Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Xu hướng tự do hóa ngôn ngữ trong thơ hiện đại việt nam (qua những bài thơ trong SGK ngữ văn trung học phổ thông)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.55 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

NGUYỄN THỊ HỢP

XU HƢỚNG TỰ DO HÓA NGÔN NGỮ
TRONG THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
(QUA NHỮNG BÀI THƠ TRONG SGK TRUNG HỌC PHỔ THÔNG)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Trí Dõi

SƠN LA - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Thị Hợp, học viên cao học Trường Đại học Tây
Bắc, chuyên ngành ngôn ngữ, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trí Dõi.
2. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan.
3. Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và chưa từng được công
bố trong bất cứ một công trình nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Lai Châu, ngày 24 tháng 10 năm 2015.
Người viết cam đoan


Nguyễn Thị Hợp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2.Lịch sử của vấn đề .......................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Điểm mới và đóng góp của đề tài ................................................................. 6
7. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỤC VỤ CHO VIỆC THỰC HIỆN
ĐỀ TÀI ............................................................................................................. 7
1.1.Vài n t khái quát về thơ trong tiến trình vận động văn học hiện đại
Việt Nam ........................................................................................................... 7
1.2. Những phương diện cơ bản của sự tự do hóa ngôn ngữ thơ ...................... 9
1.2.1. Ngôn ngữ và ngôn ngữ trong thơ ........................................................ 9
1.2.2. Bối cảnh chung của tiến trình vận động thơ hiện đại Việt Nam ............ 11
1.2.3. Đặc điểm và biểu hiện sơ lược của sự tự do hóa ngôn ngữ thơ ........ 17
1.3. Mối quan hệ giữa xu hướng tự do hóa ngôn ngữ thơ với quá trình
hiện đại hóa văn học ........................................................................................ 23
1.3.1. Qúa trình hiện đại hóa văn học ......................................................... 23
1.3.2. Mối quan hệ giữa quá trình hiện đại hóa văn học và xu hướng tự
do hóa ngôn ngữ .......................................................................................... 27
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 29
Chƣơng 2: TỰ DO HÓA NGÔN NGỮ THƠ Ở CẤP ĐỘ BÀI THƠ
VÀ KHỔ THƠ TRONG SGK NGỮ VĂN THPT ...................................... 31
2.1. Giới hạn của hình thức thể hiện xu hướng tự do hóa ngôn ngữ trong
thơ hiện đại Việt Nam ..................................................................................... 31



2.2. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ ở cấp độ bài thơ ............................................ 33
2.2.1. X t trên tiêu chí hình thức thể loại thơ. ............................................ 33
2.2.2. Biểu hiện hình thức thể loại x t theo thời điểm sáng tác. ................. 38
2.3. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ ở cấp độ khổ thơ ........................................... 40
2.3.1.Đặc điểm của khổ thơ ........................................................................ 40
2.3.2. Xu hướng tự do hóa ngôn ngữ thể hiện trong khuôn khổ khổ thơ ......... 41
2.4. Nâng cao giá trị nội dung khi tự do hóa thể loại bài thơ và khổ thơ.............. 47
2.4.1. Giá trị tác phẩm được nhìn nhận từ góc độ tự thân .......................... 47
2.4.2. Nội dung là mục tiêu chính của tác phẩm văn học. .......................... 49
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 55
Chƣơng 3: TỰ DO HÓA NGÔN NGỮ THƠ Ở CẤP ĐỘ CÂU THƠ
TRONG SGK NGỮ VĂN THPT ................................................................. 57
3.1. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ ở cấp độ câu thơ ........................................... 57
3.1.1. Sự thay đổi cấu trúc câu thơ .............................................................. 57
3.1.2. Biểu hiện của sự thay đổi cấu trúc câu thơ trong văn bản. ............... 59
3.2. Những phương tiện tự do hóa ngôn ngữ ở câu thơ. ................................. 66
3.2.1. Tự do hóa nhịp điệu .......................................................................... 66
3.2.2. Phối hợp thanh điệu .......................................................................... 75
3.2.3.Vần trong câu thơ ............................................................................... 79
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Dạng viết tắt Nội dung đầy đủ
SGK


