Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

ĐỐI CHIẾU TRƯỜNG từ VỰNG – NGỮ NGHĨA CHỈ THỰC vật TRONG TIẾNG MÔNG và TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.49 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

SÙNG A KHỨ

ĐỐI CHIẾU TRƯỜNG TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA
CHỈ THỰC VẬT TRONG TIẾNG MÔNG VÀ TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

SƠN LA, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

SÙNG A KHỨ

ĐỐI CHIẾU TRƯỜNG TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA
CHỈ THỰC VẬT TRONG TIẾNG MÔNG VÀ TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GS.TS. NGUYỄN ĐỨC TỒN

SƠN LA, NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình
nào khác.

Tác giả luận văn

Sùng A Khứ


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè những người đã giúp đỡ
động viên tôi rất nhiều để hoàn thành luận văn. Đặc biệt tôi rất cảm ơn
GS.TS. Nguyễn Đức Tồn người đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Sùng A Khứ


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 1
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 2
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2

2.1. Nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa - tư duy.................................. 2
2.2. Nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ của các dân tộc Mông ............................. 5
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 6
4. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 6
5. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 6
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 7
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 7
8. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài......................................................... 7
9 . Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN.......................................................................... 9
1.1. Về văn hóa và ngôn ngữ .......................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của “văn hóa”.................................................. 9
1.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa .............................................. 13
1.2. Khái niệm định danh và các đặc điểm định danh ................................... 14
1.2.1. Khái niệm “định danh” ....................................................................... 14
1.2.2. Đặc điểm văn hóa – dân tộc của định danh ngôn ngữ ......................... 14
1.2.2.1. Đặc điểm văn hóa – dân tộc trong sự quy loại khái niệm được định
danh ............................................................................................................. 14
1.2.2.2. Đặc điểm văn hóa – dân tộc trong sự lựa chọn đặc trưng định danh. 15
1.2.2.3. Các thủ pháp định danh ................................................................... 18


1.3. Đặc điểm dân tộc trong quá trình chuyển nghĩa và nghĩa biểu trưng của từ.... 19
1.4. Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 22
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH TRƯỜNG TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA
TÊN GỌI THỰC VẬT TRONG TIẾNG MÔNG ......................................... 23
2.1. Người Mông và tiếng Mông ở Việt Nam ............................................... 23
2.2. Đặc điểm định danh của tên gọi thực vật trong tiếng Mông................... 24
2.2.1. Đặc điểm định danh của tên gọi thực vật trong tiếng Mông xét theo
nguồn gốc..................................................................................................... 25

2.2.2. Đặc điểm định danh của tên gọi thực vật trong tiếng Mông xét theo
cách thức biểu thị ......................................................................................... 28
2.2.2.1. Cách thức biểu thị của tên gọi thực vật xét theo đặc điểm cấu tạo hòa
kết hay phân tích .......................................................................................... 28
2.2.2.2. Mức độ rõ lí do của tên gọi .............................................................. 32
2.2.2.3 Cách thức biểu thị của tên gọi thực vật xét theo đặc điểm định danh 35
2.3. Tiểu kết chương 2.................................................................................. 44
Chương 3: ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA - DÂN TỘC TRONG Ý NGHĨA CỦA
TÊN GỌI THỰC VẬT TRONG NGÔN NGỮ MÔNG VÀ VIỆT ............... 47
3.1. Cấu trúc ngữ nghĩa của trường tên gọi thực vật trong tiếng Mông và tiếng
Việt .............................................................................................................. 47
3.1.1. Phân tích nghĩa vị ............................................................................... 47
3.2. Đặc trưng văn hóa dân tộc của sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ thực
vật trong tiếng Mông và tiếng Việt ............................................................... 66
3.2.1. Chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ............................................ 67
3.2.1.1. Hóan dụ dựa theo quan hệ bộ phận - chỉnh thể, cái chứa và vật được
chứa, sự vật và thuộc tính của nó.................................................................. 67
3.2.1.2 Hoán dụ theo quan hệ giữa loài thực vật và màu sắc tương tự như màu
của thực vật đó ............................................................................................. 69


