Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Vấn đề thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên báo chí việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 147 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ THẢO

VẤN ĐỀ THÔNG TIN TƢ VẤN, CHỈ DẪN
AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ THẢO

VẤN ĐỀ THÔNG TIN TƢ VẤN, CHỈ DẪN
AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ THANH KIM

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả, số liệu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố ở bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả Luận văn

Trần Thị Thảo


LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Vấn đề thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên báo
chí Việt Nam” được hoàn thành với sự giúp đỡ rất nhiều của thầy cô giáo, anh chị
em đồng nghiệp hoạt động trong lĩnh vực báo chí truyền thông và các chuyên gia,
nhà quản lý trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
Tôi xin gửi lời kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê Thanh Kim, người
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Trân trọng gửi lời cảm ơn toàn thể thầy giáo, cô giáo tham gia giảng dạy lớp
Cao học báo chí K17 đã tận tình truyền đạt, cập nhật cho chúng tôi vốn kiến thức
mới quý báu, tạo nền tảng vững chắc giúp tôi cùng các học viên nghiên cứu về lĩnh
vực báo chí học.
Cảm ơn các anh chị em học viên lớp Cao học báo chí K17 đã sát cánh cùng
tôi trong suốt thời gian học tập.
Luận văn tất yếu còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của
các thầy cô giáo và sự góp ý của bạn đọc quan tâm.
Xin trân trọng cảm ơn!
Bắc Ninh, tháng 6 năm 2016
Người viết


Trần Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài ..........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .....................................................................7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .........................................................7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ...............................................................8
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................8
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................10
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài............................................................10
1.1.1.Thông tin và thông tin báo chí ..................................................................10
1.1.2.Thông tin tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí ......................................................12
1.1.3. An toàn thực phẩm ...................................................................................14
1.1.4. Thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm ..........................................14
1.2. Nhu cầu thông tin tư vấn, chỉ dẫn của công chúng về vấn đề an toàn thực phẩm .15
1.2.1. Nhu cầu tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí trong bối cảnh truyền thông hiện đại 15
1.2.2. Sơ lược về hoạt động thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên
các loại hình báo chí ..........................................................................................16
1.3. Đặc trưng của các loại hình báo chí với thông tin tư vấn, chỉ dẫn .................18
1.3.1. Báo in .......................................................................................................18
1.3.2. Phát thanh ................................................................................................20
1.3.3. Truyền hình ..............................................................................................22
1.3.4. Báo điện tử ...............................................................................................23
1.4. Một số vấn đề chung về an toàn thực phẩm ...................................................24
1.4.1. Chính sách của Nhà nước về vấn đề quản lý an toàn thực phẩm ............24
1.4.2. Thực trạng vấn đề an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay .......................26

1.4.3. Tuyên truyền an toàn thực phẩm - Trách nhiệm của báo chí ..................29
Tiểu kết chương 1: ....................................................................................................31


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THÔNG TIN TƢ VẤN, CHỈ DẪN AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM ......................................................33
2.1. Vài nét về đối tượng nghiên cứu ...................................................................33
2.1.1. Báo Sức khỏe và Đời sống ......................................................................33
2.1.2. Các chương trình phát thanh về sức khỏe của hệ VOV2.........................36
2.1.3. Chương trình “Cuộc sống thường ngày” .................................................39
2.1.4. Báo điện tử Chất lượng Việt Nam online-VietQ.vn ................................42
2.2. Nội dung thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm ..................................44
2.2.1. Tư vấn, chỉ dẫn chính sách, pháp luật an toàn thực phẩm ......................45
2.2.2. Tư vấn, chỉ dẫn phương pháp lựa chọn, bảo quản, chế biến, sử dụng thực
phẩm an toàn ......................................................................................................48
2.2.3. Thông tin về chất cấm và chỉ số quy định ...............................................52
2.2.4. Thông tin cảnh báo, khuyến cáo và tư vấn phòng tránh ngộ độc thực phẩm .56
2.2.5. Phổ biến kinh nghiệm, công bố kết quả nghiên cứu và những phát hiện mới 60
2.2.6. Giải đáp thắc mắc ....................................................................................62
2.3. Cách thức thể hiện thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên báo chí ....66
2.3.1. Đơn giản, cụ thể, chi tiết ..........................................................................66
2.3.2. Dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo ...................................................................68
2.3.3. Tính khoa học, chính xác .........................................................................68
2.3.4. Tính thời vụ và sự kiện ............................................................................69
2.3.5. Người tham gia tư vấn, chỉ dẫn ...............................................................70
2.4. Các thể loại báo chí được sử dụng để thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm 74
2.4.1. Tin ............................................................................................................75
2.4.2. Phỏng vấn ................................................................................................76
2.4.3. Bài phản ánh ............................................................................................76
2.4.4. Các thể loại khác ......................................................................................76

2.5. Đánh giá chung về hoạt động thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm
trên báo chí ............................................................................................................77
2.5.1. Hiệu quả ...................................................................................................77
2.5.2. Hạn chế, bất cập .......................................................................................80
Tiểu kết chương 2: ....................................................................................................85


CHƢƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THÔNG TIN TƢ VẤN, CHỈ DẪN AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN
BÁO CHÍ VIẸT NAM ............................................................................................86
3.1. Những vấn đề đặt ra về hoạt động thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm
trên báo chí .............................................................................................................86
3.1.1. Nhu cầu của công chúng về thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm ...86
3.1.2. Trách nhiệm của báo chí ..........................................................................94
3.2. Khuyến nghị một số giải pháp ......................................................................104
3.2.1. Đối với các cơ quan chức năng ..............................................................104
3.2.2. Đối với người sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm .....106
3.2..3. Đối với các cơ quan báo chí..................................................................106
Tiểu kết chương 3: ..................................................................................................112
KẾT LUẬN ............................................................................................................114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................117
PHỤ LỤC ...............................................................................................................121


