Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Năng lực cạnh tranh của ngân hàng TMCP quốc tế việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.12 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

HOÀNG TUẤN ANH

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG
TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai

Hà Nội, 2007
1


LỜI NÓI ĐẦU
1.

Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra nhanh

chóng, quyết liệt và trở thành xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh
tế thế giới hiện nay. Trong quá trình này, sự liên kết phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trên thế giới nói chung và giữa các thành phần trong nền kinh tế của
mỗi quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng
cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu
vực.
Nhận thức rõ xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã
xác đinh rõ sự cần thiết phải tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế đã và đang tiếp tục được khẳng định là một nội dung quan
trọng trong công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay và được thực hiện với quy


mô và mức độ ngày càng cao.
Với đặc điểm là nền kinh tế đi sau, có điểm xuất phát thấp nên hội nhập
kinh tế của Việt nam là một quá trình mới mẻ và khó khăn. Để từng bước hội nhập
theo xu thế kinh tế quốc tế, nhiệm vụ của chúng ta là xác định đúng vị thế của
mình nhằm đề ra những chính sách hội nhập thích hợp và giảm thiểu những
thương tổn có thể xảy ra đối với nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Tiền tệ - Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế
quốc dân. Với tư cách là những doanh nghiệp “đặc biệt”, hoạt động của hệ thống
NHTM liên quan đến tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. Vì vậy, một hệ thống
ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính trong
việc dẫn vốn từ nơi có nguồn vốn nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu về vốn và
cũng không thể có một nền kinh tế mạnh với một hệ thống NHTM yếu kém và
ngược lại.

2


Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đứng vững trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, các NHTM phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Mở
cửa thị trường tài chính trong nước sẽ dẫn đến quá trình tái cơ cấu lại hệ thống
Ngân hàng, phân chia lại thị trường giữa các Ngân hàng theo hướng cân bằng hơn,
thị phần của các NHTM Nhà nước có thể bị giảm, thị phần của các NHTM Cổ
phần và các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ tăng lên. Từ đó sẽ xuất hiện các
Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa (bán buôn, bán lẻ hoặc đa
năng) tùy theo vị thế cạnh tranh của mỗi Ngân hàng. Nâng NLCT và kỷ luật thị
trường trong hoạt động ngân hàng là điều kiện để hình thành những ngân hàng có
quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh có hiệu quả. Các ngân hàng kinh
doanh yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên nếu muốn tồn tại. Do vậy, khả
năng cạnh tranh của ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với

các đối tác trong và ngoài nước trong việc chuyển giao công nghệ, phát triển sản
phẩm và khai thác thị trường.
Dưới sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, các
dịch vụ ngân hàng phát triển rất nhanh và có chất lượng hơn, đặc biệt là các dịch
vụ ngân hàng có hàm lượng công nghệ cao. Qua đó, uy tín và vị thế của NHTM sẽ
được nâng lên, ít nhất là ở thị trường khu vực và từ đó sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển của khu vực tài chính, khơi thông dòng vốn, các NHTM trong nước có
khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn
có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội.
Theo lộ trình ra nhập WTO thì kể từ ngày 1/4/2007 Việt nam cho phép ngân
hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập và đi vào hoạt động tại thị trường Việt
Nam. Các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài
có năng lực tài chính mạnh, có kinh nghiệm quản lý rủi ro tốt và đặc biệt có quy
trình nghiệp vụ chuẩn mực tiên tiến và công nghệ hơn hẳn các Ngân hàng Thương
mại trong nước. Đó sẽ là một thách thức lớn đối với hệ thống NHTM Việt nam,
đặc biệt là hệ thống Ngân hàng TMCP.
Trong khi đó, các ngân hàng TMCP trong nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ (tính
đến tháng 06/2006 thì Việt nam có 37 ngân hàng TMCP và chiếm khoảng 20% thị
3


phần NHTM trong nước) và hầu hết nằm ở mức độ thấp về công nghệ, quy mô
vốn nhỏ, trình độ quản lý rủi ro còn nhiều hạn chế, các sản phẩm dịch vụ còn đơn
điệu, chất lượng chưa cao và còn nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Huy
động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi(chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động) và
cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu(chiếm trên 80% tổng thu nhập).
Trước tình hình đó, nâng cao NLCT của các Ngân hàng TMCP Việt nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu hết sức thực tế và cấp thiết. Để
nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Năng lực canh
tranh của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh

tế quốc tế” làm đề tài cho Luận văn của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta trong thời gian vừa qua đã có một số Công trình nghiên cứu liên

quan đến năng lực cạnh tranh của các NHTM, cụ thể:
-

PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai_Bài tham gia Hội thảo Việt nam gia nhập WTO
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt nam trong tiến trình hội
nhập”, năm 2004. Nội dung chủ yếu của nghiên cứu này là phân tích, đánh
giá những cơ hội và cũng như những thách thức của các NHTM Việt nam khi
Việt nam ra nhập WTO. Từ đó tác giả cũng đưa ra một số nhóm giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt nam trong tiến trình
hội nhập.

-

Nguyễn Thị Hiền, Vụ chiến lược NHNN_ Trong bài tham luận đăng trên Tạp
chí Ngân hàng số 5 tháng 03 năm 2006: “ Một số giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam” đã khái quát quá trình
hoạt động của hệ thống NHTM cổ phần Việt nam trong thời gian qua, đánh
giá những tồn tại của hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam và đưa ra một số
giải pháp nâng cao NLCT của các NHTM cổ phần.

-

Đặng Công Hoàn_Luận án Thạc sỹ “Nâng cao khả năng cạnh tranh của các
NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”_ Đại học Quốc

gia Hà nội, năm 2004. Công trình này đã phân tích thực trạng khả năng
cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp giải
4


pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
-

Lê Đình Hạc_Luận án Tiến sỹ Kinh tế “ Giải pháp nâng cao NLCT của các
NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế “_ĐH Kinh tế Hồ
Chí Minh năm 2005. Công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu hoạt động
của NHTM trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế. Thực trạng năng lực cạnh tranh và giải pháp nâng cao NLCT của các
NHTM Việt Nam.

-

Trịnh Quốc Trung_Luận án Tiến sỹ Kinh tế “Các giải pháp nâng cao NLCT
và hội nhập của các NHTM”_Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh , năm 2004.
Công trình này đã nghiên cứu những lí luận chung về NHTM, thực trạng
cạnh tranh và hội nhập quốc tế của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua.
Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của NHTM Việt
Nam đến năm 2010.
Các nghiên cứu trên đây đều tập trung vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá

một cách chung nhất về những cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu và khả
năng cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên, vẫn cần phải có những nghiên cứu sâu, nhận thức một cách
toàn diện và có những đánh giá cụ thể, chi tiết về năng lực cạnh tranh của một

ngân hàng cụ thể, nhất là NHTM cổ phần để từ đó đề xuất ra những giải pháp
nhằm nâng cao năng lực canh tranh của NHTM cổ phần trong đó tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt nam đã được chọn để
nghiên cứu và đánh giá trên những tiêu chí cụ thể.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1

Mục đích nghiên cứu
Khảo cứu thực tế hoạt động của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, đưa

ra những đánh giá về NLCT của Ngân hàng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2

Nhiệm vụ nghiên cứu
5


-

Hệ thống hoá những lý luận về các yếu tố ảnh hưởng đến NLCT của các
NHTM trong cơ chế thị trường.

-

Phân tích, đánh giá thực trạng NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt

Nam.

-

Đề xuất một số giải pháp nâng cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1

Đối tƣợng nghiên cứu
Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng đến nâng

cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
4.2
-

Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:
÷

Luận văn tập trung vào nghiên cứu NLCT của hệ thống NHTM Việt
Nam và đồng thời luận văn cũng khảo sát một số khía cạnh về năng lực
cạnh tranh của một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

÷


Tập trung đi sâu vào nhóm nhân tố ảnh hưởng đến NLCT và đưa ra
những giải pháp nâng cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

-

Về thời gian: Phân tích đánh giá thực trạng về NLCT của hệ thống Ngân
hàng Thương mại Việt Nam và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam từ năm
2003 đến nay.

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài. Luận văn chủ yếu dựa trên

phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
thống kê, tổng hợp, phân tích, đối chiếu, so sách cũng như sử dụng bảng biểu để
trình bày nội dung lý luận và thực tiễn…
6.

