Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Đường lối cách mạng của ĐCSVN Văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Văn hóa là tổng thể các giá trị và chuẩn mực trong đời sống tinh thần của một
cộng đồng xã hội, một dân tộc, là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển bền
vững. Văn hóa có tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội, chi phối đến mọi
hành vi hoạt động của con người. Vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa được đặt trong
mối quan hệ biện chứng giữa ba lĩnh vực cơ bản là kinh tế, chính trị và văn hóa. Sự
phát triển toàn diện và bền vững của đất nước trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải phát
triển đồng bộ cả ba lĩnh vực này. Chính vì lẽ đó, đường lối quan điểm của Đảng về văn
hóa có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc hôi nhập, tăng trưởng kinh tế và phát
triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Là một sinh viên, trong thời kỳ đất nước hội nhập với thế giới, có cơ hội được tiếp
cận với nhiều nền văn hóa khác nhau và nhận thấy được tác động to lớn tới bản thân và
xã hội trong thời kỳ đất nước hội nhập, do đó em chọn đề tài “Tìm hiểu đường lối quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng văn hóa, phát triển nền văn hóa trong
thời kỳ đổi mới.” để tìm hiểu.

2. Tổng quan đề tài

Tháng 8 năm 1943, khi còn ở trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu ra một định nghĩa về văn hóa: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa VIII ra đời đã “đáp ứng đúng yêu



cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, đã nhanh chóng đi vào
cuộc sống, được xã hội nhiệt tình hưởng ứng thực hiện, gắn kết chặt chẽ hơn văn
hóa với các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn
định chính trị và tạo nên những thành tự về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại… của đất nước”.
Đại hội X của Đảng (2006) Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng
cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng
bộ hơn với phát triển kinh tế- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội”.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài

Cung cấp thông tin về quan điểm, mục tiêu, chính sách của Đảng về xây dựng nền
văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc; thực trạng hiện nay, những thành tích và hạn
chế trong hơn 30 năm đổi mới, từ đó đưa ra các giải pháp trong xây dựng các hoạt động
văn hóa, xây dựng đạo đức, lối sống, tác phong của con người vì mục tiêu phát triển đất
nước
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm của Đảng về xây dựng phát
triển nền văn hóa; thực trạng văn hóa của nước ta hiện nay
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng nền văn hóa thời kỳ trước và sau đổi mới; thành quả, hạn chế và đề xuất giải
pháp sau 30 năm đổi mới.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tai

Thông qua các tài liệu chính thống, các bài viết của những nhà nghiên cứu, đề tài sử
dụng phương pháp tổng hợp thông tin, so sánh, phân tích; kết hợp với tham khảo ý
kiến của giảng viên để rút ra các kết luận phù hợp.
6. Đóng góp đề tài



Đề tài này có nhiệm vụ thu thập, nghiên cứu về các đường lối, phương hướng và
mục tiêu của Đảng trong xây dựng nền văn hóa, cung cấp cho sinh viên của trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội và toàn xã hội các hiểu biết về thực trạng nền văn hóa nước ta
hiện nay và biết được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các giải pháp để giải
quyết các hạn chế còn tồn tại hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài

Đề tài gồm phần mở đầu, phần nội dung bao gồm 3 chương và phần kết luận.

CHƯƠNG I. Quá trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng, phát triển nền văn
hóa
1.1. Thời kỳ trước đổi mới
1.1.1. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá mới
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối
xây dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng
nền văn hoá Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại, mang tính chất xã hội chủ
nghĩa.


