Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

tìm hiểu ảnh hưởng của phật giáo đen việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.74 KB, 55 trang )

BÀI THẢO LUẬN VỀ
ẢNH HƯỞNG CỦA
PHẬT GIÁO ĐỐI
VỚI VĂN HÓA VIỆT
NAM
NHÓM 2 K40L
1.Nguyễn Đình Dũng
2. Nguyễn Khánh Huyền
3.Nguyễn Thị Minh Ngọc
4. Hoàng Thị Huệ
5. Trần Thị Dương
6. Huỳnh Văn Đa
7.Trương Thị Ngần
8.Lê Xuân Sơn
9.Lê Thị Thanh
10.Hoàng Kiều Anh
11.Đặng Phương Nam
12.Lê Viết Phong
13.Nguyễn Nhật Phi
14.Phạm Công Vũ
15.Nguyễn Văn Thiệu
16.Trần Thị Tuyết

PHẦN A
I.VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO
Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm 624 trước
công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà Na
(Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ Trung Ấn Độ lúc đó và hoàng hậu
1



Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ
của nhân sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra
căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp tu hành của các vị đó
đều không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập
định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta
cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được
Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là
ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.
1.Tư tưởng:
Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng
cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận có một đấng tối cao chi
phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi
người đều phải tuân theo luật Nhân - Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc
ác thì phải chịu báo ứng. Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ
phân biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ
như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngoài ra, đạo Phật cũng thể
hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người tu hành và tín đồ, quan điểm của đạo
Phật là “Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và
nếu ai có quyết tâm đều có thể thành tựu như Đức Phật.
Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ thống tổ
chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý do Đức Phật hiểu rõ sự ham
muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật chủ trương không giao giáo quyền quản lý
cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ
thống sơn môn (như dòng họ thế tục ngoài đời).
Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Trải
qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100 nước trên thế giới, ở
hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh
xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến.
- Giáo lý:

Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống, không
trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà hoàn toàn chỉ mang
tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để
dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến
mục đích sống yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.
2


- Giáo luật:
Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều hành
Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng đoàn, hướng mọi người
tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để
đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm:
+ Không sát sinh;
+ Không nói sai sự thật;
+ Không tà dâm;
+ Không trộm cắp;
+ Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác,
không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi tiết và cụ
thể đối với từng loại xuất gia.
- Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.

+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
2. Hệ phái Phật giáo:
Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã tuỳ theo căn cơ, đối tượng người nghe; tuỳ vào
từng vấn đề; tuỳ vào phạm vi thời gian, không gian, điều kiện, hoàn cảnh… mà thuyết giảng.
3


Sau khi Phật nhập Niết bàn, các vị Bồ tát, Thánh tăng đã tổ chức 4 lần kết tập kinh điển để lưu
truyền giáo lý của Phật về sau cho các hàng đệ tử có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu và
thực hành.
- Kết tập kinh điển thứ nhất được tổ chức tại thành Vương Xá sau khi Phật nhập diệt
7 ngày (có sách nói là 3 tháng) tập trung vào việc các Đại đệ tử của Phật tổng hợp và tụng
lại các phần Kinh – Luật – Luận, tuy nhiên kết tập kinh điển lần này chỉ là sự tổng hợp và
truyền tụng lại cho nhau qua lời nói, chưa có điều kiện để lưu lại trên văn tự.
- Kết tập kinh điển thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly sau khi Phật nhập diệt
hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực hành giới luật và tranh luận về 10 điều luật mới
một bộ phận Tỳ kheo trẻ đưa ra.
- Kết tập kinh điển lần thứ ba được tổ chức tại Thành Hoa Thị sau khi Phật nhập diệt
236 năm và cho đến lúc này cả 3 tạng Kinh – Luật – Luận mới chính thức được ghi chép
bằng văn tự Pa li vào các lá bối.
- Kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp Di La sau khi Phật nhập
diệt khoảng 600 năm. 3 tạng Kinh – Luật – Luận thời kỳ này đã được khắc bằng chữ Phạn
vào các lá đồng dát mỏng rồi được lưu giữ tại một ngôi tháp lớn ở nước Kế Tân.
Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo xuất hiện từ lần kết tập kinh điển thứ 2. Trong
10 điều luật mới một bộ phận tỳ kheo trẻ đưa ra và cho là hợp chính pháp, đó là: giáo diêm
tịnh (được đem muối đựng trong sừng để bỏ vào các món ăn khi không đủ muối); lưỡng chỉ
sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ 2 ngón tay vẫn được ăn); tụ lạc gian tịnh (trước ngọ ăn rồi
nhưng đến làng khác vẫn được phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy);
tuỳ ý tịnh (quyết nghị đã được Đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua đều có giá trị thi hành);
cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập quán); sinh hoà hợp tịnh (được uống sữa pha nước sau giờ

ngọ); thuỷ tịnh (rượu mới lên men được pha với nước uống trị bệnh); bất ích lũ Ni sư đàn
tịnh (được dùng tọa cụ không viền, kích thước lớn hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến
định (được nhận tiền vàng bạc cúng dàng). Các vị tỳ kheo lớn tuổi không chấp nhận và cho
đó là 10 điều phi pháp. Các vị tỳ kheo trẻ không chịu, tách ra thành lập một đoàn thể riêng
với chủ trương hành đạo theo tinh thần "Khế lý - khế cơ", phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh từng
thời kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh. Vì các vị chiếm số đông nên gọi là phái Đại chúng
bộ. Các vị cao tăng với chủ trương giữ y giới luật như ngày Đức Phật còn tại thế, đa số là
những người đạo cao, đức trọng nên gọi là phái Thượng toạ bộ.

4


Phái Thượng toạ bộ truyền sang phía Nam qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào,
Campuchia nên gọi là hệ phái Phật giáo “Nam truyền” hay “Nam tông”. Phái Thượng toạ
bộ chủ trương tôn trọng lối truyền thừa và chủ trương tự độ, tự giác.
Phái Đại chúng truyền sang Trung Quốc rồi truyền vào Việt Nam và Triều Tiên, Nhật
Bản ... được gọi là hệ phái Phật giáo “Bắc truyền” hay “Bắc tông”. Phái này chủ trương linh
động, khoan dung trong giới luật, không cố chấp vào từng chữ trong kinh để rút ra những
bài học về triết lý thực hành với tinh thần nhập thế, phổ độ chúng sinh, làm cho chúng sinh
cùng giác ngộ như mình, có nghĩa là: Tự độ, độ tha; Tự giác, giác tha.
3.Tông phái Phật giáo:
Cùng với sự phân chia hệ phái của Phật giáo và với cách tiếp cận, nhìn nhận khác
nhau về giáo lý Phật giáo, với tinh thần khế lý - khế cơ, từ hai phái lớn của Phật giáo lại
được phân thành nhiều tông phái khác nhau. Có thể nói, sự hình thành các tông phái không
phải là sự phân liệt, tranh chấp trong Phật giáo về quyền lợi, địa vị của Tăng chúng, cũng
không phải là sự phủ định lẫn nhau mà đây chính là sự phát triển làm cho Phật giáo trở nên
vững chắc.
Trước đây, Phật giáo có nhiều tông phái, sau này phần nhiều các tông phái có cùng
khuynh hướng sát nhập lại với nhau, còn lại 10 tông phái:
1.


Câu Xá tông

2.

Thành Thật tông

3.

Tam Luận tông

4.

Pháp Tướng tông

5.

Thiên Thai tông

6.

Hoa Nghiêm tông

7.

Luật tông

8.

Thiền tông


9.

Tịnh độ tông

10. Mật tông

5


Chín tông phái (từ 1 đến 9) thuộc loại bộ Hiển giáo. Trong Hiển giáo lại được chia ra
Nam tông (1,2) và Bắc tông (từ 3 đến 9). Hiển giáo là thứ giáo lý có thể dùng ngôn ngữ để
phát biểu, diễn đạt được. Hiển giáo là do Báo thân và Ứng thân Phật thuyết pháp.
Đối với Mật tông thuộc loại bộ Mật giáo, là thứ giáo lý không thể dùng ngôn ngữ diễn
đạt. Mật giáo là do Pháp thân Phật thuyết pháp, do đó giáo phái này còn được gọi là Chân
Ngôn hay Chân Ngôn tông.