3.2.2. Chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ................................................ 70
3.2.2.1. Ẩn dụ dựa theo đặc điểm mùi vị của loài thực vật ........................... 71
3.2.2 Ẩn dụ dựa theo đặc điểm hình thức, hình dạng của loài thực vật ......... 71
3.2.2.2. Ẩn dụ theo cách thức sinh trưởng của loài thực vật ......................... 73
3.3. Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Mông.................... 75
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 81
KẾT LUẬN.................................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người, ngay cả
những bộ lạc lạc hậu nhất mà người ta mới phát hiện ra cũng dùng ngôn ngữ
để nói chuyện với nhau. Ngoài ngôn ngữ, con người còn có những phương
tiện giao tiếp khác như cử chỉ, các loại dấu hiệu, kí hiệu khác (kí hiệu toán
học, đèn tín hiệu giao thông, tín hiệu hàng hải…), những kết hợp âm thanh
của âm nhạc, những kết hợp màu sắc của hội họa v.v… Nhờ có ngôn ngữ mà
con người có thể hiểu nhau trong qua trình sinh hoạt và lao động, mà người ta
có thể diến đạt và làm cho người khác hiểu được tư tưởng, tình cảm, trạng
thái và nguyện vọng của mình. Có hiểu biết lẫn nhau, con người mới có thể
đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã hội, làm cho xã hội
ngày càng tiến lên.
Trước hết, ngôn ngữ là công cụ đấu tranh, sản xuất. Tuy ngôn ngữ không
sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó có thể thể hiện hoạt động sản xuất, có
thể giúp người ta giành lấy tri thức cần thiết để đấu tranh sản xuất, do đó thúc
đẩy sản xuất ngày càng phát triển.
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư
duy của nó. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen đã viết: Ngay
từ đầu, đã có một rủi ro đè nặng lên “tinh thân”, đó là sự rủi ro bị một vật
chất làm “hoen ố”, và vật chất đó thể hiện ở đây dưới hình thức những lớp
không khí chuyển động, những thanh âm, tóm lại là dưới hình thức ngôn ngữ.
Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vậy, ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn.
“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người” (V.I. Lê
nin). Để hiểu sâu xa ý nghĩa của ngôn ngữ một dân tộc, không chỉ xem xét ý
nghĩa của từ hoặc cách hành chức của từ mà còn phải có sự hiểu biết về

1



phong tục, tập quán, thói quen.... hay nói cách khác, là sự hiểu biết về văn hóa
vật chất cũng như văn hóa tinh thần của dân tộc đó.
Thực hiện chức năng giao tiếp, trao đổi thông tin, ngôn ngữ có những
đặc trưng cơ bản chung để làm cho con người ở các dân tộc có thể hiểu nhau.
Đó là điều kiện quan trọng đảm bảo sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc
trên cùng một quốc gia hay giữa các quốc gia khác nhau.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tế khách quan là nhân tố đầu
tiên tác động và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy con người. Song, con người
phản ánh thế giới khách quan không phải một cách thụ động mà chủ thể nhận
thức tiếp nhận thế giới khách quan ấy, "mô hình hóa" nó theo một cách nhất
định và phản ánh bằng các phương tiện tâm lí của mình. Cách "mô hình hóa"
phụ thuộc nhiều vào nhu cầu thực tiễn của con người mà trước hết là nhu cầu
sản xuất, nhu cầu xã hội.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ
và tư duy người Việt trong sự đối chiếu với các dân tộc khác. Tuy nhiên,Việt
Nam là quốc gia có 54 dân tộc anh em, do vậy có sự phong phú, đa dạng cả
về văn hóa và ngôn ngữ. Trong số các dân tộc đó, người Mông là dân tộc
đông thứ tám, chiếm 1% dân số chung của cả nước. Vì vậy, văn hóa Mông là
một mảng văn hóa quan trọng trong tổng thể văn hóa Việt Nam. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa dân tộc Mông. Tuy nhiên, chưa
có công trình nào nghiên cứu về định danh trong tiếng Mông. Chính vì vậy,
chúng tôi chọn đề tài "Đối chiếu trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ thực vật
trong tiếng Mông và tiếng Việt" làm đối tượng nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa - tư duy
Trên thế giới vấn đề ngôn ngữ học tâm lí tộc người đã được nghiên cứu


