Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Chứng huyết áp thấp và chứng hạ huyết áp tư thế đứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.02 KB, 4 trang )

Chứng huyết áp thấp và Chứng hạ huyết
áp tư thế đứng
Đừng quên Like - chia sẻ nếu bài viết hữu ích:

Chứng huyết áp thấp
Căn nguyên
Một số đối tượng có thể trạng huyết áp thấp. Giá trị dưới bình thường của huyết áp tâm
thu ở những người này thay đổi từ 90 đến 100 mmHg lúc họ đã trưởng thành.
Triệu chứng
Huyết áp thấp mạn tính thể trạng không phải là” một bệnh, nhưng là một biến thể của
chuẩn (tình trạng bình thường).
Tuy nhiên những người này có thể hay than phiền về những triệu chứng suy nhược, hồi
hộp, chóng mặt. Tuổi thọ trung bình của họ có lẽ cao hơn so với ở những người có
huyết áp bình thường.
Chẩn đoán
Phải loại trừ những trường hợp hạ huyết áp động mạch thứ phát (do cơ thể mất nước,
do giảm thể tích máu, do sử dụng thuốc lợi tiểu, thuốc hạ huyết áp và/hoặc thuốc giãn
mạch, thuốc hướng thần, do suy tuyến thượng thận vỏ).
Điều trị
Giải thích cho họ bản chất lành tính của các triệu chứng mà họ cảm thấy.

Chứng hạ huyết áp tư thế đứng
Định nghĩa
Huyết áp tâm thu và tâm trương hạ thấp, đôi khi kèm theo cơn thỉu hoặc cơn ngất, xảy
ra khi bệnh nhân đang từ tư thế nằm chuyển sang tư thế đứng hoặc khi giữ tư thế đứng
kéo dài và bất động.
Sinh lý bệnh


Bình thường, khi chuyển từ tư thế nằm sang tư thế đứng thì huyết áp tâm tương tăng
lên nhất thời từ 5-10 mmHg. Việc điều chỉnh huyết áp này được thực hiện nhờ những


thụ thể áp xuất ở thành của các động mạch cảnh và động mạch chủ. Trong trường hợp
hạ huyết áp tư thế đứng, người ta thấy huyết áp tâm thu hoặc tâm trương bị tụt quá 20
mmHg khi đo cho người vừa chuyển sang tư thế đứng sau khi đã nằm lâu 15 phút. Tụt
huyết áp thường xảy ra sau 1-3 phút, nhưng cũng có thể xảy ra muộn hơn tới tận 5-10
phút sau khi chuyển tư thế. Ở những người cao tuổi, đáp ứng của những thụ thể áp
suất đôi khi bị giảm sút, nhưng hạ huyết áp tư thế đứng thường không kèm theo thỉu và
ngất.
Căn nguyên
THỂ THỨ PHÁT


Sử dụng thuốc:
+ Thuốc lợi tiểu tư thế đứng: sử dụng nhiều quá sẽ gây giảm thể tích máu.
+ Thuốc hạ huyết áp và/hoặc thuốc giãn mạch (nitrit, chẹn kênh calci, thuốc ức chế
men chuyển angiotensin, V..V..).
+ Thuốc hướng thần: benzodiazepin, thuốc an thần kinh, thuốc ngủ barbituric, thuốc
chống trầm cảm ba nhân vòng, thuốc điều trị bệnh Parkinson.



Giảm thể tích máu:do chảy máu, nôn, ỉa chảy, ra mồ hôi quá nhiều, không uông
đủ lượng nước cần thiết, suy tuyến vỏ thượng thận, u tế bào ưa crôm.
Nằm liệt giường lâu ngày.
Lưu lượng tim thấp:do nhồi máu cơ tim, bệnh van tim, bệnh cơ tim hạn chế, viêm ngoại
tâm mạc chít hẹp.
Tích tụ máu trong hệ thống tĩnh mạchvà dòng trở vế tim không thích đáng: giãn tĩnh
mạch chi dưới, khối u trong ổ bụng, có thai.




U tế bào ưa crôm:hạ huyết áp tư thế đứng xuất hiện vào khoảng giữa hai
cơn tăng huyết áp.
Những nguyên nhân khác nữa: chứng lo âu mạn tính, cắt thần kinh giao cảm thắt lưng,
viêm đa dây thần kinh (trong bệnh đái tháo đường, ở người nghiện rượu, bệnh
nhân thiếu máu ác tính), hội chứng Guillain-Barré, tuỷ sống bị tổn thương (do bệnh
tabes, chấn thương, bệnh rỗng ống nội tuỷ), do trung tâm điều hoà vận mạch hành não
bị tác động bởi thoái hoá hoặc khối u.


THỂ VÔ CĂN


Hạ huyết áp tư thế đứng đơn độc do rối loạn mạn tính ở hệ thống thần kinh thực
vật hậu hạch (xem: loạn thần kinh tự động).



Hội chứng Shy-Drager:bệnh ở người đứng tuổi, chưa biết nguyên nhân. Hạ
huyết áp tư thế đứng kết hợp với những triệu chứng thần kinh, nhất là chứng không ra
mồ hôi, rối loạn các cơ thắt, bất lực, run, thân thể cứng, và không phối hợp được vận
động.
Bệnh do những tổn thương thoái hoá rải rác ở hệ thống thần kinh trung ương, đặc biệt
là thoái hoá các nơron (tế bào thần kinh) trong các hạch nền của não (nhân xám trung
ương), trong thân não, và trong tuỷ sống.
Triệu chứng
Hạ huyết áp tư thế đứng xảy ra ngay khi bệnh nhân chuyển từ tư thế nằm sang đứng,
hoặc có thể muộn một sau vài giây, đôi khi xảy ra trong lúc gắng sức thể lực. Bệnh
nhân cảm thấy chóng mặt, rối loạn thị giác có thể tới mức mù chốc lát. Thỉu, đôi khi ngã
và ngất. Mạch thay đổi, không nhanh ở những thể vô căn. Những rối loạn nói trên xảy
ra ở tư thế đứng và giảm khi bệnh nhân nằm xuống.

Điều trị





Điều trị nguyên nhân: loại bỏ hoặc giảm liều lượng những thuốc hạ huyết áp nếu
đang sử dụng.
Điều trị triệu chứng:
+ Đứng dậy từ từ, tránh nằm lâu.
+ Nhấc đầu từ từ khỏi gối
+ Đi tất chun (đàn hồi): có ích, nhất là trong trường hợp suy yếu tĩnh mạch (giãn tĩnh
mạch chi dưâi). Phải đi tất chun vào sáng sớm trước khi đứng dậy khỏi giường nằm.
+ Tránh uống rượu và thuốc an thần.
+ Cho thuốc giống giao cảm: ephedrin (25 đến 50 mg, 3-4 lần mỗi ngày) theo đường
uống hoặc etilefrin (10 mg, 3- 5 lần mỗi ngày).
+ Dihydroergotamin (2,5-5 mg, 2 lần mỗi ngày): tác dụng của thuốc còn đang bàn cãi.




Hội chứng Shy-Drager: ăn thức ăn nhiều muối (ăn mặn), và cho uống
fludrocortison 0,5-2 mg mỗi ngày, (nguy cơ tăng huyết áp tư thế nằm).



×