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATTP:

An toàn thực phẩm

KHXH&NV:


Khoa học xã hội và Nhân văn

KH&CN:

Khoa học và Công nghệ

TCĐLCL:

Tiêu chuẩn đo lường chất lượng

SK& ĐS:

Báo Sức khỏe và Đời sống


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Tỷ suất thời lượng thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP của ba chương trình
phát thanh chuyên đề sức khỏe trên hệ VOV2 trong hai năm 2014 và 2015 (%) ....39
Bảng 2.2: Tỷ suất nội dung tư vấn, chỉ dẫn ATTP trên 4 loại hình báo chí (%) ......45
Bảng 2.3: Nhóm đối tượng tham gia tư vấn, chỉ dẫn ATTP xuất hiện trong các sản
phẩm báo chí (%) ......................................................................................................71
Bảng 2.4: Tỷ lệ sản phẩm báo chí tư vấn, chỉ dẫn ATTP chia theo thể loại trên mỗi
loại hình (%) ..............................................................................................................75
Bảng 3.1: Kênh thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP được công chúng lựa chọn (%) ....90
Biểu 3.2: Mức độ hài lòng của công chúng về nội dung thông tin tư vấn, chỉ dẫn
ATTP trên báo chí Việt Nam (%) .............................................................................91
Biểu 3.3: Đánh giá của công chúng về hình thức thể hiện thông tin tư vấn, chỉ dẫn
ATTP trên báo chí Việt Nam (%) .............................................................................91
Biểu 3.4: Sự thuận tiện của loại hình báo chí trong việc thông tin tư vấn, chỉ dẫn

ATTP qua đánh giá của công chúng (%) ..................................................................92
Biểu 3.5: Sự cần thiết của việc thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP trên báo chí (%) ....93


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, trong cuộc cách mạng về dinh dưỡng, mọi người trên
thế giới đều mong muốn có một cuộc sống an toàn, hạnh phúc với một chế độ dinh
dưỡng tốt hơn để được sống lâu hơn. Thực phẩm chính là nguồn cung cấp các chất
dinh dưỡng cần thiết để con người sống và phát triển. Tuy nhiên, thực phẩm cũng
chính là nguồn truyền bệnh nguy hiểm nếu như không bảo đảm được vệ sinh và an
toàn. Dân gian có câu “Họa do xuất khẩu, bệnh tòng nhập khẩu” có nghĩa là “họa do
mồm mà ra, bệnh do đường miệng mà vào”. Sức khỏe của mỗi người, sức khỏe của
cộng đồng phụ thuộc rất nhiều vào việc ăn uống. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
lương thực, thực phẩm chính là nguyên nhân đã gây ra khoảng 50% các trường hợp
tử vong đối với con người trên toàn thế giới hiện nay. Vì vậy, bảo đảm vệ sinh ATTP
giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ
mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế-xã hội và thể hiện nếp sống văn hóa, văn minh.
Tại Việt Nam, ATTP đang là vấn đề nhức nhối trong xã hội. Thống kê của
Cục ATTP - Bộ Y tế cho thấy, số vụ ngộ độc thực phẩm hàng năm vẫn ở mức cao,
hàng ngàn người phải nhập viện, hàng chục người tử vong mà nguyên nhân bắt
nguồn từ các vụ ngộ độc thực phẩm. Các vụ ngộ độc thực phẩm có diễn biế n phức
tạp ở các bếp ăn tập thể , bữa ăn đông người , thức ăn đường phố , bế p ăn gia đình
trên pha ̣m vi cả nước . Nguyên nhân của các vụ việc này chủ yếu là do thực phẩm
mất vệ sinh và thiếu an toàn từ các cơ sở sản xuất, chế biến.
Đáng nói là vấn đề ATTP đang thu hút sự chú ý chưa từng thấy của toàn xã
hội với rất nhiều mối lo ngại về thực phẩm bẩn đang có xu hướng lan rộng về phạm
vi, xuất hiện ngày càng nhiều loại virus, vi khuẩn, chất độc hại tồn dư, tiềm ẩn trong
thực phẩm. Ăn gì, uống gì đã trở thành mối lo lắng, nghi ngại thường trực trong suy

nghĩ của mỗi người. Không chỉ là vấn đề nhức nhối ngoài xã hội mà ATTP còn làm
nóng cả nghị trường Quốc hội. Tại phiên chất vấn kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa
XIII diễn ra ngày 16/11/2015, sau khi dẫn nhiều ví dụ về thịt lợn có chất cấm, chuối
1