2


từ lâu. Song, ở Việt Nam vấn đề đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và
tư duy chỉ mới được bắt đầu từ những năm chín mươi của thế kỉ XX, mở đầu
là chuyên khảo của Nguyễn Đức Tồn "Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc
của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với dân tộc khác)"
(Nxb ĐHQG HN, H., 2002). Ngoài ra còn có một số bài viết tham gia tại Hội
thảo khoa học do Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Trường Đại học Ngoại ngữ
Hà Nội phối hợp tổ chức vào tháng 7 năm 1992.
Trong cuốn "Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt" (Nxb Đại học Sư
phạm,H., 2004), tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đã dành nhiều trang nói về chức
năng định danh của ngôn ngữ, khẳng định vai trò quan trọng của định danh
trong giao tiếp và tư duy con người.
Tác giả Lý Toàn Thắng trong cuốn “ Ngôn ngữ học tri nhận: từ lí thuyết
đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” (Nxb Phương Đông, 2009) là công trình
về đại cương ngôn ngữ học tâm lí và ngôn ngữ học tri nhận. Ông cũng trình
bày nhiều vấn đề lí thuyết liên quan đến định danh, về sự phân cắt hiện thực
của con người trong quá trình gọi tên sự vật, hiện tượng.
Tập hợp và hệ thống hóa những công trình nghiên cứu trước đây của
mình, bổ sung thêm những nghiên cứu mới, tác giả Nguyễn Đức Tồn xuất bản
cuốn sách "Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy" (Nxb
KHXH, H., 2008, 588 tr; Nxb Từ điển Bách khoa tái bản có bổ sung, 2010,
635 tr; Nxb KHXH tái bản có chỉnh lí và bổ sung, 2015, 792 tr). Đây là công
trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu
những đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy tộc người từ trên
các phương diện sự tri nhận, phạm trù hóa hiện thực khách quan, đặc điểm
quá trình định danh, cấu trúc ngữ nghĩa, quá trình chuyển nghĩa, đặc điểm sử
dụng biểu trưng của các đối tượng ... ở người Việt và người Nga và một số
tộc người khác.


3


Sau đó là một loạt luận án tiến sĩ, luận văn cao học, trong đó có nhiều
luận án, luận văn do tác giả Nguyễn Đức Tồn hướng dẫn đã được bảo vệ,
chẳng hạn: Cao Thị Thu, Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa trường từ vựng
tên gọi thực vật trong tiếng Việt, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội, H.,1995; Nguyễn Thuý Khanh, Đặc điểm trường từ
vựng - ngữ nghĩa tên gọi động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng
Nga), Luận án phó tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, H., 1996; Chănphômmavông,
Đặc điểm định danh và hiện tượng chuyển nghĩa trong trường từ vựng tên
gọi các bộ phận cơ thể con người tiếng Lào (có xem xét trong mối quan hệ
với tiếng Việt), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H., 1999;
Lê Thị Lệ Thanh, Trường từ vựng ngữ nghĩa các từ ngữ biểu thị thời gian
của tiếng Việt (trong sự so sánh với tiếng Đức), Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn
ngữ học, H., 2001; Phạm Đăng Bình, Khảo sát các lỗi giao thoa ngôn ngữ văn hoá trong diễn ngôn của người Việt học tiếng Anh, Luận án tiến sĩ, Viện
Ngôn ngữ học, H., 2002; Dương Thị Nụ, Đối chiếu ngữ nghĩa nhóm từ chỉ
quan hệ thân tộc giữa tiếng Anh với tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn
ngữ học, H., 2003; Nguyễn Phương Chi, Hành vi từ chối, Luận án tiến sĩ, Viện
Ngôn ngữ học, H., 2004; Từ Thu Mai, Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, Luận án
Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, H., 2004; v.v...
Đáng chú ý về phương diện nghiên cứu định danh, luận án Phó tiến sĩ
của Nguyễn Thúy Khanh có tên “Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa tên
gọi động vật (trên tư liệu đối chiếu so sánh giữa tiếng Việt và tiếng Nga)”
(1996) đã đi sâu phân tích, đối chiếu, chỉ ra sự tương đồng và dị biệt trong
bức tranh định danh ngôn ngữ, cách thức tư duy và phản ánh thế giới qua
ngôn ngữ của người Việt và người Nga.