Trong quá trrình vận động cách mạng giành chính quyền, năm 1943 Ban thường
vụ Trung ương Đảng đã thông qua bản Đề cương văn hoá Việt Nam do đồng chí Trường
Chinh trực tiếp dự thảo.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
lên 2 nhiệm vụ cấp bách cuả Nhà nước về văn hoá.
+ Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt.
+ Hai là, phải giáo dục lại tinh thần nhân dân.
Trong văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960), Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là
một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản
xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn hoá mới là

nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân
sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản
1.1.2. Đánh giá thực hiện đường lối
+ Khơi dậy được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc, kết hợp với
những giá trị tiến bộ và phù hợp của nhân loại và thời đại, tạo nên sức mạnh vật chất và
tinh thần đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc.
+ Định hình cơ bản những giá trị văn hoá mới của dân tộc gắn với sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên nhiều lĩnh vực
văn hoá, đi sâu vào đời sống nhân dân.
+ Góp phần tích cực vào việc xoá bỏ những tàn dư của nền văn hoá thực dân cùng với
những hủ tục lạc hậu gây tổn hại tới bản chất của nền văn hoá mới.
+ Góp phần xây dựng đội ngũ trí thức hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật,
không ngừng nâng cao về trình độ, chất lượng sáng tác.
Hạn chế:


+ Công tác tư tưởng văn hoá thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng thể chế
văn hoá còn chậm, sự suy thoái về đạo đức lối sống có chiều hướng phát triển. Đời sống
văn hoá nghệ thuật còn nhiều bất cập.
+ Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá giai đoạn 1955 - 1986 bị chi phối bởi tư duy
chính trị "nắm vững chuyên chính vô sản" mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai
cấp, đấu tranh ý thức hệ.
+ Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị quy định
bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xoá bỏ tư hữu, xoá
bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt.
+ Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm
lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo dục; kìm hãm năng
lực tự do sáng tạo.
1.2. Trong thời kỳ đổi mới
1.2.1. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá

- Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận thức mới, quan
điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá, đối với con người
thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở cho những nhận thức
mới, quan điểm mới về văn hoá của Đảng.
Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng nào có thể thay
thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu
sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người".
Đại hội VI cũng xóa bỏ cơ chế cũ đã không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng
định đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi
trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển.
- Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc
trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


- Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định văn hoá
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
+ NQTƯ 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4
giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ mới.
+ HNTƯ 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng
nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng thời cũng nhận định: cơ chế thị
trường đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ đời
sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hoá.
1.2.2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và trong cả cộng đồng dân tộc. Nó được truyền lại, tiếp nối và phát huy

qua các thế hệ người Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần vững bền của xã hội, trở thành
động lực phát triển kinh tế xã hội.
- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn cái đúng, cái tốt, cái
đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hoá với số lượng và chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để
hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất dẫn tới suy thoái xã hội.
- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển


Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ,
văn minh chính là mục tiêu của văn hoá
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển là vấn đề bức xúc.
Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập đang tìm tới
con đường dẫn tới ấm no hạnh phúc, thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn
hoá và phát triển kinh tế xã hội càng có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục tiêu
văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chính sách phát triển
của nhiều quốc gia.
- Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau như tài nguyên, vốn
v...v.. Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con
người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt.
Hai là, Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả
vì con người.
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được xây dựng, vun đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước.
Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hoá với các quốc gia để xây dựng những giá
trị mới của nền văn hoá Việt Nam đương đại. Đồng thời phải chống những cái lạc hậu,
lỗi thời trong phong tục tập quán và lề thói cũ.
Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.


Nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam là 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều
có những giá trị và bản sắc văn hoá riêng. Các giá trị và bản sắc văn hoá đó bổ sung cho
nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Mọi người Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá của đất nước,
trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hoá do Đảng ta lãnh đạo và Nhà nước quản lý.
Năm là, văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Làm cho những giá trị văn hóa thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở
thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn,
phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy xây"
làm chính.
1.2.3. Đánh giá việc thực hiện đường lối
- Trong những năm qua, cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hoá mới đã bước đầu được
tạo dựng; quá trình đổi mới tư duy về văn hoá, về xây dựng con người và nguồn nhân

lực có bước phát triển rõ rệt, môi trường văn hoá có những chuyển biến theo hướng
tích cực; hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng.
Hạn chế và:
- Sự phát triển của văn hoá chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu
gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Môi trường văn hoá
còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá
mê tín, lai căng....


- Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, chưa đổi mới thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác
dụng của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước.
Chương 2. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN
HOÁ
2.1. Phương hướng
Một là, hướng mọi hoạt động văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, tuân thủ
pháp luật, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn
hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội, làm cho văn hóa trở thành
nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp
của văn hóa đân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa
các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của
văn hóa Việt Nam, tập trung xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi đôi với việc mở rộng
và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm
phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Ba là, giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi người, phát huy
cao độ tính sáng tạo của trí thức văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng văn hóa, nghệ thuật; tạo
cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản phảm văn hóa, nghệ thuật chất
lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại.

Bốn là, tạo mọi điều kiện để nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt động, sáng
tạo văn hóa của nhân dân; phấn dấu từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn
hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.


Năm là, đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các
hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, coi đầu tư cho văn
hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững.
2.2. NHỮNG NHIỆM VỤ CỤ THỂ
2.2.1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức
tính sau:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng
kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái.
2.2.2. Xây dựng môi trường văn hoá
Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí
nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội..., các vùng dân cư (đô thị,
nông thôn, miền núi...) đời sống văn hoá lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hoá đa
dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân.
Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương
mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình. Xây dựng mối quan hệ khăng khít
giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
2.2.3. Phát triển sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật
Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ

thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây dựng con
người.
Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục


đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các khuynh
hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính.
Không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ thuật của công
chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng.
2.2.4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá
Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc,
cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Coi trọng bảo tồn, kế thừa,
phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân gian), văn hoá cách mạng,
bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể.
2.2.5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ
Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên và tu chỉnh hệ thống sách giáo khoa, nâng cao
chất lượng giảng dạy các bộ môn ngữ văn, lích sử, chính trị, pháp luật, đạo đức; giảng
dạy nhạc và họa ở các trường phổ thông.
Hoạt động khoa học xã hội - nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ phải góp phần
đắc lực giải quyết các vấn đề đặt ra trên lĩnh vực văn hóa, thông tin, văn học, nghệ
thuật.
2.2.6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng
Củng cố, xây dựng, phát triển, từng bước hiện đại hóa hệ thống thông tin đại chúng.
Sắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, thông tấn, báo chí,
xuất bản, thông tin mạng nhằm tăng hiệu quả thôngb tin, tránh lãng phí; phối hợp hoạt
động của các loại hình thông tin, báo chí, giữa thông tin, báo chí với các lĩnh vực văn hóa
- nghệ thuật.
2.2.7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
“Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển
những giá trị mới về văn hoá, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số.

Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn
ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số


học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.
Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hoá, văn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số.
2.2.8. Chính sách văn hóa đối với tôn giáo
Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của dân, bảo đảm cho các tôn giáo
hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp luật, nghiêm cấm xâm phạm tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
2.2.9. Mổ rộng hợp tác quốc tế về văn hóa
Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới; tiếp thu có
chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến những kinh
nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước. Ngăn ngừa sự xâm nhập các
sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy.
Giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà, thu nhận
thong tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc,
giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào
công cuộc xây dựng đất nước.
2.2.10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế
Củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý có hiệu quả của nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân và lực lượng những
người hoạt động văn hóa, tạo nhiều sản phẩm và sinh hoạt văn hóa phong phú, đa dạng,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của
cơ chế thị trường, ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.