ngâm thuốc trừ sâu, rau quả có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép,
đại biểu Trần Ngọc Vinh đã phải thốt lên rằng “Có thể nói con đường từ dạ dày đến
nghĩa địa của mỗi chúng ta chưa bao giờ ngắn và dễ dàng đến thế…”.
Trước thực trạng nhức nhối và những diễn biến phức tạp của vấn đề ATTP
thì hoạt động truyền thông giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm
ATTP. Trong bối cảnh đó, báo chí chính là một trong những kênh thông tin quan
trọng mà người dân có thể dễ dàng tiếp cận qua những hình thức khác nhau như
báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử. Báo chí cũng có một chức năng quan
trọng là chức năng giáo dục, nâng cao dân trí cho công chúng. Do đó, việc báo chí
cung cấp những thông tin mang tính chất tư vấn, chỉ dẫn là một việc làm hết sức
cần thiết. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, dưới sự ảnh hưởng của truyền
thông xã hội đã làm thay đổi diện mạo đời sống báo chí truyền thống. Ranh giới
giữa truyền thông xã hội và báo chí đôi khi cũng bị xóa nhòa bởi không ít tin tức
xã hội được đăng tải dưới vỏ bọc ẩn danh, nặc danh khiến công chúng mất dần
niềm tin vào báo chí chính thống. Sự trà trộn thái quá của các trang tin điện tử
cũng khiến nhiều người khó phân biệt được thông tin thật, giả. Ở một bình diện
khác, con người trong cuộc sống hiện đại ngày càng nảy sinh những nhu cầu mới,
đa dạng, trong đó thông tin là nhu cầu nổi bật và ngày càng gia tăng, đặc biệt là
thông tin tư vấn, chỉ dẫn trên mọi lĩnh vực. Vậy nên, trong môi trường truyền
thông hiện đại ngày nay, báo chí cần nắm bắt được những xu hướng nhu cầu của
công chúng, từ đó phát huy tốt hơn nữa chức năng thông tin giáo dục, phổ biến
kiến thức để định hướng thông tin cho họ.
Những năm gần đây, trên các loại hình báo chí Việt Nam xuất hiện ngày
càng nhiều các chương trình, chuyên mục có chứa hàm lượng thông tin tư vấn, chỉ

dẫn nhằm cung cấp và phổ biến những kiến thức về sức khỏe, tiêu dùng, đời sống
hôn nhân gia đình… Đặc biệt, những vấn đề liên quan đến phạm trù ATTP như: Tư
vấn pháp luật, phương pháp kỹ thuật lựa chọn, bảo quản, chế biến và sử dụng thực
phẩm an toàn, cảnh báo nguy cơ mất ATTP… cũng được báo chí đề cập ngày càng
phong phú và đa dạng. Đây là một xu hướng thông tin khá phát triển của báo chí thế
giới hiện đại trong những thập niên vừa qua và nó đang có ảnh hưởng, tác động tích
2


cực đến báo chí nước ta. Nhưng xét về mặt lý luận báo chí trong nước thì vấn đề
thông tin tư vấn, chỉ dẫn chưa có được những công trình nghiên cứu và tài liệu hàn
lâm xác đáng với diện mạo thực tế của dòng thông tin này. Chính vì vậy, phạm trù
thông tin tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí Việt Nam hiện nay đang đặt ra hàng loạt vấn
đề về cả lý thuyết lẫn phương pháp chỉ dẫn, tư vấn đòi hỏi phải có sự nghiên cứu,
phân tích, đánh giá và xác lập hướng đi cụ thể cho xu hướng này.
Để góp phần nhận dạng bức tranh toàn cảnh của thông tin tư vấn, chỉ dẫn
trên báo chí Việt Nam hiện nay, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Vấn đề thông tin tƣ
vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên báo chí Việt Nam” cho luận văn chuyên
ngành báo chí học với hy vọng đóng góp thêm một góc nhìn về thông tin tư vấn, chỉ
dẫn đối với phạm trù ATTP. Thông qua việc phân tích, khảo sát và hệ thống hóa cứ
liệu từ các sản phẩm báo chí có chứa thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP, luận văn sẽ
rút ra những đánh giá về hiệu quả cũng như bất cập để từ đó bước đầu đề xuất một
số giải pháp làm tăng chất lượng và hiệu quả tác động của thông tin tư vấn, chỉ dẫn
ATTP trên các loại hình báo chí Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, thông tin tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí là
một xu hướng truyền thông hiện đại. Xu hướng này cũng mới phát triển ở nước ta
trong những năm gần đây nên việc tìm hiểu, nghiên cứu về dạng thức thông tin này
trên báo chí vẫn còn rất hạn chế. Riêng về phạm trù thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP
thì ở Việt Nam hiện nay cũng chưa có một luận văn thạc sĩ báo chí nào đề cập đến

một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc.
Tuy nhiên, liên quan đến nội dung khảo cứu của đề tài có một số công trình
đáng quan tâm của các tác giả: Bùi Thị Hồng Vân (2011), Vấn đề chỉ dẫn, tư vấn
khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân trên báo chí Việt Nam, Luận văn Thạc
sĩ Báo chí học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị
Vân Anh (2012), Thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình của Đài Phát thanhTruyền hình Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Trường Đại học KHXH&NV,
Đại học Quốc gia Hà Nội; Bùi Thị Thu Thủy (2010), Thông tin sức khỏe trên báo chí
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học
3


Quốc gia Hà Nội. Đây là những đề tài có cách đặt vấn đề tương đồng với luận văn
này nên chúng tôi có thể tham khảo về phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề
cũng như một số quan điểm về việc tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí.
Ngoài ra còn một số nghiên cứu đáng chú ý khác cũng đề cập đến dòng
thông tin chỉ dẫn của các tác giả: Dương Thị Bảo Ngọc (2003), Xây dựng kênh
thông tin chỉ dẫn trên phát thanh, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Trường Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội; Đinh Thu Hiền (2010), Dòng tạp chí chỉ
dẫn giải trí ở Việt Nam: Hiệu quả và bất cập, Luận văn Thạc sĩ, Trường
ĐHKHXH&NV Hà Nội; Lê Vũ Điệp (2003), Tìm lối đi cho dòng tạp chí giải trí-chỉ
dẫn ở Việt Nam, Nghiên cứu khoa học sinh viên, Trường Đại học KHXH&NV, Đại
học Quốc gia Hà Nội…
Để xây dựng hệ thống cơ sở lý thuyết, luận văn còn tham khảo tư liệu từ các
giáo trình báo chí truyền thông như: Cơ sở lý luận báo chí truyền thông (Đinh
Hường, Dương Xuân Sơn, Trần Quang), Tác phẩm báo chí (Tạ Ngọc Tấn chủ biên),
Ngôn ngữ báo chí (Vũ Quang Hào); sách về thể loại báo chí như Các thể loại báo
chí thông tấn (Đinh Hường), Thể loại báo chí chính luận nghệ thuật (Dương Xuân
Sơn), Các thể ký báo chí (Đức Dũng), Thể loại báo chí chính luận (Trần Quang),
Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên báo chí (Nguyễn Thị Minh Thái); sách
về loại hình báo chí: Giáo trình báo chí truyền hình (Dương Xuân Sơn), Lý luận