4


Với dung lượng kiến thức của một khóa luận tốt nghiệp Đại học, nhưng
Cao Thị Thu (1995) đã cho thấy đặc điểm định danh trường từ vựng tên gọi
thực vật trong tiếng Việt.
Tác giả Chănphômmavông (Lào), với đề tài luận án "Đặc điểm định
danh và hiện tượng chuyển nghĩa trong trường từ vựng tên gọi các bộ phận
cơ thể con người trong tiếng Lào" (1999) đã đối chiếu đặc điểm định danh và
đi sâu vào hiện tượng chuyển nghĩa đã cho thấy sự tương đồng trong hai nền
văn hóa “láng giềng” Việt Nam - Lào, đồng thời tác giả cũng cho thấy đặc
điểm riêng biệt, độc đáo của ngôn ngữ, văn hóa mỗi dân tộc.
2.2. Nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ của các dân tộc Mông
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, dân tộc Mông đã tạo nên
một nền văn hóa vừa phong phú, vừa đa dạng, đặc sắc. Đã có nhiều nghiên
cứu về văn hóa Mông cũng như đặc điểm văn hóa Mông ở mỗi địa phương.
Có thể kể đến những nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ Mông tiêu biểu sau:
“ Từ điển Mông – Việt”(Pênhr lul Hmôngz – Viêx do Cư Hòa Vần chủ
biên (Nxb Giáo dục, 2000). Cuốn sách cung cấp khoảng 15000 từ tiếng Mông
cho bạn đọc tìm hiểu.
Cuốn “ Tài liệu dạy và học tiếng Mông” của nhóm tác giả Nhà giáo ưu
tú Lý Seo Chúng (chủ biên), Nhà giáo ưu tú Phan Thanh, Nguyễn Ngọc
Thanh, Hoàng Chúng, Vàng Lềnh, Nguyễn Thiện Hùng, Giàng Thị Bằng,
Nguyễn Đình Du, Nguyễn Thị Phi Nga, Nguyễn Tiến Tuân., (Xuất bản năm
2007). Từ phác thảo về bức tranh xã hội và con người của các ngành Mông,
nhóm tác giả đi sâu nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc này.
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia cho ra đời tác phẩm
“Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội,
1994). Cuốn sách đã trình bày những đặc điểm ngôn ngữ đặc sắc của các dân
tộc Việt Nam. Qua đó cuốn sách cho thấy sự phong phú, đặc sắc của ngôn


5


ngữ Mông nói riêng và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói
chung.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa
có liên quan đến đề tài.
Luận văn này có sự kế thừa các thành tựu nghiên cứu trên, đồng thời tập
trung vào việc nghiên cứu đặc điểm định danh cũng như cách thức chuyển
nghĩa, sự biểu trưng của các trường từ vựng chỉ thực vật trong tiếng Mông có
đối chiếu với tiếng Việt. Từ đó, luận văn chỉ ra các nét tương đồng, khác biệt
trong ngôn ngữ, văn hóa Mông và Việt.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là chỉ ra đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy người Mông trong sự đối chiếu với người Việt thông qua
nghiên cứu sâu đặc điểm định danh, hiện tượng chuyển nghĩa, ý nghĩa biểu
trưng của các tên gọi thuộc trường từ vựng chỉ thực vật trong tiếng Mông và
tiếng Việt.
4. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi chọn “trường từ vựng chỉ thực vật” trong tiếng Mông làm đối
tượng nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian nên chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu
là các vấn đề về đặc điểm định danh, ngữ nghĩa của trường từ vựng chỉ thực
vật trong tiếng Mông.
Tư liệu nghiên cứu được thu thập dựa trên các tác phẩm sau:
“ Từ điển Mông – Việt”(Pênhr lul Hmôngz – Viêx) do Cư Hòa Vần chủ
biên (Nxb Giáo dục, 2000). Cuốn sách cung cấp khoảng 15000 từ tiếng
Mông.


6


Về tiếng Việt, chúng tôi chọn cuốn: “Từ điển tiếng Việt”, Hoàng Phê
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, 1994 gồm 38.410 từ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
- Đặc điểm định danh của trường từ vựng chỉ thực vật trong tiếng Mông
so với tiếng Việt.
- Đặc điểm ngữ nghĩa của trường từ vựng chỉ thực vật trong tiếng Mông
so với tiếng Việt.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ trong đề tài luận văn, chúng tôi sử dụng chủ
yếu các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh - đối chiếu được sử dụng để nghiên cứu chỉ ra
những điểm tương đồng và khác biệt về định danh và ngữ nghĩa của trường từ
vựng chỉ thực vật trong tiếng Mông so với tiếng Việt.
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa được sử dụng để nghiên cứu các
nghĩa vị và cấu trúc nghĩa của các từ ngữ thuộc trường từ vựng chỉ thực vật
trong tiếng Mông và tiếng Việt.
- Thủ pháp thống kê được áp dụng để chỉ ra tần số xuất hiện của đặc
trưng định danh và nghĩa vị của các từ ngữ thuộc trường từ vựng chỉ thực vật
trong tiếng Mông và tiếng Việt.
8. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
Giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là một công việc có ý
nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.
8.1. Về lí luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí
luận về ngôn ngữ học tâm lí dân tộc nói chung và vấn đề định danh ngôn ngữ

nói riêng.