Dự kiến đóng góp của luận văn
Dự kiến luận văn đưa ra những đóng góp chủ yếu sau:

6


-

Phân tích làm sáng tỏ và khẳng định những tác động tích cực của hệ thống

NHTM cổ phần trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

-

Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và thách thức của Ngân hàng
TMCP Quốc Tế Việt Nam

-

Đề xuất các giải pháp khắc phục những điểm yếu, điểm hạn chế để nâng cao
NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam và đưa Ngân hàng TMCP
Quốc Tế Việt Nam vượt qua những thách thức tụt hậu khi Việt nam ra nhập
WTO.

7.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo 3 chương:

Chương 1:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Thương mại.
Chƣơng 2:
Thực trạng về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam.
Chương 3:
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP
Quốc Tế Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

7



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1

Tổng quan về NHTM

1.1.1

Khái niệm NHTM
NHTM là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế

nói chung và đối với cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy NHTM là gì?
Theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền
gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh
doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một NHTM.
Một cách tiếp cận khác của Peter S.Rose cho thấy: NHTM là loại hình tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam: NHTM là một tổ chức mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến
hành cho vay, chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán. Quan điểm này cho
thấy, hoạt động của các NHTM ở Việt Nam mới chỉ bao gồm các hoạt động
truyền thống, tương ứng với hoạt động của các Ngân hàng trên thế giới ở giai
đoạn thứ nhất từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 và Việt Nam vẫn là một nước thiếu các
dịch vụ ngân hàng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm

1997, NHTM được định nghĩa là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận,
góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Như vậy, một cách chung nhất có thể thấy NHTM là một doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.
8


1.1.2

Các sản phẩm cung ứng của NHTM
Hiện nay ở nước ta , chưa có sự thống nhất về danh mục các chỉ tiêu về dịch

vụ ngân hàng và cũng chưa có công trình nghiên cứu điều tra thống kê về dịch vụ
ngân hàng. Theo một số tác giả, dịch vụ ngân hàng cần được hiểu theo hai khía
cạnh: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối…của hệ thống ngân hàng đều là hoạt động cung ứng
dịch vụ cho nền kinh tế. Quan niệm này phù hợp với phân ngành dịch vụ ngân
hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và của Hiệp định Thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ, cũng như nhiều nước phát triển. Còn theo nghĩa hẹp, dịch vụ ngân hàng
chỉ bao gồm các hoạt động chức năng của định chế tài chính trung gian huy động
vốn và cho vay.
Ở nước ta lĩnh vực dịch vụ ngân hàng được Luật Các tổ chức tín dụng( tại
khoản 1 và khoản 7, điều 20) quy định nhưng không định nghĩa và giải thích. Cụm
từ “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” được bao trùm cả ba nội
dung: Nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán. Trong phạm vi
luận văn này, tác giả chia dịch vụ ngân hàng thành hai mảng, đó là: các sản phẩm
dịch vụ truyền thống và các sản phẩm dịch vụ hiện đại.
Các sản phẩm truyền thống:
-


Tiền gửi tiết kiệm: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các

ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong
những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Vì
vậy, đây là một trong những nguồn vốn quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong
nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Hiện nay, các NHTM thường cạnh tranh bằng
cách nhận tiền gửi với nhiều loại kỳ hạn khác nhau, lãi và phương thức trả nợ
khác nhau và cố gắng đáp ứng một cách tốt nhất nhằm đem lại sự thỏa mãn cho
khách hàng.
-

Bảo quản vật có giá: Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật

có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho
khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi
trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như
9


tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng
phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho
bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy
chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng.
Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
-

Cung cấp các tài khoản giao dịch: Hoạt động này của ngân hàng cho phép

người gửi tiền mở một tài khoản tiền gửi giao dịch và viết séc thanh toán cho việc

mua bán hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được
xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi
vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch
kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
-

Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ

ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ và hưởng phí dịch vụ. Sự
trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và
thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố mà họ đến.
Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các Ngân
hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có độ rủi ro cao, đồng thời
yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
-

Chiết khấu thương phiếu: Ngay ở thời kỳ đầu các ngân hàng đã chiết khấu

thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những
người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của các khách hàng cho ngân hàng để
lấy tiền mặt.
- Cho vay và đầu tư:
 Cho vay kinh doanh: Các NHTM cho các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn
và trung dài hạn để bổ sung vốn kinh doanh. Các khoản vay ngắn hạn
thường có mục đích bổ sung vốn lưu động với các hình thức như thấu chi,
cho vay trực tiếp từng lần và cho vay luân chuyển; trong khi các khoản vay
trung dài hạn thường dùng để đầu tư vào tài sản cố định như mua sắm máy
móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thực hiện các dự án.