báo phát thanh (Đức Dũng), Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông
hiện đại (Nguyễn Thành Lợi)… Đây là những cuốn sách đã góp phần cung cấp
những tri thức căn bản về báo chí truyền thông cho sinh viên, học viên và đội ngũ
những người nghiên cứu truyền thông ở trong nước.
Về tình hình nghiên cứu ATTP. Trước hết, phải khẳng định rằng, ATTP là
vấn đề không mới cả trên thế giới và ở Việt Nam. Tuy nhiên, những nguy cơ mất
ATTP với diễn biến phức tạp và hậu quả của nó trong thời gian gần đây là vấn đề
khiến cả xã hội phải nhìn nhận và quan tâm nhiều hơn nữa để nâng cao hiểu biết, có
ý thức tự giác trong hành vi lựa chọn, sử dụng, chế biến và bảo quản thực phẩm.
Luật và các văn bản dưới luật về ATTP là một nguồn tư liệu quý báu giúp
ích cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Hơn nữa, những vấn đề pháp lý
4


liên quan đến ATTP là một nội dung quan trọng mà báo chí cần tư vấn, chỉ dẫn và
phổ biến sâu rộng tới công chúng trong việc bảo đảm thực phẩm an toàn.
Trong luận văn này, chúng tôi còn tham khảo tư liệu trình bày về ATTP và
những vấn đề liên quan của: TS.Nguyễn Đức Lương, TS.Phạm Minh Tâm, Vệ sinh
và an toàn thực phẩm, NXB Đại học bác khoa, TPHCM. Cuốn sách đã cung cấp các
kiến thức cơ bản về ATTP, phân tích làm rõ các khái niệm, đồng thời đưa ra các
phương pháp để đánh giá mức độ thực phẩm an toàn… Trong cuốn Truyền thông vệ
sinh an toàn thực phẩm do TS. Trần Chí Liêm (chủ biên), NXB Y học, tác giả đã
đưa ra những vấn đề chung về truyền thông, tư vấn vệ sinh ATTP, kỹ năng truyền
thông, lập kế hoạch truyền thông trong đó chú ý đến mô hình, cách tiếp cận, đối
tượng và thông điệp truyền thông; chiến lược huy động và sử dụng các kênh truyền
thông. Đây là một trong các tư liệu tham khảo hữu ích, giúp người nghiên cứu tiếp
cận đầy đủ những thành tố liên quan đến vấn đề truyền thông, tư vấn về ATTP.
Bên cạnh đó, luận văn còn tham khảo một số luận văn thạc sỹ, bài nghiên
cứu và khóa luận sau đây: Trong luận văn thạc sỹ chuyên ngành báo chí truyền
thông của Nguyễn Hoàng Anh (2013), “Chiến dịch truyền thông trong Chương

trình mục tiêu Quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm”, Khoa Báo chí và Truyền
thông, Trường Đại học KHXH&VN, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tìm hiểu lý thuyết
và kỹ năng tổ chức chiến dịch truyền thông vào nghiên cứu thực tiễn hoạt động triển
khai chiến dịch truyền thông của các tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam.
GS. Nguyễn Ngọc Châu, Truyền thông về vệ sinh an toàn thực phẩm dưới
góc nhìn khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Báo cáo Hội
nghị Khoa học Báo chí với Truyền thông Khoa học và Công nghệ năm 2013. Tác
giả đã phân tích, lý giải nguyên nhân tại sao một số bài báo thông tin về ATTP
mang tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học.
Trong Khóa luận Tốt nghiệp của Nguyễn Thị Tuyết, “Báo chí với vấn đề
vệ sinh an toàn thực phẩm (Khảo sát trên báo Vietnamnet.vn thời gian từ tháng
9/2008-5/2010)”, năm 2010, Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài đã thực hiện khảo sát mô tả hình
thức và nội dung thông tin tuyên truyền về ATTP trên báo điện tử Vietnamnet.
5