7


8.2. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài này có thể là tài liệu
tham khảo hữu ích cho những người yêu thích, nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa
dân tộc nói chung, ngôn ngữ - văn hóa Mông nói riêng.
Là một người con của dân tộc Mông, kết quả nghiên cứu giúp tôi nhận
thức được sâu sắc hơn về bản sắc của tiếng mẹ đẻ và văn hóa dân tộc mình.
9 . Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận
Chương 2. Đặc điểm định danh trường từ vựng - ngữ nghĩa tên gọi thực
vật trong tiếng Mông (có đối chiếu với tiếng Việt)
Chương 3. Đặc điểm ý nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Mông
(có đối chiếu với tiếng Việt).

8


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Về văn hóa và ngôn ngữ
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, mỗi dân tộc đều có văn
hóa và ngôn ngữ riêng. Trước hết muốn tìm hiểu về văn hóa ta phải đi tìm
hiểu các khái niệm và các đặc trưng của văn hóa.
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của “văn hóa”
a. Khái niệm văn hóa

Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, nhưng suy cho
cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính: theo
nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều
rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo
không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng
(văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá
được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn
hoá Đông Sơn…)…
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do
con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài

9


người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn” [Hồ Chí Minh 1995: 431]. Federico Mayor, Tổng giám đốc
UNESCO, cho biết: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt
tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác,
văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác,
từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập
quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế

chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm
1970 tại Venise” [UNESCO 1989: 5].
Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá đã trở thành đối tượng của văn hoá
học (culturology, culture studies, science of culture) – khoa học nghiên cứu
về văn hóa. Trong lĩnh vực này, khởi đầu từ định nghĩa của E.B.Tylor trong
cuốn Văn hoá nguyên thuỷ (Primitive culture) xuất bản ở London năm 1871,
đến nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà nhân
học người Mỹ là A. Kroeber và C. Kluckhohn đã viết một cuốn sách chuyên
bàn về các định nghĩa văn hóa nhan đề: Văn hóa – tổng luận phê phán các
quan niệm và định nghĩa (Culture: a critical review of concepts and
definitions), trong đó đã dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa về văn hoá. Trong
lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này, số định nghĩa văn hoá đã tăng lên đến
trên 200. Còn hiện nay thì số lượng định nghĩa về văn hóa khó mà biết chính
xác được: có người bảo là 400, có người nói là 500, lại có người quả quyết
rằng chúng lên đến con số nghìn…
Trong trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm:
"Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn và trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ". [Trần Ngọc
Thêm,Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp HCM, 1998, 26].

10


b. Đặc trưng văn hóa
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Đặc trưng này cần để phân biệt
hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện những mối liênhệ mật thiết giữa các
hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những
quy luật hình thành và phát triển của nó. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa,
với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện

được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn
định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội, có lẽ
chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái
niệm văn hoá (nền văn hóa).
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị.
Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Tính
giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó là thước
đo mức độ nhân bản của xãhội và con người.Các giá trị văn hóa, theo mục
đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầuvật chất) và giá trị
tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành giá
trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân
biệtcác giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời
gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh
giá tính giá trị của sự vật,hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan phủ nhận sạch trơn hoặc tán dươnghết lời.Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng
một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theogóc nhìn, theo bình diện
được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay
không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ "giá trị" và “phi giátrị"
của nó. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không
tùy thuộcvào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào

11


Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều
đại nhà Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế. Nhờ
thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan
trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được
trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những
biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho

sự phát triển của xã hội.
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh.
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội
(do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa
là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự
nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh
thần (như việc đặt tên, truyền thuyết cho cáccảnh quan thiên nhiên...). Như
vậy, văn hóa học không đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất nước
học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người. Đối tượng của nó bao
gồm cả các giá trị tựnhiên, và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về
mặt này thì nó rộng hơn văn hoáhọc. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan
tâm đến các vấn đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học.Do
mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con
người, nóthực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với
nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
Văn hóa còn có tính lịch sử
Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được
tích luỹ quanhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ
phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một
chiều sâu; nó buộc văn hóathường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và
phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa.