Sách giáo khoa

THPT

Trung học Phổ thông

NXB

Nhà xuất bản

NXB KHXH

Nhà xuất bản Khoa học xã hội

PTS KH

Phó tiến sĩ khoa học

B, T

Thanh điệu Bằng, Trắc


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả khảo sát theo thể loại. ..................................................... 33
Bảng 2.2.: Kết quả thống kê theo thời điểm sáng tác ..................................... 38
Bảng 3.1: Số bài thơ có số lượng câu thơ đều đặn/không đều đặn ............... 57
Bảng 3.2. Kiểu câu thơ theo tiêu chí số tiếng trong một dòng thơ ................ 58



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong các thể loại tác phẩm văn học, thơ là sản phẩm của sự sáng tạo
nghệ thuật được coi là xuất hiện gần như sớm nhất trong đời sống xã hội.
Cũng như tất cả các thể loại thuộc về nghệ thuật ngôn từ khác, thơ đến với
người thưởng thức qua những bài thơ cụ thể. Tuy đã có rất nhiều những định
nghĩa về thơ nhưng người ta cho rằng chưa có một định nghĩa nào có thể diễn
đạt được một cách toàn diện và sâu sắc về thể loại tác phẩm văn học này. Mặc
dù vậy, trên thực tế, người ta đều có thể thừa nhận rằng thơ là thể loại tiêu
biểu cho sự tinh tuý của nghệ thuật ngôn từ.
Là một trong những thành tựu của lịch sử, thơ ca mang trong mình sự
vận động nội tại gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc. Theo đó, ở một
một chặng đường, với sự tác động khác nhau từ các nhân tố lịch sử, xã hội,
quá trình phát triển tự thân của thơ ca, thơ ca theo đó sẽ có những chuyển biến
về mặt tư tưởng đề tài, những cách tân mới mẻ, độc đáo. Nếu như trong giai
đoạn trước thế kỷ XX, nước ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ hàng nghìn
năm, và khi giành độc lập về cơ bản lại xây dựng nền nghệ thuật theo chế độ
phong kiến, cho nên thơ ca thời kì này (không kể văn học dân gian thơ Việt
Nam) thường chịu ảnh hưởng nhiều của luật thơ truyền thống, thơ Đường
(Trung Quốc) sáng tác theo các quy tắc hết sức chặt chẽ. Đến giai đoạn đầu
thế kỷ XX, đất nước ta bị thực dân Pháp đô hộ. Vào thời gian này, yếu tố lịch
sử và sự thay đổi về tư tưởng theo hướng phương Tây hóa đã chi phối rất
nhiều đến nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật thơ ca. Đặc thù chung của thơ ca
thời kì này đó là có xu hướng tìm cách phá vỡ những khế ước của văn học
trung đại. Bên cạnh những sáng tác thơ theo lối truyền thống, thơ tiến hành
quá trình làm mới và cách tân như một quy luật tất yếu để từng bước thoát
khỏi sự cũ kỹ sáo mòn trong sáng tác. Trong xu thế đó, thể loại thơ tự do theo

1



cách của phương Tây trở thành phương tiện hữu hiệu trong việc chuyển tải
không khí khẩn trương, gấp gáp của nhịp sống xã hội đã hình thành và ngày
càng được mở ra trên diện rộng. Nhờ đó, thơ tự do dần dần trở thành mảnh
đất hứa cho các tài năng thỏa sức tung hoành.
Vì ngôn ngữ được coi là “vật liệu” chủ đạo cấu thành nên thơ nên sự tự
do hóa của thơ cũng gắn liền với sự hiện đại hóa cách thức các tác giả sử
dụng ngôn ngữ trong thơ. Nhờ đó, việc nghiên cứu ngôn ngữ thơ sẽ có nghĩa
quan trọng trong việc chỉ ra những đặc thù chính, quá trình vận động phát
triển của thơ. Trong sách Ngữ văn bậc trung học phổ thông, các tác phẩm
thuộc loại hình thơ ca chiếm tỉ lệ lớn. Trên thực tế, ngôn ngữ thơ của những
tác phẩm này ít nhiều vẫn còn những khoảng trống cần được tìm hiểu kỹ phục
vụ cho việc giảng dạy. Chính vì thế chúng tôi lựa chọn đề tài “Xu hướng tự
do hóa ngôn ngữ trong thơ hiện đại Việt Nam (Qua những bài thơ trong SGK
Ngữ văn trung học phổ thông)” để làm đề tài luận văn của mình.
Với đề tài đó, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu về sự tự do hóa ngôn ngữ
thơ tiếng Việt đối với các tác phẩm được đưa vào chương trình sách giáo khoa
ở bậc học THPT. Trước hết, chúng tôi tập trung tìm hiểu, khai thác những kết
quả nghiên cứu đã có về sự tư do hóa ngôn ngữ thơ Việt thế kỷ XX đồng thời
lấy đó làm cơ sở giúp cho công việc giảng dạy ngôn ngữ văn học trong nhà
trường. Theo đó, hiểu biết về tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt thế kỷ XX giúp cho
chúng tôi thấy được tổng thế quá trình vận động nội tại và phát triển của thơ
ca hiện đại Việt Nam, xu hướng phát triển và những cách tân độc đáo của
ngôn ngữ thơ theo xu hướng tự do hóa đồng thời thấy được mối quan hệ, sự
chi phối mật thiết giữa hai yếu tố hình thức và nội dung. Đây có thể coi là một
hướng tiếp cận giúp cho chúng tôi khai thác được triệt để ý nghĩa, sự đa dạng
của ngôn ngữ đối với quá trình phát triển của văn học dân tộc nói chung, thơ
ca nói riêng. Đó là lý do bản thân tôi lựa chọn đề tài tài “Xu hướng tự do hóa