II. QUÁ TRÌNH PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM:
1. Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu:
Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ các hải cảng vùng
Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam...lợi dụng được luồng gió thổi định kỳ
vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á, những thương
nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến
đi viễn dương này, các thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện
cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở
Đông Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân
giao lưu của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch,
Mahoda-con vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam . Tư liệu trong Lĩnh Nam
Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ
3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước công nguyên 2879-258). Đó là câu chuyện công

chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và
Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo
một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư Ấn Độ
ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật. Qua dữ kiện
này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu
trước Tây lịch.
Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử có thể cho chúng ta
một kết luận chắn chắc rằng Đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt Nam chứ không
thông qua Trung Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cứ liệu lịch sử
chứng minh rằng Đạo Phật đồng thời được truyền vào Việt Nam qua con đường Đồng Cỏ.
2. Phật Giáo du nhập qua con đường Đồng Cỏ:
Con đường Đồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đường bộ còn gọi là con đường tơ lụa con
đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung
Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở
Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà. Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ
qua vùng Tây Tạng và các triền sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. Cuốn
Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát từ Trung
Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống
6


Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố
Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới
vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này
có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ
vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn
sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Nói chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng Phật Giáo truyền
vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng những phương tiện hòa bình và vì thế
không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt lệ nào rơi vì sự truyền bá Đạo Phật vào

Việt Nam.

III. ĐẶC ĐIỂM:
1.Đặc điểm chung của phật giáo:
Phật giáo là tôn giáo của sự từ bi, nhân đạo và bình đẳng. Trong khi kinh Vệ đà cho phép
giết súc vật để dâng cúng thần linh thì đạo phật kịch liệt bài bác những kiểu tế lễ như thế.
Không những vậy, Phật giáo còn tiến hành nhiều cuộc vận động chống đối không khoan
nhượng đối với phong tục này. Do việc tính chất phức tạp của việc tế lễ nên phải nhờ đến
bàn tay của các Bà la môn (Brahmin) vốn rất thành thạo trong lĩnh vực này. Vì vậy mà các
Bà la môn dần dần nắm giữ một địa vị đặc biệt trong cơ cấu xã hôi của người Ấn Độ Aryan. Ngay đến các Sát-đế-lợi(Kshatriya) và Phệ-đà(Vaishya), là những thành phần đặc
biệt(dvijas) được hưởng các quyền ưu tiên như các Bà la môn cũng không có được vai trò
đáng kể trong việc cử hành buổi lễ. Đối với các tiện dân(Shudra) thì họ chỉ được giao các
việc hèn mọn như chẻ củi, cắt cỏ cho súc vật tế lễ, và lôi đến nơi tế lễ những con vật câm
lặng như trâu, bò, cừu đầm đìa nước mắt, theo sự mô tả trong các kinh sách Phật giáo như
kinh Cửu la đàn đầu(Kutadanta-sutta) thuộc Trưởng Bộ kinh(Digha-nikaya).
Một đặc điểm đáng nói khác là đạo Phật bác bỏ mọi sự tự cho mình thuộc dòng dõi cao
sang như kiểu tự hào của các Bà la môn. Đạo phật bác bỏ tất cả mọi sự phân biệt trong xã
hội giữa người với người và nói rằng chính cái nghiệp, tức là sự việc làm của một người,
mới quyết định sự danh giá hay thấp hèn của người đó.
Một đặc điểm khác có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội học trong Phật giáo là tôn giáo này đón
nhận cả nam giới lẫn nữ giới. Theo lời kể lại thì Đức Phất lúc đầu không quyết định thu
nhận nữ giới vào tang đoàn. Nhưng khi tôn giả A-nan-đà(Ananda) nói với ngài để xin cho
bà Maha Ba-xa-ba-đề(Mahapajapati) gia nhập Tăng đoàn thì cuối cùng ngài đồng ý, dù có e
ngại cho hậu quả của quyết định này. Đồng thời với việc chấp thuận đó, ngài cũng đưa ra
một số điều kiện có ý hạn chế nữ giới so với nam giới. Chúng ta không nên xét đoán ngài
theo tiêu chuẩn của thời đại của chúng ta, vào thời đại ấy, đây đâ là một bước tiến dài.
2.Đặc điểm phật giáo Việt Nam
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó
là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật
giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các

nước khác.

7


-

-

Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo
lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn
giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát
Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào
thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy theo phong tục tập
quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì
có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng
không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng
sanh.

Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà không phải một,
nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều
có tên chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây
gọi là khế cơ là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa,
khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt
Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những
thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng
song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù được
bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam
vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam

a. Tính dung hòa
- Dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và
thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy
nhiên bốn vị thần này đã được "Phật giáo hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng
Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc
theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo
nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các
vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số
các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của
dân tộc, và do vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ pháp”
thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây-Mưa-Sấm-Chớp
và thờ đá. Lối kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là “tiền Phật, hậu Thần” với việc đưa
các thần, thánh, các thành hoàng, thổ địa, các anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Có
những chùa còn có cả bàn thờ cụ Hồ Chí Minh ở Hậu tổ. Hầu như không chùa nào là không
để bia hậu, bát nhang ho các linh hồn, vong hồn đã khuất.
-

Hòa hợp giữa Phật giáo với Khổng, Lão
8


Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật
giáo bắc truyền tiếp nhận Đạo giáo. Rồi cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo
đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có
cùng một mục đích) truyền vào Việt Nam qua đường Bắc thuộc. Ba tôn giáo trợ giúp lẫn
nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp
sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở
giữa,Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.

Ngoài ra giáo lý Phật giáo còn được hòa trộn với các tôn giáo khác để hình thành Đạo Cao
Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
+ Phật giáo Việt Nam tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho, với
Đạo, tạo thành quan niệm Tam giáo đồng nguyên (3 tôn giáo cùng phát nguyên từ
một gốc) và Tam giáo đồng quy (3 tôn giáo cùng quy về một đích).
+ Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ với việc đạo và việc đời. Vốn là một tôn
giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam, Phật giáo trở nên rất nhập thế: Các cao tăng
được nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Sự gắn bó
đạo – đời không chỉ thể hiện ở việc các nhà sư tham gia chính sự, mà ngược lại
còn có khá nhiều vua quan quý tộc đi tu. Trong 6 thế hệ đệ tử của phái Thảo
Đường thì đã có tới 9 người là vua quan đương nhiệm. Không phải ngẫu nhiên mà
ở sân chùa Phổ Minh, quê hương nhà Trần, lại có chiếc vạc đồng lớn (1 trong “An
Nam tứ đại khí”) tượng trưng cho quyền lực.
Vẫn với truyền thống gắn bó với đời, đầu thế kỷ XX, Phật tử Việt Nam hăng hái tham
gia vào các hoạt động xã hội (như cuộc vận động đòi ân xá Phan Bội Châu và đám tang
Phan Châu Trinh). Thời Diệm – Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia tích cực vào phong
trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lập dân tộc, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống đường đấu
tranh phản đối nền độc tài của gia đình họ Ngô, đỉnh cao là sự kiện hòa thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963.
- Phật giáo ảnh hưởng của mẫu hệ
Nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo Việt Nam có phần nữ tính
hóa.
Các vị Phật Ấn Độ xuất hiện với thân nam, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật
bà". Mẹ Quan Âm(Quan thế âm bồ tát) là vị "thần" cứu giúp cho nhân dân, người miền biển
còn gọi là Quan Âm Nam Hải (biển đông). Ngoài ra người Việt còn có những vị "PhậtMẫu" riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu),Quan Âm Thị
Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương,
Bà chúa Ba).
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành Phật Ông – Phật Bà.
Bồ tát Quán Thể Âm đã được biến thành Phật Bà Quan Âm với nghìn mắt nghìn tay – vị
thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước Đông Nam Á (nên còn gọi là Quan Âm