Tuy nhiên, khóa luận khảo sát để tìm hiểu về tính phổ cập kiến thức vệ sinh an
toàn thực phẩm của một tờ báo điện tử, hoàn toàn không đề cập đến vấn đề tư
vấn, chỉ dẫn.
Những tài liệu trên đây cho thấy rõ về vai trò, mối quan hệ giữa báo chí với
ATTP. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng những công trình nghiên cứu bàn về vấn đề
thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP trên báo chí. Hơn nữa, như đã trình bày trong phần
lý do chọn đề tài, thông tin tư vấn, chỉ dẫn là một xu hướng đang khá phát triển của
báo chí hiện đại. Xu hướng này đáp ứng được những nhu cầu thiết thực của công
chúng. Chính bởi vậy, trong luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, phân tích
các sản phẩm báo chí có chứa thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP, đồng thời bước đầu
tìm hiểu nhu cầu về tư vấn, chỉ dẫn ATTP của công chúng báo chí để từ đó rút ra
những kết luận và kiến nghị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát đặc điểm nội dung, cách thức thể hiện thông tin tư vấn, chỉ dẫn về
ATTP trên các loại hình báo chí Việt Nam hiện nay
- Bước đầu khảo sát tìm hiểu nhu cầu tư vấn, chỉ dẫn về ATTP của công
chúng báo chí
- Trên cơ sở của kết quả khảo sát rút ra những kết luận và khuyến nghị giải
pháp tăng hiệu quả của thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP trên báo chí Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài
- Khảo sát nội dung, cách thức thể hiện thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP trên
các loại hình báo chí (Báo in, Phát thanh, Truyền hình và Báo điện tử)
- Phỏng vấn sâu những người thực hiện chương trình/chuyên mục hoặc trực
tiếp tham gia tư vấn, chỉ dẫn thông tin về ATTP trên báo chí: Nhà báo, chuyên gia…
- Điều tra bảng hỏi: Với người tiêu dùng thực phẩm khu vực nông thôn và
thành thị
- Rút ra kết luận về hiệu quả, bất cập và một số kiến nghị để tăng hiệu quả
thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP trên báo chí Việt Nam hiện nay.
6


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các sản phẩm báo chí mang thông tin
tư vấn, chỉ dẫn về ATTP.
- Luận văn khảo sát trên cả bốn loại hình báo chí từ năm 2014 đến 2015.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính cụ thể, tập trung và xác thực, chúng tôi chỉ nghiên cứu
cứ liệu trên:
+ Báo Sức khỏe và Đời sống;
+ Chương trình “Cuộc sống thường ngày” trên kênh VTV1 của Đài Truyền
hình Việt Nam;
+ Các chương trình phát thanh chuyên đề sức khỏe trên hệ VOV2 của Đài

Tiếng nói Việt Nam
+ Chuyên mục “An toàn thực phẩm” trên Báo điện tử VietQ.vn.
Việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu trên đây được chúng tôi dựa trên ba tiêu
chí sau: Hàm lượng thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP xuất hiện trên các tờ báo,
chương trình, chuyên mục tương đối cao; Bảo đảm tính khoa học, độ tin cậy, xác tín
của thông tin; Tính phổ quát, tác động mạnh mẽ, sâu rộng của tờ báo/chương
trình/chuyên mục.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu dựa trên chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về báo chí và ATTP.
- Cơ sở lý thuyết của luận văn là những lý thuyết báo chí và truyền thông
như: đặc trưng, chức năng của thông tin báo chí, đặc điểm loại hình… và một số
quan điểm, nhận định về thông tin tư vấn, chỉ dẫn.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là khảo sát những sản phẩm báo chí mang
thông tin tư vấn, chỉ dẫn về an toàn thực phẩm trên cả bốn loại hình, báo in, phát
thanh, truyền hình và báo điện tử. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp phỏng vấn sâu các
nhà báo, chuyên gia ATTP và điều tra bảng hỏi đối với các đối tượng dân cư.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
như: Phương pháp phân tích nội dung văn bản (trong đó có quan sát, thống kê, phân
tích định tính và định lượng, so sánh, tổng hợp); phương pháp phỏng vấn sâu;
phương pháp điều tra bảng hỏi.
7


Trong đó,
+ Phương pháp phân tích nội dung văn bản: Nhằm tìm hiểu nội dung, cách
thức thể hiện của thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP trên báo chí Việt Nam. Về mặt
định lượng, phân tích nội dung văn bản giúp tìm hiểu tần suất, mức độ xuất hiện
của thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP được các loại hình báo chí đề cập đến. Trên
cơ sở đó so sánh, nghiên cứu và đưa ra những đánh giá khách quan, khoa học.

+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu
đề tài nhằm tìm hiểu, thu thập thông tin từ hoạt động thực tiễn của các cơ quan báo
chí trong việc tư vấn, chỉ dẫn ATTP cho công chúng.
+ Phương pháp điều tra bảng hỏi: Nhằm mục đích tìm hiểu nhu cầu tiếp nhận
thông tin tư vấn, chỉ dẫn về lĩnh vực ATTP của công chúng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận: Báo chí Việt Nam dù thuộc loại hình nào cũng đang tìm
cách tiếp cận sâu hơn đến dòng thông tin tư vấn, chỉ dẫn cho công chúng về từng
lĩnh vực cụ thể liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân, trong đó ATTP là một
lĩnh vực đặc biệt quan trọng mà báo chí đã, đang và sẽ tiếp tục chú trọng thông
tin trong đời sống xã hội hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ
phần nào hệ thống hóa những nội dung, cách thức, phương pháp lý luận cần yếu
cho thực tiễn báo chí Việt Nam về vấn đề tư vấn, chỉ dẫn ATTP.
Về mặt thực tiễn: Kết quả khảo sát, nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả tác
động của các sản phẩm báo chí chứa thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP cho công chúng.
Đặc biệt, trong khi lĩnh vực ATTP đang còn nhiều nan giải hiện nay, kết quả
nghiên cứu có thể bổ khuyết cho những vấn đề còn hạn chế trong hoạt động truyền
thông về ATTP ở nước ta.
Luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên báo
chí và những ai quan tâm đến việc cung cấp thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP cho
công chúng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương như sau:
8


- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
- Chương 2: Thực trạng thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên báo
chí Việt Nam

- Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin tư
vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên báo chí Việt Nam