2



ngôn ngữ trong thơ hiện đại Việt Nam (Qua những bài thơ trong SGK Ngữ
văn trung học phổ thông)” để thực hiện luân văn tốt nghiệp của mình.
2.Lịch sử của vấn đề
Ngôn ngữ thơ Việt Nam nói chung đặc biệt là hệ thống ngôn ngữ thơ
hiện đại nói riêng luôn là đề tài hấp dẫn giới nghiên cứu bởi những đóng góp
và giá trị độc đáo của riêng nó. Có nhiều công trình nghiên cứu thể hiện
những cách đánh giá và nhìn nhận tích cực cũng như tiêu cực tới các vấn đề
có liên quan.
Ở Việt Nam, ngôn ngữ thơ vốn là đề tài hấp dẫn thu hút được nhiều
người quan tâm. Ngôn ngữ thơ được nhiều nhà nghiên cứu, nhà phê bình cũng
như công chúng tiếp nhận và bình x t rất phong phú và sôi nổi theo các
hướng, các mức độ khác nhau như: Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh), Ngôn
ngữ thơ Việt Nam (Nguyễn Hữu Đạt), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn
ngữ học (Mai Ngọc Chừ), Ngôn ngữ quy ước hay tân kỳ (Trần Văn Nam),
Cuộc nổi loạn của ngôn từ trong thơ đương đại (Trần Ngọc Hiếu), Quan niệm
nghệ thuật về ngôn từ thơ Việt đương đại (Trần Ngọc Hiếu)... Những tác
phẩm hay bài viết nói trên đã đề cập đến "Ngôn từ" và "ngôn ngữ" khi bàn
luận cũng như tìm hiểu về thơ. Đồng thời những bài viết, những công trình
nghiên cứu trên đã khẳng định và cho thấy được vai trò quan trọng của ngôn
ngữ học trong việc nghiên cứu thơ hiện đại Việt Nam.
Tuy nhiên các bài viết về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ và hiện đại hóa thơ
Việt thì còn lẻ tẻ, rải rác, hoặc có cũng chỉ tập trung vào một số tác giả tiêu
biểu theo phong cách nghiên cứu chuyên sâu. Trong khi đó, các bài viết về sự
tự do hóa ngôn ngữ thơ dùng các tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa để
giảng dạy trong chương trình THPT thì rất hiếm gặp, thậm chí là hầu như
không thấy có. Còn sách chuyên ngành về ngôn ngữ thơ thì phần nhiều lại tập
trung vào nghiên cứu theo hướng thi pháp. Nói một cách khác đi, gần như