12


Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm
tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời
gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới dạng
ngôn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ, luật pháp, dư luận...Truyền thống văn
hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọngthứ tư

của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng
nhữnggiá trị đã ổn định (truyền thống), mà hệ thống chuẩn mực mà con người
hướng tới. Nhờ nó mà vănhóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành
nhân cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái
sinh là đảm bảo tính kế tục của tịch sử: Nó là một thứ "gien" xã hội di truyền
phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau ./
1.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Văn hóa và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Ngôn
ngữ là phương tiện để thể hiện văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ.
Ngôn ngữ và truyền thống là kết tinh của văn hóa dân tộc, nhờ vào sự truyền
bá rộng rãi của ngôn ngữ mà văn hóa được phổ biến và lưu truyền rộng rãi,
nền văn hóa cũng nhờ đó mà phát triển. Sự biến đổi và phát triển của ngôn
ngữ luôn đồng hành với sự phát triển của văn hóa. Vì vậy muốn nghiên cứu
về văn hóa phải nghiên cứu về ngôn ngữ và ngược lại muốn nghiên cứu về
ngôn ngữ phải nghiên cứu về văn hóa. Điều này thể hiện rất rõ trong việc giao
thoa văn hóa giữa các dân tộc: Viêt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có một
ngôn ngữ riêng biệt vì vậy đương nhiên cũng có sự khác nhau giữa văn hóa.
Ví dụ: người Kinh nói Tiếng Việt và có bộ trang phục truyền thống là áo dài,
còn người Thái lại nói tiếng Thái và có trang phục riêng của dân tộc mình…
Vì thế khi muốn nghiên cứu về sự đa dạng của văn hóa Việt Nam trước hết
phải thấu hiểu được ngôn ngữ của đầy đủ 54 dân tộc.

13


1.2. Khái niệm định danh và các đặc điểm định danh
1.2.1. Khái niệm “định danh”
Thuật ngữ định danh có nguồn gốc từ tiếng La tinh, nghĩa là "tên gọi".
Có nhiều cách hiểu khác nhau về nghĩa của từ định danh. Trong cuốn Từ điển
tiếng Việt (năm 1994, do Hoàng Phê chủ biên), định danh được hiểu là "gọi

tên sự vật, hiện tượng" [11, tr.330]
Theo G.V Conssansky định danh là "sự cố định (hay gắn) cho một kí
hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu hiện (signifikat) phản ánh những đặc
trưng nhất định của một biểu vật (denotat) - các thuộc tính, phẩm chất và
quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần,
nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp
ngôn từ" [dẫn theo 28, tr.162]
Tóm lại, định danh chính là đặt tên cho sự vật, hiện tượng...
1.2.2. Đặc điểm văn hóa – dân tộc của định danh ngôn ngữ
Trong cuốn “Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy”
(2010) [28], tác giả Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra một đặc điểm của định danh
ngôn ngữ sau đây.
1.2.2.1. Đặc điểm văn hóa – dân tộc trong sự quy loại khái niệm được
định danh
Bản thân mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan có rất nhiều
thuộc tính và những quan hệ phức tạp khác nhau. Vì vậy, sau khi tiếp xúc với
sự vật hay hiện tượng để định danh nó, con người lựa chọn đặc trưng tiêu biểu
nhất, dễ khu biệt với đối tượng khác để đặt tên. Đây chính là hành vi phân
loại trong quá trình định danh tâm lí. Quá trình tâm lí định danh sự vật diễn ra
như sau: “ Sau khi tiếp xúc với một khách thể mới, con người đã tìm hiểu,
vạch ra một bộ những đặc trưng nào đó vốn có trong nó. Nhưng để định danh

14


người ta chỉ chọn đặc trưng nào thấy là tiêu biểu, dễ khu biệt với đối tượng
khác và đặc trưng ấy đã có tên gọi trong ngôn ngữ.” [28, tr.162]
Ví dụ: Để định danh cho một loài động vật có đặc tính di chuyển bằng
cách gập thân giống như khi con người dùng gang tay để đo, cứ mỗi lần đo
xong một gang là lại phải di chuyển ngón cái về ngón giữa và lặp lại, người