Chương 3: NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI
3.1. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện đường lối, quan điểm về
phát triển văn hóa và con người trong 30 năm đổi mới
3.1.1. Đổi mới văn hoá về khía cạnh chính trị - pháp lý
Từ ngày đổi mới đến nay, đời sống văn hoá của người dân Việt Nam đã được
nâng lên một tầm cao mới, trở nên đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Một điều đổi
mới quan trọng trong tư duy là Đảng đã công nhận khía cạnh quyền lợi cá nhân trong
quyền tự do văn hoá.
Có thể nói, đổi mới về khía cạnh chính trị - pháp lý là đòn bẩy để chúng ta xây
dựng và phát triển con người và nền văn hoá mới vừa mang tính tiên tiến của thời đại,
vừa phát huy các giá trị bản sắc dân tộc của văn hoá truyền thống.
3.1.2. Tiếp thu các giá trị văn hoá của thế giới để làm giàu cho văn hoá Việt Nam
Nhờ chính sách mở cửa, ngày nay người dân Việt Nam đã được tiếp xúc với
nhiều loại hình nghệ thuật mới.
Trước hết nói về lĩnh vực điện ảnh. Phim ảnh nước ngoài, đặc biệt là phim
phương Tây, bắt đầu được giới thiệu rộng rãi ở nước ta, kể cả phim có giá trị nghệ
thuật đặc thù lẫn phim giải trí có giá trị thương mại.
Trong lĩnh vực nhiếp ảnh cũng có sự đổi mới đáng kể. Trong suốt thời gian diễn
ra hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc,. Mọi quan niệm và chức năng của nhiếp ảnh
đều được dùng để phục vụ nhiệm vụ chính trị. Cho đến thời kỳ đổi mới, chức năng
thẩm mỹ và giải trí được quan tâm.
Âm nhạc hiện đại thế giới cũng thâm nhập vào Việt Nam một cách ồ ạt chẳng
kém gì phim ảnh. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX, nhạc rock, pop, hip – hop, của nước ngoài


được giới trẻ tự do tiếp nhận, được giới thiệu hàng ngày trên sóng phát thanh và
truyền hình, tại các kỳ liên hoan âm nhạc, các cuộc thi, các sàn diễn, phòng trà...
Các hoạt động thể thao cũng nhanh chóng hội nhập với thế giới. Chúng ta bắt
đầu tham gia các kỳ đại hội thể thao khu vực và thế giới. Các môn thể thao trước đây
được coi là “xa xỉ” thì nay cũng được du nhập và đang dần trở thành một bộ phận của

thể thao Việt Nam, như tenis, golf...
Đặc biệt là hình thức thi hoa hậu, một hình thức trước đây bị coi là xa lạ và thậm
chí cấm kỵ, đã được công khai thừa nhận và được tổ chức liên tục ở rất nhiều cấp độ
Các hiện tượng khác của văn hoá nước ngoài cũng rất dễ dàng được Việt Nam
đón nhận trong thời kỳ mở cửa này, ví dụ những lễ hội nước ngoài như lễ Valentin, lễ
Noel, lễ Phục sinh,... Đây là những lễ hội đang được công chúng hân hoan tiếp nhận.
3.1.3. Biến đổi trong quan niệm sống và trong lối sống của con người Việt Nam
Sự biến đổi trong quan niệm sống của người Việt Nam ngày nay được thể hiện
trước hết ở sự biến đổi trong mục đích sống. Lối sống hiện đại đó có những đặc điểm
như sau:
+ Lối sống nhanh hậu công nghiệp.
+ Lối sống gia đình ít con.
+ Lối sống hiện đại còn là lối sống theo kiểu chủ nghĩa tiêu thụ.
3.1.4. Phục hồi và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống
Nói đến đổi mới, người ta thường thấy nó thể hiện rõ nhất ở khía cạnh tiếp thu
cái mới bên ngoài. Nhưng trên thực tế, đổi mới trong việc kế thừa các giá trị truyền
thống luôn có một ý nghĩa quan trọng cho việc xây dựng một nền văn hoá mới. Bởi lẽ,
xây dựng một công trình mới sẽ ít tốn kém hơn nhiều nếu nó được dựa trên những cơ
sở có sẵn.
ở nước ta, khi tiếp thu di sản văn hoá truyền thống, trong thời gian đầu của thời
đổi mới, người ta đã nhân danh việc bảo vệ bản sắc dân tộc để phát động những chiến
dịch phục hồi tràn lan mọi hiện tượng văn hoá của quá khứ. Lễ hội được tổ chức triền


