
Không chỉ thể hiện những yếu chỉ của Phật giáo mà sáng tác của các
nhà sƣ thời kỳ này còn thể hiện mối lo đối với đất nƣớc:
Quốc tộ nhƣ đằng lạc,
Nam thiên lí thái bình.
Vô vi cƣ điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
(Ngôi nƣớc nhƣ dây leo quấn quýt
Ở góc trời nam mở ra cảnh thái bình
Dùng đƣờng lối vô vi ở nơi cung điện
Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh)
(Quốc sƣ Pháp Thuận - Quốc tộ - Vận nƣớc)
Tác giả mƣợn hình ảnh cây đằng lạc – mô ̣t sinh vâ ̣t t ự nhiên để nói về
mối lo đối với đất nƣớc, giang sơn. Đất nƣớc muốn đƣợc thái bình thịnh trị thì
trên dƣới triều đình phải đoàn kết nhƣ cây đằng lạc – sống quấn quýt, bền
chặt thì mới có sức mạnh. Ở đây tác giả cũng đề xuất ý niệm trong trị quốc,
đó là dùng Đức trị - lấy Đức giáo hóa chúng dân. Tâm thế của nhà sƣ là tâm
thế rất đặc biệt của con ngƣời thời đó. Thiên nhiên lúc này không chỉ gắn với
số phận của một cá nhân riêng lẻ mà nó là biểu tƣợng của vận nƣớc – của
cộng đồng ngƣời rộng lớn, tƣơng đồng với vận mệnh đất nƣớc.

16



Nếu nhƣ trong thời kỳ Phật giáo chiếm vị trí độc tôn, thiên nhiên trong
thơ văn thời Lý gắn liền với những thuyết giáo của nhà Phật thì đến đời Trần
xu hƣớng tam giáo đồng nguyên bộc lộ mạnh mẽ, văn học chịu ảnh hƣởng của
cả Nho, Phật, Đạo thì thiên nhiên trong thơ văn lúc này lại có những sắc thái bổ
sung. Ngƣời viết bắt đầu chú ý đến miêu tả cuộc sống bình dị xung quanh:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dƣơng biên.
Mục đồng địch lý ngƣu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Xóm trƣớc, thôn sau tựa khói lồng,
Bóng chiều nhƣ có thoắt dƣờng không.
Mục đồng thổi sáo trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.)
(Trần Nhân Tông - Thiên Trƣờng vãn vọng –
Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trƣờng trông ra)
Bài thơ tƣ̣a nhƣ một bức tranh phong cảnh thực, không biểu tƣợng,
không ẩn dụ, điển tích. Thiên nhiên gần nhƣ độc chiếm, chỉ có một hình bóng
nhỏ của con ngƣời (mục đồng) chìm trong cảnh. Nhìn và khắc họa ngƣời –
cảnh nhƣ thế rõ ràng phản ánh một hàm ý đặc biệt về môi sinh.
Trong một tình huống khác, thiên nhiên lại đƣợc các nhà thơ vay mƣợn
để giãi bày, bộc lộ tâm sự. Ân hận, day dứt khôn nguôi suốt ba mƣơi năm vì
một quyết định sai lầm của mình mà dẫn đến cái chết vô tội của hàng trăm
ngƣời trong vụ án Trần Quốc Chẩn (1328) Trần Minh Tông đã mƣợn cảnh vật
để giãi bày:
Thu khí hòa đăng thất thự minh,
Bích điêu song ngoại độ tàn canh.
Tự tri tam thập niên tiền thác,


17


Khẳng bã nhàn sầu đối vũ thanh.
(Hơi thu hòa cùng ánh đèn mờ đi trƣớc ánh ban mai,
Giọt mƣa rơi trên tàu là chuối ngoài song cửa tiễn canh tàn.
Tự biết sai lầm của mình ba mƣơi năm trƣớc,
Nay đành ôm sầu ngồi nghe mƣa rơi.)
(Trần Minh Tông – Dạ vũ – Mƣa đêm)
Còn Trần Nhân Tông lại viết về mùa xuân với những tín hiệu đầy sức sống:
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quý.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
(Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chửa hay.
Song song đôi bƣớm trắng,
Phấp phới sấn hoa bay)
(Xuân hiểu – Sớm xuân)
Không gian vũ trụ đƣợc miêu tả bằng những gì tinh khôi, trong sáng
nhất. Con ngƣời trƣớc thiên nhiên đó mang một tâm thế ngƣỡng mộ, tin yêu.
Thiên nhiên lúc này trở thành phƣơng tiện để nhà thơ bộc lộ tình yêu đối với
vẻ đẹp của đất nƣớc, tâm hồn con ngƣời và thiên nhiên nhƣ đƣợc hòa làm một.
Nhƣ vậy dƣới ảnh hƣởng của Phật giáo, thiên nhiên trong thơ Lý – Trần
là phƣơng tiện để các tác giả thể hiện những giáo lý đạo đức, bày tỏ cảm xúc
trƣớc thiên nhiên đất nƣớc; đồng thời qua miêu tả thiên nhiên các tác giả còn
thể hiện quan niệm riêng về sự giao hòa giữa con ngƣời và tự nhiên.
Sáng tác về thiên nhiên chịu ảnh hưởng của Nho giáo
Triết lí của Nho giáo về mối quan hệ con ngƣời – tự nhiên nhƣ trình bày
ở mục 1.1.1 đã chi phối mảng sáng tác về thiên nhiên kéo dài từ thế kỉ XV


18


đến thế kỉ XIX. Bên cạnh đó, nguyên tắc sáng tạo “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ
ngôn chí” của Nho giáo cũng sẽ ƣớc thúc cách biểu tả của các tác giả thời kì
này. Toàn bộ những nguyên lý đó sẽ đƣợc ba mẫu tác giả Nho gia thể hiện với
những điểm nhấn khác nhau trong các sáng tác về thế giới thiên nhiên.
Đối với mẫu hình nhà nho hành đạo, văn chƣơng của họ chịu ảnh
hƣởng sâu sắc của nguyên tắc sáng tác “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” –
văn chƣơng là nơi nói chí, bày tỏ quan điểm, cách hành xử của nhà nho trƣớc
cuộc đời, để truyền thụ giáo lí thánh hiền, là phƣơng tiện để các nhà nho bộc
lộ cái chí “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Văn chƣơng cũng chính là hành vi
lập ngôn của ngƣời quân tử. Thiên nhiên trong sáng tác của các nhà nho vì thế
cũng trở thành phƣơng tiện để nói chí, để thể hiện cốt cách của Nho gia.
Những nhà nho hành đạo là những ngƣời có cơ hội đi ngao du sơn thủy,
họ đƣợc đặt chân đến nhiều vùng miền khác nhau của đất nƣớc và qua mỗi
vùng miền đó cảnh vật của núi non, cây cỏ, đặc biệt là các danh lam thắng
cảnh di tích lại đƣợc họ thu vào tầm mắt, ghi lại vào trong thơ. Văn thơ viết
về các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử thể hiện niềm tự hào về những
chiến công oanh liệt của dân tộc. Những địa danh nhƣ sông Bạch Đằng trở
thành biểu tƣợng cho chiến công lịch sử:
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích triết ngạn tầng tầng
(Gió bấc thổi trên biển khí thế bừng bừng
Nhẹ kéo buồm thơ qua cửa Bạch Đằng
Nhƣ cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một
Nhƣ cây giáo bị chìm, cây kích bị gãy, bên bờ lớp lớp chồng lởm chởm)

(Bạch Đằng hải khẩu – Cửa biển Bạch Đằng)

19


×