Việt trước hết quy loài động vật này vào khái niệm chỉ loài đã có tên gọi trong
tiếng Việt là “sâu” và chọn đặc trưng cách thức di chuyển nói trên cũng đã có
tên gọi là “đo”, trên cơ sở đó đã đặt tên cho loài động vật này là Sâu đo.
Đặc trưng văn hóa - dân tộc trong sự quy loại khái niệm khi định danh
được thể hiện ở chỗ cùng một đối tượng được định danh, các tộc người khác
nhau có thể căn cứ vào đặc điểm khác nhau của nó mà quy loại nó vào khái
niệm khác nhau. Chẳng hạn, Loài động vật có vú sống ở biển có kích cỡ rất
to, đẻ ra con và nuôi con bằng sữa được người Việt quy loại vào khái niệm
“cá” nên gọi là cá voi. Song người Nga và người Anh không quy loại khái
niệm động vật này vào khái niệm “cá” như vậy khi định danh mà đặt cho nó
tên riêng: Kit (tiếng Nga) và Whale (tiếng Anh).
1.2.2.2. Đặc điểm văn hóa – dân tộc trong sự lựa chọn đặc trưng định
danh
Mỗi một sự vật, hiện tượng là tổng hòa của rất nhiều yếu tố tạo nên, có
yếu tố mang tính cơ bản và có yếu tố mang tính không cơ bản. Việc lựa chọn
đặc trưng cơ bản để định danh là hiện tượng lí tưởng nhất: “Khi định danh
một sự vật, không có gì lí tưởng hơn là chọn ra được đặc trưng nào đó thuộc
đặc trưng bản chất của sự vật để làm cơ sở gọi tên nó” [28, tr.166]. Tuy
nhiên, không phải một sự vật hiện tượng nào được định danh cũng có thể lựa
chọn đặc trưng bản chất, trong trường hợp đó có thể lựa chọn những đặc
“trưng không cơ bản nhưng có giá trị khu biệt để làm cơ sở cho tên gọi (cái
gọi là “ không cơ bản” này chỉ trong mối quan hệ với các loại đối tượng có

15


“chất khác”). Song cái gọi là “đặc trưng không cơ bản ấy vẫn thuộc về
"chất" của mỗi sự vật và trở thành đặc trưng khu biệt của mỗi sự vật khi so
sánh hai vật đồng chất "lớn" với nhau.” [29, tr.166]
Ví dụ: Để định danh loại bánh làm bằng bột lúa mì ủ men nướng chín

trong lò người Việt gọi là "bánh mì". Tuy nhiên, có nhiều loại bánh làm bằng
bột mì, người phương Tây gọi theo cách thức làm bánh hay những tên gọi
khác thì người Việt lại sử dụng cách lựa chọn những đặc trưng về nguyên liệu
phụ đi kèm như: bánh mì bơ, bánh mì sữa, bánh mì kem...
Tham gia vào quá trình định danh có hai nhân tố quan trọng là chủ thể
định danh và đối tượng được định danh. Do đó, trong sự định danh cho sự
vật, hiện tượng, có hai loại lí do: lí do chủ quan và lí do khách quan.
Lí do chủ quan: Là lí do khó nhận biết hơn. Chỉ chủ thể định danh mới
hiểu vì sao lại lựa chọn tên gọi này để gọi tên người hay vật nào đó. Trường
hợp này thường thấy trong cách đặt tên người hay bút danh, nghệ danh của
nghệ sĩ.
Ví dụ: Một người cha là thủy thủ đã đặt tên cho con mình là Nam Phong.
Tên gọi này là có lí do chủ quan: “gió nam” là hướng gió tốt, giúp tàu thuận
buồm xuôi gió và người cha đặt tên con như thế mong con mình sẽ như ngọn
gió lành mang lại bình yên cho người thân.
Lí do khách quan: một sự vật, hiện tượng có một dấu hiệu đặc trưng dễ
nhận biết, nhìn thấy rõ nhất sẽ được lựa chọn ngay làm dấu hiệu để đặt tên.
Đây là lí do khách quan mọi người đều dễ dàng nhận thấy. Ví dụ: chim cuốc,
con mèo,...(tên gọi đặt theo tiếng kêu). Cách đặt tên cho các kí hiệu hóa học
thường có lí do khách quan, chẳng hạn như:
Clo: tên gọi có nguồn gốc Hy Lạp là Khloros nghĩa là “màu xanh lá cây”
Flo: tên gọi có nguồn gốc do từ La tinh Fluor có nghĩa “trôi chảy, lưu
động”.