9


Nam Hải). Ở một số vùng, ngay cả Phật tổ Thích Ca cũng được coi là phụ nữ (người Tày
Nùng gọi là “Mẹ Pựt Xích Ca”). Người Việt Nam còn tạo ra những “Phật bà” riêng của
mình: Đứa con gái nàng Man, tương truyền sinh vào ngày 8-4 được xem là Phật Tổ Việt
Nam, bản thân bà Man trở thành Phật Mẫu. Rồi còn những vị Phật bà khác nữa như Quan
Âm Thị Kính, Phật bà chùa Hương. Lại còn rất nhiều các bà bồ tát như Bà Trắng chùa Dâu,
các thánh mẫu…
Việt Nam có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa Bà Đậu, chùa
Bà Tướng, chùa Bà Dàn, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh… Tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia là
các bà: Trẻ vui nhà, già vui chùa là nói cảnh các bà.
Chùa hòa nhập với thiên nhiên, bao giờ cũng là nơi phong cảnh hữu tình; bởi vậy mới
có cách nói ví “vui như trảy hội chùa”. Cảnh chùa hữu tình, hội chùa vui, cửa chùa rộng
mở, cho nên cũng là nơi chở che cho trai gái tình tự: “Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ, Trai
chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”.
- Dung hòa giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng
thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ
Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền
tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc vô cùng phong phú các loại tượng Phật,bồ tát, la hán và các
tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng dung hợp hai truyền thống
truyền thừa. Nhiều chùa mang hình thức Nam truyền (chỉ thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư đắp
y vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng
Phật nhỏ khác, bên cạnh y vàng còn có áo nâu, áo lam.
Phật giáo Việt Nam là tổng hợp các tông phái lại với nhau. Ở Việt Nam, không có
tông phái Phật giáo nào thuần khiết. Tuy chủ trương của Thiền tông là bất lập ngôn, song ở
Việt Nam chính các thiền sư đã để lại nhiều trước tác có giá trị. Dòng Thiền Tì-ni-đa-lưuchi thì pha trộn với Mẫu giáo, nhiều thiền sư phái này, nhất là những vị sống vào thời Lý
như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài

biến hóa thần thông. Phật giáo Việt Nam cũng tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự
lực và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông.
Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng mấy chục pho
tượng Phật, bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Ở phía Nam, Đại thừa và Tiểu thừa
kết hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang hình thức tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca, sư mặc
áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa, bên cạnh Phật Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng
nhỏ, bên cạnh áo vàng vẫn có đồ nâu lam.
b. Có tính linh hoạt
10


- Tự tạo ra lịch sử phật giáo riêng cho mình với ngày phật đản 8-4
Ngay từ đầu, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo cho riêng mình: nàng Man, cô
gái làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo, trở thành Phật tổ với
ngày sinh là ngày Phật đản 8-4.Nhưng hiện nay , vì tại Hội nghị Phật giáo thế giới ở Sri
Lanka đã quyết nghị lấy ngày trăng tròn đầu mùa hạ (ngày 15/4 âm lịch) làm ngày kỷ niệm
Phật đản chính thức. Theo thông lệ, hằng năm cứ đến ngày này, hầu hết các nước có Phật
giáo và những người con của Phật đều long trọng tổ chức kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời. Từ
năm 1999, Lễ Phật đản đã được Liên Hiệp Quốc công nhận là ngày lễ hội văn hóa tâm linh
thế giới. Lễ Phật đản là một trong ba lễ cấu thành Lễ Tam hợp mà Liên Hiệp Quốc gọi là
Vesak (lễ Phật đản sinh, lễ Phật thành đạo và lễ Phật nhập Niết bàn).
Ở Việt Nam, lễ Phật đản từ lâu đã trở thành lễ hội lớn của dân tộc, được Giáo hội Phật giáo
Việt Nam tổ chức một cách trang trọng. Nhiều người hay gọi ngày Phật đản là “Mùa Phật
đản” để hòa chung niềm vui cùng mọi người trên khắp thế giới mừng ngày Đức Phật ra đời.
Đây cũng là dịp để khích lệ truyền thống văn hóa Phật giáo đối với công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam, đồng thời thể hiện rõ chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta nên được tổ chức long trọng, thu hút rất nhiều người tham gia, kể cả những người không
có tín ngưỡng Phật giáo.
Ngoài việc tổ chức buổi lễ chính vào đúng ngày Rằm tháng 4, Giáo hội Phật giáo Việt Nam
tại các tỉnh, thành còn tổ chức xe hoa diễu dành trên các đường phố; làm lễ phóng sinh, thả

hoa đăng trên sông; tổ chức văn nghệ chào mừng Phật đản, thuyết giảng Phật pháp, đèn
lồng và cờ Phật giáo được treo khắp các chùa, làm lễ đài tổ chức… có hàng nghìn tăng, ni,
phật tử tham dự.
Đặc biệt, Giáo hội Phật giáo các tỉnh thành và các chùa cơ sở phối hợp với Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tại địa phương tổ chức các hoạt động từ thiện, xây nhà tình thương, thăm
hỏi và tặng quà bà con nghèo.
- Coi trọng việc sống phúc đức hơn đi chùa
Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là
đi chùa: Thứ nhất là tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù xây chín bậc phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người; coi trọng truyền thống thờ cha mẹ, ông bà hơn là
thờ Phật: Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới là chân tu; đồng nhất cha mẹ, ông
bà với Phật: Phật trong nhà không thờ đi thờ Thích ca ngoài đường
+ Theo phật giáo việc sống phuc đức là những viêc


Hiếu Thảo : bạn nên có Hiếu với cha mẹ. Bạn nên nhớ rằng, tội bất hiếu, chửi mắng, đánh
đập và đi nói xấu cha mẹ mình,bạn phải gánh chịu quả báo rất nặng về sau, khi con cháu
hành hạ và đối xử tệ bạc với mình. Từ bây giờ, bạn nên quan tâm và chăm sóc cha mẹ
mình. Cha mẹ phải chịu bao nhiêu đau khổ và mồ hôi nước mắt để nuôi bạn lớn thành
người, họ không kể ngày kể công, bạn đừng có kể ngày kể công. Bạn đừng nên sống thất
11

















đức với cha mẹ, rồi con cháu về sau sẽ nghĩ như thế nào đây! Bạn đừng để con cháu khinh
bỉ mình và chửi bới mình. Bạn nên nghĩ là mình phải nên để lại tấm gương đạo đức cho
con cháu noi theo.
Vợ Chồng : Tình nhân nên sống chung thủy, không ngoại tình, không hãm hại hôn nhân của
người khác, nếu bạn làm vậy thì về sau bạn và con cháu luôn bị người khác phản bội và
phá hoại hạnh phúc của mình. Rồi bạn sẽ gặp quả báo đau khổ
Giữ gìn hành vi – Lời Nói và Suy Nghĩ Bản Thân cho chân chính, tránh tà kiến, không công
kích và phỉ báng những người khác.
Nếu bạn luôn nghĩ xấu và đi nói xấu, hãm hại, đánh, giết người khác, thì về sau; bạn và con
cháu của bạn sẽ gặp Quả báo tù tội, kiện cáo, bị vu oan giáng họa, bị hãm hại, bị bệnh tật
hiểm nghèo,... Tất cả chúng là Quả Báo để trừng phạt những gì bạn đã gây ra cho những
người khác. Từ bây giờ; bạn nên mở lòng vị tha để cho Tâm bạn luôn được Thanh thản,
thân thể của bạn và của người khác được bình an. Đã sống trên đời thì bạn nên giữ chữ tín.
Đã hứa với ai điều gì thì nên thực hiện. Đã nợ cái gì thì nên trả. Đã sai lầm thì nên cúi đầu
xin lỗi. Mở lòng nhân từ và bao dung cho tất cả mọi người.
Trong cuộc đời này, bạn sống mà Tâm luôn được thanh thản, đó mới là hạnh phúc thực sự.
Bạn giàu có hay đã có thứ mình cần mà tâm luôn đau khổ, lo lắng, sợ mất, sợ bị vạ, hay thở
dài vì người khác giàu có hoặc khá giả, thành đạt hơn mình, thì đó không phải là hạnh
phúc. Cả cuộc đời bạn sẽ luôn chìm trong đau khổ và vô nghĩa.
Thịnh thì người khen. Suy thì người chê – Tiếng thị phi của người đời thế gian là vậy đó.
Biết đủ thì tâm luôn được an vui.
Lễ cúng : Các ngày lễ hoặc ngày thường, bạn nên mua hoa, quả, lễ vật chay quý giá Lên
Chùa, Đền và Bàn thờ Tổ Tiên để cúng dàng.