miên ở khắp các địa phương. Đi kèm với nó là những hủ tục lạc hậu như lên đồng, bói
toán, đốt vàng mã xa xỉ.
Các lễ hội thế tục rất hiện đại như lễ hội du lịch, lễ hội thể thao, lễ hội sách, lễ
hội báo xuân, lễ hội trái cây, lễ hội sinh vật cảnh, lễ hội nhảy dù, lễ hội pháo hoa, lễ hội
ẩm thực, lễ hội sông nước, v.v... Nói chung ngày nay, cái gì cũng có thể trở thành lễ hội.
3.2. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về phát

triển văn hóa và con người
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa, chúng
ta thấy nổi lên một số yếu kém sau:
Thứ nhất, việc thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa, xã hội và xây
dựng con người còn mang nặng tính hình thức, chưa chú ý tới chất lượng và hiệu quả
thiết thực.
Thứ hai, là những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực phát triển văn
hóa, xã hội và xây dựng con người chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế . Tình
trạng quan liêu, tham nhũng và suy thoái lối sống, đạo đức trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên kể cả những người có chức, có quyền chưa được ngăn chặn
Còn thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng
và nghệ thuật, có tác động tích cực và sâu sắc đối với việc giáo dục con người. Xu
hướng “thương mại hóa” chạy theo thị hiếu thấp kém trong một bộ phận báo chí, xuất
bản, trong hoạt động văn hóa nghệ thuật chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
Thứ ba là tình trạng phân hóa trong hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền,
các tầng lớp xã hội gia tăng.
Thứ tư là việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật và các chính sách trên lĩnh vực văn hóa còn chậm và thiếu đồng bộ, làm
hạn chế tác động của văn hóa đối với sự phát triển đất nước.
3.. Những giải pháp cơ bản để thực hiện quan điểm của Đảng:


Một là, mở rộng, vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, bằng nhiều hình thức phong
phú.
Hai là, Nhà nước cần ban hành các luật, chính sách về phát triển văn hóa dân tộc ở trên
các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội. Hoàn chỉnh các quy chế, quy định về tổ chức và
hoạt động lễ hội, việc tang, việc cưới, cúng điếu phù hợp với giá trị văn hóa truyền
thống. Ban hành chính sách cụ thể về hợp tác quốc tế về văn hóa.
Ba là, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. Tăng cường mức

chi cho hoạt động văn hóa từ nguồn ngân sách nhà nước. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ
máy cán bộ các cơ quan quản lý văn hóa; các trường, khoa đào tạo về văn hóa
Bốn là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Trong giai đoạn xây
dựng và phát triển đất nước ngày nay, yêu cầu Đảng ta phải tăng cường nâng cao vai trò
lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa. Không ngừng mở rộng dân chủ để phát huy vai trò các
hoạt động sáng tạo và tiêu dùng văn hóa trong nhân dân.
Năm là, Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Nhà
nước thể chế hóa đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng bằng các văn bản pháp quy.
Ngăn ngừa, đối phó với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang tìm
cách thẩm thấu, du nhập các loại văn hóa độc hại, đồi trụy vào các thế hệ người Việt
Nam ta hôm nay.


KẾT LUẬN
Xác định văn hóa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển KT-XH, một mặt đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa, mặt
khác, cũng để khẳng định một chân lý là chỉ có đặt văn hóa trong sự phát triển, gắn văn
hóa với sự phát triển, nghĩa là văn hóa phải bén rễ trong kinh tế thì kinh tế mới phát
triển được. Sự nghiệp văn hóa, suy cho cùng là vì con người, như nhận định của Đảng ta:
Nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp văn hóa là bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ,
bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan XHCN, hướng con người tới những giá trị Chân - Thiện – Mỹ. Vì vậy
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cần coi trọng chính sách đầu tư cho văn hóa,
đầu tư cho con người, khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia phát triển và
sáng tạo văn hóa, đồng thời hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn
Trong quá trình này, chúng ta cần phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc
phục những khuyết điểm và yếu kém của thời kỳ vừa qua, tranh thủ thời cơ, quyết tâm
thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp cấp bách nêu trên để giành những thành
tựu mới, tạo nên sự phát triển về chất để khẳng định sức mạnh mới của con người và
văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh

tế quốc tế.



×