16


Việc lựa chọn đặc trưng của đối tượng được định danh phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như: điều kiện sống, lao động, truyền thống, hoàn cảnh địa lí,
cách tư duy của mỗi dân tộc... Vì vậy, mỗi ngôn ngữ có thể chọn những đặc

trưng khác nhau của cùng một sự vật - hiện tượng để đặt tên.
Ví dụ: Người Việt gọi một loài rau thơm là rau mùi. Người Trung Quốc
lại gọi là hồ tuy do Hồ là tên do người Trung Quốc cổ đại gọi các khu vực
Trung Á, Ấn Độ và tuy có nghĩa là “ngọn, lá tản mạn”. Như vậy, người Trung
Quốc gọi tên dựa trên nguồn gốc xuất xứ và hình dáng lá. Còn người Việt căn
cứ vào mùi của loài cây ấy.
Như vậy, “mỗi ngôn ngữ có thể biểu lộ thiên hướng lấy những đặc trưng
có tính chất nhất định để làm cơ sở gọi tên. Do đó, giá trị của cùng một đặc
trưng trong từng ngôn ngữ là không như nhau. Dung lượng ý nghĩa của các
từ - tên gọi sẽ phụ thuộc vào những đặc trưng được lựa chọn” [28, tr.214].
Đặc trưng văn hóa - dân tộc không chỉ bộc lộ ở xu hướng chọn đặc trưng
nào (màu sắc hay hình dáng...) của bản thân đối tượng mà còn bộc lộ ở cả tính
chất đặc trưng - chủ quan hay khách quan, phụ thuộc vào chủ thể hay khách thể
được định danh. Cụ thể là, tên gọi của cùng một đối tượng nào đó ngoài thế
giới khách quan trong ngôn ngữ này được dựa trên đặc trưng có tính chất chủ
quan, trong khi ở ngôn ngữ khác dựa trên đặc trưng có tính khách quan.
Nguyễn Đức Tồn cho rằng “Đó là lí do mà mỗi tộc người chọn đặc điểm để
định danh đối tượng theo cách riêng của mình, và cùng một đối tượng trong
các ngôn ngữ khác nhau sẽ được gọi tên theo các cách khác nhau” [28, tr.218]
Ví dụ: Cùng một món ăn, người Việt gọi là mì tôm dựa trên nguyên liệu
chế biến, còn người Anh gọi là instant noodle (mì ăn ngay/ăn liền) dựa trên sự
đánh giá chủ quan có thể sử dụng ngay món ăn này mà không cần nấu nướng.
Như vậy, người Việt đặt tên cho sự vật dựa trên đặc trưng có tính chất khách
quan, còn người Anh dựa trên đặc trưng mang tính chủ quan để định danh.

17


Việc lựa chọn đặc trưng làm cơ sở cho tên gọi đối tượng nói trên đã quy
định hình thái bên trong của từ. Hình thái bên trong của một định danh được

biểu hiện bằng từ là phương thức đặc dân tộc nhờ nó mà một dân tộc nhất
định biểu hiện được tư tưởng, tình cảm của mình trong ngôn ngữ và là điều
kiện để phân biệt ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác. Vì vậy, “hai từ của hai
ngôn ngữ thoạt nhìn tưởng có vẻ tương đương, biểu hiện những ý nghĩa từ
vựng đồng nhất, vẫn có thể có cái không đồng nhất, bởi vì trong các từ ấy còn
hàm chứa cả những “quan điểm” khác nhau được lưu giữ lại ở hình thái bên
trong của từ” [28, tr.220]
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn trong “Đặc trưng văn hóa - dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy”, khi nghiên cứu và tiến hành khảo sát đặc điểm định
danh của một ngôn ngữ cần căn cứ vào các tiêu chí sau:
- Nguồn gốc tên gọi
- Kiểu ngữ nghĩa của tên gọi
- Cách thức biểu thị của tên gọi. [28, tr.220-221]
1.2.2.3. Các thủ pháp định danh
Tìm hiểu đặc trưng văn hóa – dân tộc trong ngôn ngữ qua vấn đề định
danh, ngoài việc tìm hiểu các đặc điểm về định danh theo ba tiêu chí nêu trên
thì cách thức định danh cũng là một vấn đề quan trọng. “Đặc trưng văn hóa dân tộc của định danh ngôn ngữ được biểu hiện không chỉ ở việc quy loại và
tách chọn đặc trưng để gọi tên đối tượng, mà còn được biểu hiện cả ở “kĩ
thuật ngôn ngữ” (thuật ngữ của B.A. Sereprennhicôp) trong việc định danh”
[28, tr.222]
Tác giả Nguyễn Đức Tồn đã dẫn các cách thức định danh sau do B.A.
Serepennhicốp đưa ra :
- Sử dụng tổ hợp ngữ âm biểu thị đặc trưng nào đó trong số các đặc
trưng của đối tượng này

18


×