Phóng sinh : Mua nhiều Chim, Cá,...rồi mở lòng phóng sinh, thả tự do cho chúng. Đó là
công đức lớn để cứu độ người bệnh và cả vong linh.
Tâm bệnh : Những người mắc bệnh hiểm nghèo, bệnh nan y, hay khám không ra bệnh, hay
cùng một lúc nhiều bệnh. Y học hiện đại không chữa được là do bạn mắc bệnh Quả Báo,
chỉ có những việc làm Tu Tâm – Tích Đức mới chữa được.
Làm việc thiện Phát tâm đi đến Hội khuyến học của tỉnh, huyện, xã và thành tâm quyên góp
tiền ủng hộ cho tất cả học sinh, sinh viên nghèo để các em có cơ hội được học tập, đỗ đạt
và thành tài, về sau con cháu của bạn sẽ được hưởng phúc này.
Cứu người : Khi gặp người bị nạn, gặp khó khăn, rơi đồ xuống đường, bạn nên đến giúp
đỡ, nếu bạn bỏ đi thì ắt về sau bạn sẽ gặp quả báo.
Nhìn thấy những đoạn đường hư, lở,... Bạn nên mở lòng bồi đường, đắp lộ để cho nhiều
người đi qua được bình an
Hạn chế sát sinh Sát sinh là tội ác thất đức trên đời. Bạn nên buông dao xuống và nhớ rằng:
Sinh mạng của chúng cũng như chúng ta, ăn đồ sát sinh, bạn nên nghĩ đến là khi cầm dao
12






giết nó, nó đã kêu lên thảm thiết và đau đớn cầu xin chúng ta như thế nào, nó chẳng khác
gì chúng ta khi bị kẻ thù cầm dao cắt cổ rồi ăn xác chết của nó
Quyên góp : Những người nghèo khổ có thể cải vận của mình bằng việc lập công đức như
trên và bạn nên cứu giúp tiền bạc hay sự giúp đỡ tới những người nghèo khổ và khó khăn
hơn mình. Nếu bạn đã nghèo rồi mà còn ích kỷ, không bố thí và giúp đỡ cho nhữngngười
khốn khổ hơn mình, thì cuộc đời bạn đã nghèo thì vẫn cứ là nghèo. Bởi vì người có lòng
lập công đức thì Trời Phật sẽmở tương lai sáng cho người đó, cho dù người đó đang gặp
khó khăn hay đang chịu quả báo ở kiếp này đi nữa.
Làm ăn lương thiện : Nếu bạn Kinh Doanh mà làm ăn lừa đảo, trốn thuế, cân sai, ăn bớt,

thay linh kiện kém, sản phẩm gây độc hại cho nhiều người sử dụng, dùng âm mưu hãm hại
đối thủ, bán cho xong tay, rồi mặc cho sự đau khổ của người khác thì những việc làm thất
đức của bạn, về sau bạn và con cháu của bạn phải gánh chịu Quả Báo rất nặng. Làm ăn
chân chính và Tích Đức thì có Phúc lớn về sau.
+ Vào Việt Nam đức phật đồng nhất với vị thần
Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống
có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa: Nghiêng vai ngửa vái Phật,
Trời, Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân; làm nên mây mưa sấm chớp để mùa
màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ pháp); ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa
cầu tự: Tay bưng quả nếp vô chùa, Thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo); ban lộc cho
người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật và hái lộc lúc giao
thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu kinh và làm
lễ tiễn đưa người chết)
Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt Nam có khi phá cả giới Phật giáo. Có
nơi, do muốn buộc ông sư phải gắn bó với làng mình để giữ chùa, cúng lễ; dân làng đã
tổ chức cưới vợ cho sư, khiến ngôi chùa gần như trở thành một gia đình.
Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt Nam có khi phá cả giới Phật giáo. Có
nơi, do muốn buộc ông sư phải gắn bó với làng mình để giữ chùa, cúng lễ; dân làng đã
tổ chức cưới vợ cho sư, khiến ngôi chùa gần như trở thành một gia đình
+ Tượng phật Việt Nam mang dáng dấp hài hòa
Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất dân gian: ông
Nhịn ăn mà mặc (Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di-lặc to béo), ông Bụt Ốc
(Thích Ca tóc quăn)… Nhiều pho tượng được tạc theo lối ngồi không phải trên tòa sen
mà là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản dị. Trên đầu Phật Bà chùa Hương còn lấp ló
lọn tóc đuôi gà truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Do lịch sử truyền nhập Phật giáo ở đây, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại Thừa
(Mahayana). Do đó, ở nhà chính điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, chúng ta
thấy nhiều tượng Phật (Buddha), Bồ Tát (Bodhisattva) (v.v.) Đó là chưa kể sự có mặt
những tượng thần của các tôn giáo khác và của tín ngưỡng dân gian Việt Nam truyền
13



thống. Sự hiểu biết về các tượng trong ngôi chùa Việt Nam giúp chúng ta thấy rõ đặc
điểm của Phật giáo Việt Nam.
Chính điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của sự thờ cúng trong chùa. Ở đây có nhiều
bàn thờ, và bàn thờ chính, ở giữa, thường được làm thành những bậc từ cao xuống thấp.
Không có một công thức chung cho sự bài trí tượng ở các chùa Việt Nam. Vị trí của các
tượng thay đổi một cách linh hoạt tùy theo từng ngôi chùa.
(…) Ở tầng cao nhất của bàn thờ giữa ở chính điện, sát vách, thường có ba pho tượng
được gọi là “tam thế”, tức tượng các vị Phật của ba thời gian: Quá khứ, Hiện tại và Vị
lai. Ba vị Phật này chỉ là đại biểu cho vô số Phật trong mọi thời gian và không gian,
theo quan niệm của Phật giáo Đại Thừa.
Phía dưới ba pho tượng tam thế, thường xếp ba pho tượng gọi là “Di Đà tam tôn”, gồm
tượng Phật A Di Đà (Amitabha) ở giữa, tượng Bồ Tát Quan Thế Âm (Avalokitesvara) ở
bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí (Mahasthamaprapta) ở bên phải. Tượng Phật A Di
Đà thường có kích thước lớn hơn.
Sự có mặt ở vị trí đặc biệt của tượng Phật A Di Đà cùng với tượng các Bồ Tát Quan Thế
Âm và Đại Thế Chí nói lên vai trò quan trọng của phái Tịnh Độ trong Phật giáo Việt
Nam. Ở Việt Nam không có một phái Tịnh Độ riêng biệt, nhưng tín ngưỡng Tịnh Độ
phổ biến rộng rãi, làm thành một cơ tầng bình dân cho Phật giáo. Theo tín ngưỡng này,
người ta tin có một cõi Tịnh Độ hay Tây Phương cực lạc, nơi có Phật A Di Đà ngự trị,
các Bồ Tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí tiếp dẫn linh hồn chúng sinh về nơi đó. Người
ta chỉ cần niệm tên Phật A Di Đà nhiều lần là có thể vãng sinh ở cõi Tây Phương cực
lạc. Tên A Di Đà Phật đã trở thành lời chào nhau của các tín đồ Phật giáo Việt Nam.
Cần nói thêm là trong chùa Việt Nam, tượng Đại Thế Chí chỉ được bày bên cạnh tượng
A Di Đà, còn tượng Quan Thế Âm, hay Quan Âm, thì có nhiều kiểu và có thể được đặt
ở nhiều nơi. Đó là vì tín ngưỡng Quan Âm ở Việt Nam có một vị trí độc lập, không phải
lúc nào cũng gắn liền với tín ngưỡng Tịnh Độ A Di Đà. Người Việt Nam coi Quan Âm
là nữ thần cứu khổ cứu nạn, có thể giúp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, vượt
qua các tật bệnh, tai ương. Tín ngưỡng này có thể đã kết hợp với tín ngưỡng các nữ thần