9


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Thông tin và thông tin báo chí
Khái niệm Thông tin
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con người thường xuyên cần đến
thông tin. Thông tin là nguồn gốc của nhận thức làm tăng thêm hiểu biết của con
người. Thông tin về một đối tượng chính là một dữ kiện về đối tượng đó, chúng giúp ta
nhận biết và hiểu được đối tượng. Hiện nay, khi khoa học và công nghệ phát triển đến
trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa học, thuật ngữ “thông tin” cũng có những cách
hiểu khác nhau khi sử dụng trong từng ngành nghề, lĩnh vực. Khái niệm “Thông tin”
bắt nguồn từ chữ Latinh informetio, gốc của từ tiếng Anh information. Theo Philipppe
Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ truyền thông”, khái niệm thông tin
có hai hướng nghĩa: (1) nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome);
(2) nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa
này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và
truyền đạt. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức.
Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tượng vốn có của vật
chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông tin chính là
những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện tượng được bộc lộ
ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự vật khác. Thông tin luôn
gắn với quá trình phản ánh; nhưng thông tin không phải là phản ánh và cũng không
nằm ngoài phản ánh. Bản chất của thông tin là “cái đa dạng được phản ánh”. Vì
vậy, khi tiếp nhận được thông tin, con người thường phải xử lý nó để tạo ra những
thông tin mới, có ích hơn, từ đó có những hành vi phản ứng nhất định.

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2005) Thông tin với nghĩa
động từ là truyền tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi
cho biết, tin truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin cao).
Như vậy, “thông tin” được hiểu theo hai nghĩa: (1) là nội dung thông tin; (2)
là phương tiện thông báo, báo tin.
10


Thông tin báo chí
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một hiện
tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của con
người. Thông tin là một hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Theo các nhà
nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin được con người chú ý về mặt ý nghĩa xã hội của
nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 – 30 của thế kỷ
XX. Và từ đây, thông tin chính là những cái mới, khác với những điều đã biết.
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phương tiện
kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện chức năng
thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời
sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin, báo chí có cách riêng
của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội với
những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã khiến cho
báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà
không một hình thái ý thức xã hội nào có được.
Như vậy, thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực
cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được
báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là mục đích chủ yếu. Thông tin trở thành

“cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo phương thức thể
hiện, người ta chia thông tin báo chí thành các loại hình: Thông tin bằng chủ yếu
chữ viết (báo in); thông tin chủ yếu bằng tiếng nói (phát thanh); thông tin chủ yếu
bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên mạng internet (đa phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có
khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một
chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên
các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ
11


báo… đều chứa đựng thông tin. Thuật ngữ “thông tin” trong hoạt động báo chí còn
có có cách hiểu rộng hơn; chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta
có thể gọi toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống những tin tức… là thông tin.
Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của thông tin
báo chí. Đây không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức, là một
trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nước mà còn là nơi
để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hoá
trong đời sống xã hội. Thông tin báo chí thực sự là công cụ cung cấp tri thức, dự
báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển. Đời sống nhân
dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao nên nhu cầu thông tin
báo chí của nhân dân cũng đòi hỏi ngày càng cao hơn.
1.1.2. Thông tin tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005):
Tƣ vấn: là đóng góp ý kiến về những vấn đề được hỏi đến nhưng không có
quyền quyết định.
Chỉ dẫn: là bảo cho biết phương hướng, cách thức tiến hành công việc một
cách cặn kẽ.
Theo bài giảng của PGS.TS Vũ Quang Hào: Thông tin tƣ vấn thường được

thể hiện dưới dạng thức các câu hỏi – đáp giữa độc giả với những chuyên gia,
những người có hiểu biết về lĩnh vực đó, nhằm cung cấp thông tin về một lĩnh vực
cụ thể, một vấn đề nào đó trong cuộc sống, trong xã hội… cho nhóm công chúng
đối tượng quan tâm. Thông tin chỉ dẫn bao gồm những cách thức, phương pháp để
chỉ ra, hướng dẫn cho công chúng về những lĩnh vực mà họ quan tâm, mong muốn
nhưng chưa biết thực hiện như thế nào. [47, tr.13]
Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản nhất, thông tin tƣ vấn, chỉ dẫn trên
báo chí là việc báo chí cung cấp cho công chúng những tin tức về các sự kiện, hiện
tượng và gợi ý, hướng dẫn cách thức, phương pháp về một lĩnh vực nào đó trong
cuộc sống nhằm giúp đỡ, hỗ trợ họ nhận biết hoặc giải quyết vấn đề mà họ quan
tâm, mong muốn nhưng chưa biết thực hiện như thế nào.
12


Điều quan trọng là muốn tư vấn, chỉ dẫn cho người khác thì người tư vấn, chỉ
dẫn không những phải hiểu biết rất sâu về vấn đề mình sẽ tư vấn, chỉ dẫn mà còn
phải hiểu đối tượng mình tư vấn là ai. Với các đối tượng khác nhau luôn có sự khác
biệt về trình độ hiểu biết, lứa tuổi, nghề nghiệp, văn hóa, phong tục, lối sống… nên
cần có cách thức tư vấn, chỉ dẫn phù hợp để đạt hiệu quả tốt nhất.
Việc tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí là hình thức chuyển tải thông tin đặc biệt
của báo chí. Đây không phải là một thể loại báo chí độc lập, không mang những đặc
điểm thể loại báo chí mà chỉ là một dạng thức chuyển tải thông tin đặc biệt của báo
chí nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng về thông tin của công chúng.
Chủ thể của việc tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí thường do: Nhà báo, chuyên gia
lý thuyết và chuyên gia thực hành (người thật, việc thật).
Nhà báo: là người có tìm hiểu về vấn đề, có nghiên cứu tài liệu, hơn nữa là
người biết về đối tượng được tư vấn, chỉ dẫn. Nhà báo có ưu điểm là biết cách
chuyển tải thông tin một cách hiệu quả đến đối tượng tiếp nhận. Nhưng nhà báo
không thể hiểu vấn đề cặn kẽ, chuyên sâu. Nhà báo giữ vai trò quan trọng khi tư
vấn, chỉ dẫn trên báo chí vì chính nhà báo là người đi thu thập thông tin tư liệu về