10



 Đầu tư: Các khoản đầu tư vào chứng khoán có khả năng trao đổi trên thị
trường đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Chứng
khoán cung cấp một nguồn thu nhập bổ sung cho ngân hàng, đây là một
nguồn thu nhập tương đối quan trọng trong việc quản lý ngân hàng cũng
như cho các cổ đông khi thu nhập từ danh mục cho vay suy giảm.
Khoản mục đầu tư chứng khoán thanh khoản tạo nên tính lỏng cho tài sản
của ngân hàng, hỗ trợ cho nguồn tiền mặt và nguồn tiền vay từ thị trường tiền tệ
khi ngân hàng phải đáp ứng các yêu cầu thanh khoản quy mô lớn. Việc đầu tư vào
chứng khoán chất lượng cao ngân hàng có thể điều chỉnh mức rủi ro tín dụng tổng
thể trong danh mục tài sản.
Hiện nay, các ngân hàng đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau bao
gồm các công cụ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, chứng
khoán của các cơ quan Chính phủ, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn... và các công cụ
trên thị trường vốn phổ biến là trái phiếu kho bạc, trái phiếu của Chính quyền địa
phương, chứng khoán được bảo lãnh bằng các khoản cho vay mua nhà và trái
phiếu Công ty.
-

Cung cấp các dịch vụ uỷ thác: Thực hiện hoạt động này tức là ngân hàng

quản lý tài sản và quản lý hoạt đông tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp
thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô
vốn mà họ quản lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ uỷ
thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho các doanh
nghiệp.
Thông qua Phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho
đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là

người được uỷ thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng
cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả và đảm bảo
cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong phòng uỷ thác
thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền
lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những người đại
11


KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu và không thể đảo ngược. Tiến
trình đó đang tạo áp lực lớn lên hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt
nam nói chung và hệ thống ngân hàng TMCP nói riêng. Cơ hội cũng nhiều nhưng
khó khăn, thách thức cũng lớn, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt ấy, ngân hàng
Quốc Tế cũng không thể “chậm chễ” đứng ngoài cuộc.
Mặc dù đã có những chính sách thúc đẩy năng lực cạnh tranh trong thời
gian qua, nhưng qua phân tích cho thấy năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Quốc
Tế vẫn còn nhiều hạn chế so với một số NHTM Nhà nước, ngân hàng TMCP
trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Để nâng cao
nâng lực cạnh tranh cho Ngân hàng Quốc Tế thì đòi hỏi phái có những giải pháp
đồng bộ từ cả phía Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là những giải pháp
từ chính Ngân hàng Quốc Tế.
Xuất phát từ sự cần thiết đó tôi đã chọn đề tài “ Năng lực canh tranh của
Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
và đề tài tập trung vào những vấn đề sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về NHTM, NLCT của các NHTM.
- Phân tích thực trạng về NLCT của Ngân hàng Quốc Tế Việt, đề tài cũng
nêu ra điểm hạn chế về NLCT của Ngân hàng Quốc Tế, đồng thời cũng chỉ ra
nguyên nhân của những tồn tại đó.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao NLCT của Ngân hàng Quốc Tế
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có giải pháp từ phía Ngân hàng

Quốc Tế và một số kiến nghị đối với các Cơ quan nhà nước.
Do thời gian nghiên cứu ngắn, năng lực bản thân còn hạn chế nên nội dung
nghiên cứu trên đây sẽ là chưa đầy đủ và không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, rất
mong nhận được sự đóng góp của các Quý Thầy cô và các bạn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy cô giáo, Bạn bè, Gia đình,
Đồng nghiệp và đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai là
người hướng dẫn khoa học đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này./.
12



×