có nguồn gốc dân gian. Quan Âm được thờ ở chùa mà cũng có thể được thờ ở nhà.
Trong các chùa Việt Nam, tượng Quan Âm có ba kiểu.
Tượng “Quan Âm tống tử” thể hiện một người phụ nữ bế một đứa bé, bên cạnh có con
vẹt. Tượng này gắn liền với câu chuyện dân gian kể rằng Thị Kính bị chồng là Thiện Sĩ
nghi oan, đã cải trang làm trai, lấy tên là Kính Tâm, đi tu ở chùa. Có một cô gái là Thị
Mầu say mê Thị Kính nhưng bị cự tuyệt. Về sau, Thị Mầu đã đem đứa con hoang mới
sinh của mình vứt vào chùa, đổ oan cho Thị Kính là bố đứa bé. Thị Kính đã nhẫn nhục,
14


nuôi nấng đứa bé, và sau này, bà trở thành Bồ Tát Quan Âm. Con vẹt là hậu thân của
Thiện Sĩ.
Tượng “Quan Âm Nam Hải” là tượng Quan Âm ở trên biển. Người Trung Quốc đã coi
Potalaka, nơi ở của Avalokitesvara theo truyền thuyết Ấn Độ, là núi Phổ Đà trên quần
đảo Chu Sơn gần Hàng Châu. Đến lượt người Việt Nam lại đồng nhất Nam Hải, nơi ở
của Quan Âm với biển Việt Nam:
Trong các chùa Việt Nam còn có loại tượng Quan Âm có nhiều tay, được gọi là “Quan
Âm chuẩn đề” (Cundi-Avalokitesvara). Trong loại tượng Quan Âm nhiều tay, có kiểu
“Thiên thủ thiên nhãn” (Sahasrabhuja-sahasranetra) với nghìn tay nghìn mắt (ở giữa
mỗi bàn tay có hình một con mắt). Pho tượng kiểu này ở chùa Bút Tháp (tỉnh Bắc Ninh)
do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656 được coi là niềm tự hào của điêu khắc cổ
Việt Nam.
Các tượng Quan Âm tống tử, Quan Âm Nam Hải thường được bày trên các bàn thờ ở
góc hai bên bàn thờ chính ở nhà thượng điện. Tượng Quan Âm nhiều tay có lúc đặt trên
bàn thờ chính, cũng có lúc bày ở bàn thờ riêng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở
chùa Bút Tháp đặt ở gian bên cạnh của bàn thờ chính. Ở một số chùa, tượng Quan Âm
còn được đặt trong các động đắp bằng vôi vữa.
Trên bàn thờ chính, dưới ba pho tượng Di Đà tam tôn đã nói ở trên, thường là tượng
Phật Thích Ca Mầu Ni (Sakyamumi), với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) ở
bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền (Samantabhadra) ở bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa

sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Cũng có tượng Văn Thù ngồi trên
lưng con sư tử màu xanh và Phổ Hiền ngồi trên lưng con voi màu trắng. Bộ ba tượng
này thể hiện cảnh Phật Thích Ca đang thuyết pháp. Có khi, thay vào vị trí của Văn Thù
và Phổ Hiền, là hai đệ tử của Thích Ca là Ca Diếp (Kasyapa) và A Nan Đà (Ananda).
Tượng Thích Ca trong chùa Việt Nam thường có một số kiểu khác nhau, diễn tả những
giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Phật.
Tượng Tuyết Sơn biểu hiện thời kỳ Thích Ca tu khổ hạnh trong núi, có thân hình gầy
guộc, ngực hiện rõ những chiếc xương sườn. Việt Nam có nhiều pho tượng Tuyết Sơn
đẹp, đặc sắc như các tượng ở chùa Tây Phương, chùa Mía...
Tượng Nhập Niết Bàn (Parinirvana) là tượng Thích Ca nằm nghiêng, cánh tay chống
lên đỡ lấy đầu, mắt lim dim. Trong các chùa Việt Nam, kiểu tượng này hiếm, nhưng
cũng có một số pho đẹp như ở chùa Mía hay chùa Trấn Quốc...
Kiểu tượng phổ biến là Thích Ca Sơ Sinh, đó là hình một chú bé với tay trái chỉ lên trời,
15


tay phải chỉ xuống đất. Theo truyền thuyết, lúc Thích Ca ra đời, có chín con rồng (naga)
phun nước tắm. Vì thế, tượng Thích Ca sơ sinh ở Việt Nam thường đặt dưới một vòm
chạm hình chín con rồng bay xung quanh, giữa những đám mây, với các hình chư thiên,
tiên nữ và có khi cả bát bộ Kim Cương. Kiểu tượng này được gọi là tượng Cửu Long
(Chín rồng). Tượng Thích Ca Sơ Sinh và tượng Cửu Long thường được bày ở tầng dưới
cùng của bàn thờ chính. Hai bên tượng Thích Ca sơ sinh, người ta thường đặt tượng Đế
Thích (Indra) và tượng Phạm Vương, còn gọi là Phạm Thiên (Brahma) (...) Ở Việt Nam,
Indra - Đế Thích và Brahma - Phạm Thiên được coi là các chúa tể của thế giới người và
thần, nên khi đức Thích Ca chưa thành đạo, họ phải ở luôn bên cạnh để hộ trì. Vì họ
được quan niệm là những ông vua, nên tượng của họ được tạo trong tư thế ngồi ngai
báu, đội mũ miện, mặc áo cổn. Tuy nhiên, như ta thấy, ở một số nước châu Á, Indra có
một vị trí quan trọng hơn Brahma trong tín ngưỡng của nhân dân. Tín ngưỡng về Indra
thường hòa lẫn vào tín ngưỡng dân gian. Ở Việt Nam cũng vậy, từ xưa, Đế Thích không
chỉ được thờ phụng bên cạnh Phạm Thiên mà còn có thể được thờ phụng riêng. Đã có

những ngôi chùa dành riêng cho việc thờ Đế Thích, như chùa Vua ở Hà Nội.
Trên bàn thờ chính ở nhà thượng điện, ngoài tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, ở một
số chùa, còn có tượng Phật Di Lặc (Maitreya). Tượng Di Lặc được tạo với bộ mặt tươi
cười, áo phanh, để hở cái bụng to. Người Việt Nam quen gọi Di Lặc là “ông vô lo”.Thật
tương phản, khi tượng Di Lặc đặt bên cạnh tượng Tuyết Sơn, gày gò khắc khổ! Di Lặc
đã có mặt từ lâu trong Phật điện Việt Nam. Nhưng dường như trong Phật giáo Việt
Nam, Di Lặc không có một vị trí bằng A Di Đà. Hầu hết các chùa đều có tượng A Di Đà
nhưng không phải chùa nào cũng có tượng Di Lặc. Ở Trung Quốc có tín ngưỡng Tịnh
Độ A Di Đà lẫn tín ngưỡng Tịnh Độ Di Lặc, nhưng ở Việt Nam chỉ có tín ngưỡng Tịnh
Độ A Di Đà mà không có tín ngưỡng Tịnh Độ Di Lặc.
Trong nhà tiền đường, thường có hai tượng Hộ Pháp (Dvarapala), những thiên thần bảo
vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí, đứng hoặc ngồi trên lưng sấu, một loại sư tử
huyền thoại. Những tượng này thường được đắp bằng đất, phủ sơn, và có kích thước rất
lớn, đầu gần chạm mái. Vì vậy mà trong ngôn ngữ Việt Nam, có thành ngữ “to như Hộ
Pháp”. Trong một số chùa, ở nhà tiền đường, có bày tượng Bát Bộ Kim Cương
(Vajrapani), tức tám vị thần bảo vệ của Phật, cũng mặc giáp trụ và cầm vũ khí. Đôi khi,
ở nhà bái đường, còn có các bàn thờ mười vị Diêm Vương (Yama), được gọi là Thập
Điện Diêm Vương, tức mười vị vua cai quản mười tầng địa ngục. Bàn thờ mười Diêm
Vương cũng có lúc được đặt sát tường ở hai bên nhà chính điện. Cảnh mười tầng địa
ngục đôi khi được chạm trong những bức phù điêu hay đắp thành động, diễn tả cảnh
những người có tội bị các quỷ Dạ Xoa (Yakasas) hành hình bằng nhiều cách, trước mặt
các Diêm Vương. Trong nhà bái đường, có thể có một số bàn thờ khác, thờ Thổ Địa
(Thần Đất), Long Vương, hay Đức Ông, người bảo vệ tài sản của chùa. Có người cho
rằng người bảo vệ tài sản chùa này chính là Cấp Cô Độc (Anathapindika), người đã
cúng nhiều tài sản cho Phật, nhưng nhiều người khác không nghĩ như vậy.