vấn đề đó rồi viết phản ánh lại và còn là người biên tập bài của cộng tác viên, của
các chuyên gia. Nếu nhà báo không có kiến thức hiểu biết cơ bản về vấn đề được tư
vấn, chỉ dẫn thì hiệu quả sẽ không cao, thậm chí còn tác động ngược.
Chuyên gia lý thuyết: Đây chính là người làm công việc tư vấn, chỉ dẫn hợp
lý và quan trọng nhất bởi lẽ họ là người có quá trình nghiên cứu, tìm hiểu rất kỹ về
vấn đề được tư vấn, chỉ dẫn. Nếu ngoài việc nghiên cứu, nắm chắc lý thuyết, các
chuyên gia còn có thêm kiến thức thực tế thì hiệu quả tư vấn, chỉ dẫn sẽ cao. Nhưng
hiệu quả của việc tư vấn, chỉ dẫn còn phụ thuộc vào việc báo chí có chọn đúng
chuyên gia hay không. Bởi nếu chọn được chuyên gia phù hợp, có kỹ năng tư vấn,
chỉ dẫn tốt thì hiệu quả truyền thông và uy tín của cơ quan báo chí được nâng cao và
ngược lại, nếu chọn chuyên gia không phù hợp thì hiệu quả tư vấn, chỉ dẫn cũng
như uy tín của cơ quan báo chí sẽ giảm sút.
Chuyên gia thực hành (người thật, việc thật): Đây là người có kinh nghiệm
thực tiễn về vấn đề được tư vấn, chỉ dẫn. Trong thực tế cuộc sống, khi đứng trước
13


một cái mới mà có ai đó đã làm thử thành công thì những người khác sẽ mạnh dạn
làm theo. Vì vậy, nếu dùng chủ thể này để tư vấn, chỉ dẫn sẽ dễ đạt hiệu quả cao.
Nhưng khi chọn đối tượng này cũng cần chú ý phải chọn lựa những người thực sự
điển hình, có cách thể hiện gần gũi, chân thật thì hiệu quả tư vấn, chỉ dẫn sẽ cao.
1.1.3. An toàn thực phẩm
Thực phẩm: Là tất cả các chất đã qua chế biến hoặc chưa chế biến mà con
người có thể ăn, uống được với mục đích cơ bản là thu nạp các chất dinh dưỡng
nhằm nuôi dưỡng cơ thể hay vì sở thích. Các thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật,
động vật, vi sinh vật hay các sản phẩm chế biến từ phương pháp lên men như rượu,
bia. Thực phẩm được thu nhận thông qua việc gieo trồng, chăn nuôi, đánh bắt và
các phương pháp khác.
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm “Thực phẩm” theo quy
định tại Điều 2 của Luật ATTP như sau: Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn,

uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không
bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm.
ATTP: là thuật ngữ khoa học chỉ điều kiện và yêu cầu bắt buộc để bảo đảm
thực phẩm không bị ô nhiễm về sinh học, hóa học hoặc ô nhiễm từ các nguồn khác
có thể gây độc hại nguy hiểm tới sức khỏe và tính mạng con người. [16, tr.5]
Hiểu theo nghĩa rộng: ATTP là khả năng cung cấp đầy đủ và kịp thời về số
lượng và chất lượng thực phẩm một khi quốc gia bị thiên tai hoặc một lý do nào đó.
Thực tế, trong đời sống thường nhật, thậm chí cả trong khoa học đều không
có sự thống nhất khi sử dụng các thuật ngữ ATTP, Vệ sinh ATTP và An toàn vệ sinh
thực phẩm. Về bản chất, cả ba thuật ngữ này đều nhằm chỉ các điều kiện và biện
pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khỏe, tính mạng con
người. Tuy nhiên, để thống nhất về thuật ngữ, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả
chỉ sử dụng thuật ngữ ATTP theo nghĩa hẹp. Vì đây cũng là thuật ngữ mà Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam đã dùng để gọi tên Luật ATTP.
1.1.4. Thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm
Từ các khái niệm thành phần nêu trên có thể rút ra cách hiểu về khái niệm
thông tin tư vấn, chỉ dẫn ATTP như sau: Thông tin tƣ vấn, chỉ dẫn ATTP là
14


những thông tin chuyên biệt cung cấp tin tức, kiến thức kèm theo những giải thích,
gợi ý, hướng dẫn cho công chúng sử dụng hoặc làm theo một phương pháp, cách
thức nào đó nhằm bảo đảm các điều kiện và yêu cầu cần thiết để thực phẩm không
bị ô nhiễm về sinh học, hóa học hoặc ô nhiễm từ các nguồn khác có thể gây độc hại
nguy hiểm tới sức khỏe và tính mạng con người.
1.2. Nhu cầu thông tin tƣ vấn, chỉ dẫn của công chúng về vấn đề an toàn
thực phẩm
1.2.1. Nhu cầu tư vấn, chỉ dẫn trên báo chí trong bối cảnh truyền thông hiện đại
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, dưới sự ảnh hưởng của truyền thông xã hội đã
làm thay đổi diện mạo đời sống báo chí truyền thống. Nhờ các thiết bị công nghệ

hiện đại kết nối internet mà truyền thông xã hội đã tác động trực tiếp đến tốc độ đưa
tin - điều mà báo chí truyền thống khó có thể vượt được. Ranh giới giữa truyền
thông xã hội và báo chí đôi khi cũng bị xóa nhòa bởi không ít tin tức xã hội được
đăng tải dưới những vỏ bọc ẩn danh, nặc danh khiến công chúng mất dần niềm tin
vào báo chí chính thống. Miếng bánh quảng báo cũng bị xé lẻ, địa hạt kinh tế báo
chí truyền thông bị ảnh hưởng. Sự trà trộn thái quá của các trang tin điện tử khiến
nhiều người khó phân biệt được thông tin thật, giả. Đó là những tiêu cực của truyền
thông xã hội đối với báo chí truyền thống, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh
trong môi trường truyền thông hiện nay.
Nhưng bên cạnh đó, truyền thông xã hội cũng mở ra những hướng đi mới cho
báo chí phát triển. Đó là, giúp tòa soạn mở rộng công chúng mục tiêu dựa vào mạng xã
hội; là cầu nối giữa công chúng với tòa soạn, làm tăng tính tương tác từ đó tăng thiện
cảm của công chúng với các cơ quan báo chí và tất nhiên sẽ giúp tăng uy tín, danh
tiếng cho các tòa soạn. Như vậy, môi trường truyền thông hiện đại đã và đang tạo ra
một cuộc chơi mới khiến báo chí truyền thống phải thay đổi để giữ chân công chúng
của mình. Trong khi truyền thông xã hội có lợi thế là khả năng đưa tin, chia sẻ, thu hút,
tìm kiếm thông tin nhanh chóng thì báo chí vẫn có chỗ đứng vững chắc và quan trọng
trong “trận địa thông tin mở” như hiện nay nếu vẫn duy trì được chất lượng, coi nội
dung là vua, đồng thời biết kết hợp những tính ưu việt mà truyền thông xã hội đem lại,
từ đó tăng cường sức mạnh cũng như tăng giá trị cho báo chí truyền thống. [15, tr.38]
15


Trên bình diện khác, con người trong cuộc sống hiện đại ngày càng nảy sinh
thêm những nhu cầu mới, đa dạng, trong đó thông tin là nhu cầu nổi bật và ngày
càng gia tăng, đặc biệt là nhu cầu thông tin tư vấn, chỉ dẫn trên mọi lĩnh vực. Thực
tiễn đời sống xã hội hiện nay đã cho thấy có hàng loạt hoạt động mang tính tư vấn,
chỉ dẫn ra đời và phát triển sôi động như: Các công ty tư vấn về pháp luật, nhà đất;
các văn phòng, tổng đài tư vấn tâm sinh lý, giới thiệu sản phẩm; các bộ phận túc
trực để hỗ trợ khách hàng qua điện thoại, qua email hoặc trực tiếp có mặt để cung

cấp thông tin và giải đáp thắc mắc về sản phẩm; tờ rơi, áp phích vừa quảng cáo vừa
tư vấn, chỉ dẫn cho khách hàng cách thức sử dụng sản phẩm… Nhưng số lượng hoạt
động tư vấn, chỉ dẫn đó chưa đủ cho mọi thành viên trong xã hội bởi không phải
thành viên nào cũng có điều kiện để được tư vấn vì những nguyên nhân khác nhau
như chi phí, thời gian, hoàn cảnh sống…
Hơn nữa, dù là trong môi trường truyền thông hiện đại thì chức năng giáo dục là
một chức năng hết sức quan trọng của báo chí vẫn chưa bao giờ mờ nhạt. Báo chí luôn
nắm bắt được xu hướng phát triển nhu cầu của công chúng để từng bước đặt nền móng,
giáo dục và nâng dần kiến thức, nhận thức của công chúng từ đó định hướng nhu cầu
cho họ. Chính bởi vậy, thời gian qua, cùng với chức năng thông tin vốn có thì hầu hết
các loại hình báo chí đã dần hình thành và ra đời các sản phẩm báo chí chứa nội dung
thông tin tư vấn, chỉ dẫn để phục vụ nhu cầu thiết yếu, có thực của công chúng. Hầu
như tất cả các loại hình báo chí từ báo in, phát thanh, truyền hình cho đến báo điện tử
đều mở chuyên mục, chuyên trang tư vấn, chỉ dẫn. Thông tin tư vấn, chỉ dẫn xuất hiện
thường xuyên hơn, chiếm thời lượng, diện tích lớn hơn, phong phú, đa dạng các lĩnh
vực. Điển hình là thông tin tư vấn, chỉ dẫn về các dịch vụ hàng hóa, giao thông, pháp
luật, thời tiết, tiêu dùng, chế độ chính sách, việc làm, hôn nhân gia đình, sức khỏe, tâm
sinh lý… Trong đó, không thiếu những sản phẩm báo chí mang thông tin tư vấn, chỉ
dẫn về ATTP. Tùy theo đặc điểm, chức năng nhiệm vụ và tiêu chí thông tin của từng
cơ quan báo chí để đi sâu tư vấn, chỉ dẫn vào một lĩnh vực nhất định.
1.2.2. Sơ lược về hoạt động thông tin tư vấn, chỉ dẫn an toàn thực phẩm trên các
loại hình báo chí
Để sinh sống và hoạt động, hàng ngày con người đều phải thu nhận các phần
tử dinh dưỡng cần thiết từ thức ăn, từ lương thực, thực phẩm. Do đó, chất lượng
16


×