16


Ở nhà tổ, ngoài tượng các vị sư từng trụ trì ở chùa, còn có bàn thờ đặt tượng Bồ Đề Đạt

Ma (Bodhidharma), nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ VI, được coi
là người sáng lập Thiền Tông ở đây. Vì Phật giáo Việt Nam thường tự coi là thuộc các
phái Thiền nên đều thờ vị tổ thứ nhất này. Tượng Bồ Đề Đạt Ma thường có mũi cao, tóc
quăn, râu quai nón.
Ở các chùa có hai dãy hành lang, người ta thường bày tượng 18 vị La Hán (Arhat), mỗi
bên 9 tượng. Có chùa, như chùa Keo (tỉnh Thái Bình), các tượng La Hán được bày ngay
ở nhà tiền đường. Riêng ở chùa Tây Phương, có những pho tượng đẹp bày ở hậu đường
được coi là các tượng La Hán, nhưng căn cứ vào tên các vị này, như Gia Na Hòa Tu
(Sanakavasa), Ba Tu Mật (Vasumitra), Phật Đà Nan Đề (Buddhanandi), Ca Tỳ Ma La
(Kapimala), La Hầu La Đa (Rahulata), Tăng Già Nan Đề (Sanghanandi), Cưu Ma La
Đa (Kumarata), Chà Dạ Đa (Jayata)... chúng ta thấy đó là các vị tổ (trong 28 vị) người
Ấn Độ mà Thiền Tông Trung Quốc truy nguyên và thừa nhận. Nếu vậy, đây là tượng tổ
chứ không phải tượng La Hán.
Do tính chất pha tạp của Phật giáo Việt Nam, trong các chùa, ngoài tượng các Phật, các
Bồ Tát, La Hán hay các thiên thần Phật giáo, ta còn có thể gặp tượng các vị thần Đạo
giáo như Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân hay Nam Tào, Bắc Đẩu.
Đặc biệt là trong các chùa Việt Nam thường có các bàn thờ Mẫu, tức nữ thần Mẹ. Thờ
Mẫu là một tín ngưỡng Việt Nam có nguồn gốc dân gian. Có nhiều Mẫu, như Mẫu
Thượng Ngàn (nữ thần Núi), Mẫu Thoải (nữ thần Nước), Mẫu Địa Phủ (nữ thần Đất)...
Một vị Mẫu có vị trí quan trọng trong tín ngưỡng Việt Nam là Mẫu Liễu, tức công chúa
Liễu Hạnh, được coi là một trong “Tứ Bất Tử” (bốn vị thánh bất tử). Thánh Mẫu Liễu
Hạnh được thờ trong nhiều đền nổi tiếng nhưng cũng được thờ trong nhiều chùa. Chẳng
hạn, ở chùa Mía, bàn thờ Liễu Hạnh được đặt ngay ở nhà tiền đường.

IV. PHẬT GIÁO VIỆT NAM PHÁT TRIỂN QUA CÁC THỜI ĐẠI:
1. Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V, thời kỳ du nhập và hình
thành Phật Giáo Việt Nam:
Không bao lâu khi Phật Giáo được truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt động
truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Độ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở
thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với những sinh hoạt hoằng

pháp của ngài Khâu Đà La (người Ấn Độ đến Luy Lâu khoảng năm 168-169) đã xuất hiện
một mô hình Phật Giáo Việt Nam hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man
Nương Phật Mẫu (hình tượng Phật Nữ). Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật
17


Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác (sinh cuối thế kỷ thứ II)
theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền
vào Trung Hoa chưa phổ cập đến Giang Đông, mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp,
độ được hơn 500 tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta”.
Ngay từ đầu, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo cho riêng mình: nàng
Man, cô gái làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo, trở thành
Phật tổ với ngày sinh là ngày Phật đản 8-4.
Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung thực
hơn là đi chùa: Thứ nhất là tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù xây chín bậc phù
đồ, Không bằng làm phúc cứu cho một người; coi trọng truyền thống thờ cha mẹ, ông bà
hơn là thờ Phật: Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới là chân tu; đồng nhất cha
mẹ, ông bà với Phật: Phật trong nhà không thờ đi thờ Thích ca ngoài đường (Tục ngữ).
Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống
có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa: Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời,
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân; làm nên mây mưa sấm chớp để mùa màng tốt tươi
(hệ thống chùa Tứ pháp); ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự: Tay bưng
quả nếp vô chùa, Thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo); ban lộc cho người bình dân để
quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật và hái lộc lúc giao thừa); cứu độ cho người
chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu kinh và làm lễ tiễn đưa người chết).
Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt Nam có khi phá cả giới Phật giáo. Có
nơi, do muốn buộc ông sư phải gắn bó với làng mình để giữ chùa, cúng lễ; dân làng đã tổ
chức cưới vợ cho sư, khiến ngôi chùa gần như trở thành một gia đình.
Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất dân gian: ông
Nhịn ăn mà mặc (Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di-lặc to béo), ông Bụt Ốc

(Thích Ca tóc quăn)… Nhiều pho tượng được tạc theo lối ngồi không phải trên tòa sen mà
là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản dị. Trên đầu Phật Bà chùa Hương còn lấp ló lọn tóc
đuôi gà truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

18


Ngôi chùa Việt Nam được
thiết kế theo phong cách ngôi
nhà cổ truyền với hình thức mái
cong có 3 gian 2 chái… Chùa
Một Cột như một lễ vật dâng lên
Phật Bà với hình bông sen thanh
thoát ở trên và trụ đá tròn trong
hồ vuông ở dưới biểu hiện ước
vọng phồn thực (no đủ và đông
đúc).
Cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành công trình công cộng quan trọng thứ hai ở
mỗi làng. Người dân đi bất kỳ đâu có thế ghé chùa xin nghỉ tạm hoặc xin ăn.
i ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài "Lý hoặc Luận" và dịch một số kinh
sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao Châu và như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát
triển khá mạnh, ít nhất là vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch.
Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại Giao Châu là các
ngài Khương Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư); ngài Chi Cương Lương Tiếp
(người xứ Nhục Chi) và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Độ).
Đến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Đạt Ma Đề Bà (Oharmadeva,) và Huệ Thắng
(người Việt). Thiền sư Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V
để giảng dạy về phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ Thắng là người địa phương là một
trong những học trò của ông.
Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu kỷ nguyên Tây lịch,

nên danh xưng Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng
Việt là Bụt (Trung Hoa dịch là Phật). Điều này trùng hợp với danh từ Bụt được xuất hiện
trong nhiều truyện cổ tích Việt Nam. Theo từ điển Phật học Việt Nam, (Minh Châu và Minh
Chi, Hà Nội 1991) có ghi: "Tiếng Bụt phổ biến hơn trong văn học dân gian và là dấu hiệu
chứng tỏ Đạo Phật truyền vào nước ta sớm lắm". Phật Giáo ở Giao Châu lúc ấy mang màu
sắc Nam phương, nhưng trong con mắt của nền văn minh nông nghiệp, người Việt Nam lại
hình dung Đức Phật như là một vị thần toàn năng có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để
cứu độ mọi người.
2. Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển:
Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của
Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật Giáo Bắc phương (Trung Quốc) đã chiếm ưu thế
và đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn có từ trước. Từ Buddha được dịch
thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần thay thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn
trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích mà thôi.
19


Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam, đó là Thiền
Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông.
a.

Thiền Tông :

Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Đức Phật Thích Ca tại Ấn Độ
(trong hội Linh Sơn) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho đến Tổ thứ 28 Ấn
Độ là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Đến năm 520 Tổ Bồ Đề Đạt Ma, vốn là thái tử thứ ba
của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã Đa La (Prajnatara), Bồ Đề Đạt
Ma đến Trung Hoa để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành
và nhanh chóng hưng thịnh.
Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu theo pháp

môn này đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở
tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu, và cũng chính nhờ họ ghi chép lại mà chúng ta
ngày nay mới biết được lịch sử Thiền Tông ở Việt Nam.
Dòng thiền thứ nhất: được Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sáng lập. Ngài là người Nam
Thiên Trúc, sang Trung Hoa học đạo và được tổ thứ ba thiền tông Trung Hoa là Tổ Tăng
Xán khuyên nên "mau đi về phương nam mà tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây".
Ngài từ biệt và đến Việt Nam vào năm 580, ở tại chùa Pháp Vân (nay là Thuận Thành Hà
Bắc) để hoằng pháp và truyền cho tổ thứ hai là ngài Pháp Hiền (người Việt Nam). Đây là
dòng thiền có tích cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của
Phật Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ Việt
Nam. Dòng thiền này truyền được 19 thế hệ.
Dòng thiền thứ hai: là thiền phái Vô Ngôn Thông, do thiền sư Vô Ngôn Thông người Trung
Hoa sáng lập tại chùa Kiến Sơ (Phù Đổng, Hà Bắc) vào năm 280. Người kế nghiệp ngài là
thiền sư Cảm Thành. Đây là thiền phái chịu ảnh hưởng Phật Giáo Trung Hoa sâu đậm, tuy
nhiên vẫn rất gần gũi với đời sống xã hội, hòa nhập vào đời sống người dân trong khi vẫn
duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập của mình. Thiền phái này truyền được 17 thế hệ.
Dòng thiền thứ ba: là thiền phái Thảo Đường, do thiền sư Thảo Đường (người Trung Hoa)
sáng lập, ngài vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành, được vua Lý Thánh Tông (1054-1072)
giải phóng khỏi kiếp sống tù đày và vua cho lập đạo tràng tại chùa Khai Quốc ở ngay kinh
thành Thăng Long (1069) đệ tử theo học rất đông, trong đó có cả chính vua Lý Thánh Tông.
Thiền phái này có khuynh hướng thiền tông trí thức và văn chương, do đó không cắm rễ
được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng được tới một số trí thức và vua quan có khuynh
hướng văn học. Dòng thiền này truyền được 6 đời.
Dòng thiền thứ tư: đó là thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258-1368) khai
sáng. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một thiền
sư cư sĩ nổi tiếng đời Trần, sau khi xuất gia vào năm 1299 với đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu
Đà, ngài đã lên tu ở núi Yên Tử (tỉnh Quãng Ninh) và tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc
Lâm, một dòng thiền Việt Nam đầu tiên, mang tính chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp
hài hòa của Phật Giáo AᮭHoa. Lập ra thiền phái Trúc Lâm này, vua Trần Nhân Tông đã
20



thống nhất được các thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ Giáo Hội Phật Giáo đời Trần về
một mối.
Nhìn chung thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền tổng hợp được ba yều tố đặc thù của xã
hội. Trúc Lâm đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện cho nông dân và Huyền Quang đại
diện cho nho sĩ, tính cách quý tộc, nông dân và nho sĩ là thể hiện toàn diện trong con người
Trúc Lâm. Sự tổng hợp đó, đã tạo nên nét đặc thù của thiền phái Trúc Lâm mà các thiền
phái trước đó không có được, kể từ đó đưa Đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ
thể, giáo hội được tổ chức chặt chẽ, cũng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc xây dựng phồn
vinh cho đất nuớc. Sau thời đại Lý Trần các dòng thiền Việt Nam dường như lu mờ và tàn
lụi hẳn, đến cuối thế kỷ thứ XX, tiếp nối đạo mạch Việt Nam, thiền sư Thích thanh Từ đã
phục hưng nền thiền tông Việt Nam đó là thời điểm đầu những năm 70 tại tu viện Chơn
Không (1970-1986) rồi đến Thường Viện Thường Chiếu (1974-1994) và hiện nay là thiền
viện Trúc Lâm ở Đà Lạt. Đây có thể nói là một dòng thiền khác mang tính cách độc lập của
người Việt Nam. Thiền sư Thanh Từ đã không theo các dòng thiền nào truyền thống mà chỉ
tổng hợp chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng của ba thiền sư nổi tiếng là thiền sư Huệ Khả (tổ
thứ 2, Trung Hoa) thiền sư Huệ Năng (tổ thứ 6, Trung Hoa) và thiền sư Trần Nhân Tông (sơ
tổ Trúc Lâm, Việt Nam) mà lập thành phương pháp tu tập cho thiền sinh Việt Nam trong
thời hiện đại.
b.

Tịnh Độ Tông:

Khác với Thiền Tông, Tịnh Độ Tông chủ trương phải dựa vào tha lực tức sự giúp đỡ từ bên
ngoài. Thật ra, Thiền hay Tịnh Độ cũng chỉ là những pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều
đối tượng khác nhau do Đức Phật truyền giáo ra. Chính Đức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự
lực của mình để đến giác ngộ thì cần phải giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan
trọng. Điều này gợi cho tín đồ liên tưởng đến một cõi Niết Bàn cụ thể đó là cõi Tịnh Độ hay
thế giới Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ. Sự giúp đỡ đó còn cho thấy bản thân

của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa dâng hương, cúng dường, bố thí, làm những
điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà để đạt đến
nhất tâm bất loạn và muốn đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn này, hành giả trong lúc niệm Phật
phải hình dung, quán tưởng về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.
Nhờ cách thức tu tập đơn giản như vậy nên Tịnh Độ Tông là tông phái phổ biến khắp đất
nước Việt Nam. Đâu đâu ta cũng gặp người dân tụng Kinh A Di Đà và niệm danh hiệu của
Đức Phật A Di Đà. Tượng Phật A Di Đà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ biến ở
Việt Nam. Điển hình là pho tượng Phật A Di Đà bằng đá, cao gần 2m,thờ tại chùa Phật
Tích, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057.
Đây là một bằng chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Độ Tông đầu tiên ở Việt Nam.
c.

Mật tông:

Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật ngữ, mật chú để khai
mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh
chính là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương. Mật tông truyền vào Việt Nam không còn độc
21


lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các
truyền thống như chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật
tông không có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng
chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.
3. Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII, thời kỳ cực thịnh
Đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam đã trải qua 1000 năm Bắc thuộc. Như ta đã thấy, Phật Giáo
Việt Nam của thế kỷ thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền sư là Đạt Ma Đề Bà và Huệ Thắng. Thế
kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Việt Nam: Quán Duyên và Pháp Thiền. Chính trong thế kỷ
này mà thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Việt Nam. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và
IX là ba thế kỷ thuộc nhà Đường cai trị, đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam mới bắt đầu giành

được quyền tự chủ. Chính trong thế kỷ này Đạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những
đóng góp tích cực cho đất nước. Năm 971 vua Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và
ban chức tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài
Khuông Việt Thái Sư, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho
chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành đã mời thiền sư Pháp Thuận và
thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm cố vấn chính sự. Các thiền sư
Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ giúp vua Lý Thái Tổ trong thế
kỷ kế tiếp.
Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Do ảnh
hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đầu thế kỷ thứ VIII, ba
thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát nhập tạo thành một và
đưa tới sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy
đời Trần có thể gọi là thời đại thống nhất của Phật Giáo các hệ phái trước đó. Tăng sĩ đời
Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các thiền sư đời Lý, nhưng Phật
Giáo là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm. Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho các
nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo
trong đời Trần là quốc giáo, mọi người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo. Nhà nho
Lê Quát, học trò Chu Văn An, đã lấy làm tức giận vì thấy toàn dân theo Phật : "Phật chỉ lấy
điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu sa và bền chắc đến như vậy? Trên từ Vương
Công, dưới đến thứ dân, hễ làm việc gì thuộc về việc Phật, thì hết cả gia tài cũng không
tiếc. Nếu hôm nay đem tiền để làm chùa xây tháp thì hớn hở, vui vẻ, như trong tay đã cầm
được biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên trong kinh thành ngoài đến
Châu Phủ, đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo, chẳng thề mà tin, hễ chổ nào có nhà
thì có chùa Phật; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại" (8).
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây dựng trong thời
Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng, chùa Một Cột, chùa Phổ
Minh. Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của Phật Giáo Việt Nam thời Lý Trần mà
sách vỡ Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4 công trình nghệ thuật lớn mà họ gọi là An Nam
Tứ Đại Khí (9). Đó là:


22


Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh) được xây
dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay vẫn
còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng 4m) đặt trong một
tòa Phật điện cao 7 trượng. Đứng từ bến đò Đông Triều, cách xa 10 dặm vẫn còn trong thấy
nóc chánh điện.
Tháp Bảo Thiên: gồm 12 tầng, cao 20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm
1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội
ngày nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Đây là đệ nhất danh thắng đế
đô một thời. Đến năm 1414 tháp bị quân Vương Thông tàn phá, nền tháp còn lại to như quả
đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho
tượng Kim Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá huỷ hoàn
toàn để xây dựng nhà thờ lớn trên mảnh đất ấy.
Chuông Quy Điền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để đúc quả
chuông này và dự định treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu (10) trong lầu chuông bằng đá
xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to quá (đường kính 1,5 trượng (khoảng 6m)
cao 3 trượng (khoảng 12 m), nặng đến vài vạn cân) không treo nổi lên đành để ở ngoài
ruộng.
Vạc Phổ Minh: đúc bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông (1279-1293) đặt tại chùa Phổ
Minh (làng Tức Mặc, Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước nặng trên 7 tấn (11). Vạc to
tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có thể chạy nô đùa trên thành miệng
vạc. Đến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc trước sân chùa Phổ Minh.
4.Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX, thời kỳ phục hưng:
Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý Trần, sang đến đời
Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm
vai trò độc tôn.
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Đức thì mất chủ quyền, nước ta rơi vào vòng
đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn. Trong bối cảnh đó,

Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo
mới của phương Tây. Tuy tinh thần khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ
qua không còn được thể hiện trong chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX
nhưng Phật Giáo vẫn là tôn giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực
tranh chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của phong trào chấn hưng
Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ và Miến Điện, một số tăng
sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự
thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa
Quán Sứ, và xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt
tại chùa Từ Đàm và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội đã mở các Phật
Học Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc Lâm và
23


Tây Thiên. Ở Bình Định có hội Phật Học Bình Định, ở Đà Nẵng có hội Phật Học Đà Thanh,
ra tạp chí Tam Bảo. Tại miền Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được thành lập để đoàn kết và
vận động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội nghiên cứu Phật Học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ
sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Năm 1933 Liên Đoàn Học Xã ra
đời. Năm 1034, hội Phật Học Lưỡng Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Du Tân Phật học và mở
Phật Học đường Lưỡng Xuyên.
Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà đội ngũ tăng ni được đào tạo qua nhiều trường
lớp và phát triển nhiều ở các tỉnh. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là hệ thống
chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi chùa ở làng xã được trùng tu và có chư tăng ni trụ
trì. Bên cạnh đó, trong thời kỳ này, có nhiều hệ phái, tôn phái phật giáo ra đời, như giáo
phái Khất Sĩ Việt Nam, Thiên Thai Giáo Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông ..Một yêu cầu
thống nhất Phật Giáo được đặt ta tại Huế, đưa đến việc thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm Huế, hội chủ là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đây là một
tổ chức thống nhất Phật Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc, đồng thời vạch ra một con đường
dân tộc nhân bản, hướng dẫn bước đi Phật Giáo vào môi trường tư tưởng và văn hóa, tiếp

tục xây dựng con người và xã hội Việt Nam. Điểm đặc sắc của Phật Giáo Việt Nam trong
thế kỷ XX là sự kết hợp của hai giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào năm 1964 để thành
lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Giáo Hội này hoạt động cho đến năm 1981
thì ngưng hoạt động trong nước, nhưng có văn phòng hai Viện Hóa Đạo đặt tại tiểu bang
California, Hoa Kỳ, hoạt động rất mạnh.
Đến 11/1981, sau sáu năm đất nước thay đổi thể chế, một hội nghị với 165 đại biểu của chín
tổ chức giáo hội hệ phái cả nước đã họp tại chùa Quán Sứ Hà Nội đưa đến việc thành lập
Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm pháp Chủ Hội Đồng
Chứng Minh Trung Ương, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Trung
Ương. Giáo hội đặt văn phòng I tại chùa Quán Sứ Hà Nội, văn phỏng II tại chùa Xá Lợi
thành phố Hồ Chí Minh.

V. THỐNG KÊ MỘT SỐ THÀNH QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM:
Từ khi du nhập cho đến nay, Phật Giáo Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm, lúc thịnh lúc
suy, có lúc thống nhất, có lúc phân tán, do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đây Phật Giáo
Việt Nam đã được thống nhất từ Bắc chí Nam. Các hệ phái phật giáo vẫn được bảo lưu, nét
đặc trưng trong pháp môn tu hành vẫn được tôn trọng, hệ thống chùa chiền, tăng ni đã được
thống kê, quản lý thống nhất. Theo số thống kê được công bố trong hội nghị thường niên
của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam thì số tự viện Phật Giáo và số tăng ni mà giáo hội đã
thống kê được là 14.303 ngôi tự viện, trong đó gồm 13.312 tự viện Bắc tông, 469 tự viện
Nam tông nguyên thủy và Khmer, 142 tịnh xá khất sĩ, 95 tịnh thất và 185 niệm Phật đường.
Về tăng ni thì có 26.268 vị, có ba Học Viện Phật Giáo, một Trường cao đẳng chuyên khoa
phật học, 30 trường cơ bản phật học, một Trường đào tạo đội ngũ giảng viên hoằng pháp.
Ngoài ra giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thành lập được Viện Nghiên Cứu Phật Học tại
thành phố Hồ Chí Minh và phân viện nghiên cứu tại thủ đô Hà Nội. Và đặc biệt là hội đồng
24


phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam cũng đã được thành lập, tính đến nay hội
đồng đã phiên dịch ấn hành 30 tập kinh được dịch từ chữ Hán và chữ Pali, đây là một thành

quả đáng kể của Phật giáo Việt Nam. Vì đây là lần đầu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam
người Phật tử trong xứ sở này có được một bộ đại tạng kinh bằng tiếng Việt.

PHẦN B
ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
I. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO VỀ MẶT TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VÀ
DẠO LÝ:
Như đã trình bày ở phần A, ta thấy rằng Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỷ
nguyên Tây lịch, rồi tồn tại, phát triển và chan hòa với dân tộc này cho đến tận hôm nay.
Nếu thời gian là thước đo của chân lý thì với bề dày lịch sử đó, Đạo Phật đã khẳng định
chân giá trị của nó trên mãnh đất này. Trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa chính trị đặt biệt là
xét trên khía cạnh hệ thống tư tưởng, thì Đạo Phật đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình
thành một quan niệm sống và sinh hoạt cho con người Việt Nam. Trong phần này sẽ tìm
hiểu về tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo đã tác động đến con người Việt Nam như thế nào và
người Việt Nam đã tiếp thu những tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo ra sao.
1.Về tư tưởng:
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát
chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo, nguyên thủy cũng
như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại. Duyên
khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những các sự kiện thuộc
thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những hiện tượng về thế giới tự
nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu
hoại. Có 4 loại duyên cần được phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện
gần gũi nhất, như hạt lúa là nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là
những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên
cho hạt lúa. Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức,
thứ tư là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát sinh
trưởng thành và tồn tại.

Luật nhân quả cần được quán sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có thể gọi là
luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc không bao giờ có
25


×