3


chưa có nhiều công trình nghiên cứu về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ mà đối
tượng phân tích là những tác phẩm thơ hiện đại được đưa vào chương trình
sách giáo khoa bậc học THPT phục vụ cho giáo viên ngữ văn giảng dạy
những tác phẩm này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài chọn hướng nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ trong thơ hiện đại
Việt Nam đối với các tác phẩm được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn bậc
THPT với mục đích góp phần làm rõ mối tương quan biện chứng giữa hình
thức và nội dung của những tác phẩm thơ đã đưa vào SGK. Nhờ đó, người ta
sẽ thấy chính sự cách tân về hình thức là nhằm thể hiện, phản ánh sự cách tân
về nội dung. Hướng nghiên cứu này giúp cho chúng ta có cái nhìn sâu hơn về
các tác phẩm thơ hiện đại trong chương trình SGK Ngữ văn bậc THPT dưới
góc độ ngôn ngữ, từ đó giúp ích cho việc giảng dạy chương trình ngôn ngữ
văn học của người giáo viên.
Đề tài sẽ có nhiệm vụ nhận biết rõ khái niệm "tự do hóa ngôn ngữ" thơ
Việt Nam trong thế kỷ XX là như thế nào và nó được hiện thực hóa trong các
tác phẩm được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn THPT như thế nào. Như
vậy, đề tài mô tả những biến đổi theo hướng tự do hóa trên cơ sở phân tích cứ
liệu các tác phẩm cụ thể có trong chương trình SGK; và trên cơ sở phân tích
chi tiết sự tự do hóa trong các thể thơ ở cấp độ bài thơ, khổ thơ, câu thơ để
tìm ra sự khu biệt giữa thơ cũ với thơ mới, từ đó thấy được sự biến đổi của
ngôn ngữ thơ Việt Nam qua các giai đoạn. Sau khi có sự phân tích, luận văn
thử đưa ra một vài bình luận (bao gồm nhận x t, đánh giá) về quá trình biến
đổi, những đặc điểm trong sự biến đổi cấu trúc thơ; tìm ra sự cách tân về ngôn
ngữ trong những tác phẩm thơ có trong chương trình SGK.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Để làm sáng tỏ những nội dung chính của đề tài, chúng tôi chủ trương


4


giới hạn khảo sát những dấu vết của xu hướng tự do hóa ngôn ngữ thơ hiện
đại Việt Nam trong các công trình có liên quan đặc biệt là hệ thống những bài
thơ hiện đại thuộc chương trình Ngữ Văn THPT (Bao gồm chương trình cơ
bản và nâng cao)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu theo hướng mô tả và phân tích, trên cơ sở thu thập
thống kê, xử lý so sánh để tìm ra sự biến đổi, quá trình tự do hóa của ngôn ngữ
trong thơ tiếng Việt hiện đại có trong chương trình SGK Ngữ văn THPT. Từ đó
góp thêm ý kiến thảo luận về vấn đã được giới nghiên cứu nêu ra.
Như vậy, khi thực hiện luận văn, chúng tôi sẽ dựa trên cơ sở một số
phương pháp như sau:
- Phương pháp mô tả - phân tích: Mô tả kết hợp với phân tích mô hình
các bài thơ, mô tả về khổ thơ với ph p đối thanh điệu bằng- trắc, âm vực cao thấp, cách gieo vần, luật niêm, miêu tả các khả năng ngắt nhịp thơ; mô tả cấu
trúc, mô tả định lượng để có những nghiên cứu về các quan hệ, phương thức
tổ chức và giá trị tạo lập ngôn ngữ thơ hiện đại tiếng Việt.
Để giúp cho việc mô tả phân tích khi thực hiện luận văn, trong chừng
mực có thể, chúng tôi cũng có thể sử dụng những thao tác của phương pháp
phân tích diễn ngôn và thao tác thống kê, so sánh. Theo đó, việc nghiên cứu
thơ có thể xem x t trong mối quan hệ đa chiều giữa thơ với người sáng tác,
người tiếp nhận, với ngữ cảnh, môi trường giao tiếp, môi trường tồn tại của
bài thơ, các mối liên hệ, tương tác qua lại giữa các yếu tố đó, tính hiển ngôn,
hàm ẩn; nghiên cứu vấn đề liên kết và mạch lạc, phương thức liên kết trong sự
tự do hóa ngôn ngữ thơ. Và để trợ giúp, trong luận văn chúng tôi sẽ thống kê
số lượng bài thơ; số lượng khổ thơ; thống kê số lượng ph p đối thanh
điệu,hiện tượng niêm; thống kê hiện tượng gieo vần ở từng khổ trong các bài
thơ; thống kê cách ngắt nhịp câu thơ. Trong điều kiện có thể chúng tôi cũng


5


sẽ so sánh các tập thơ, so sánh các giai đoạn, các tác giả khác nhau để làm nổi
bật những n t mới, những yếu tố tự do hóa và hiện đại hóa trong thơ.
6. Điểm mới và đóng góp của đề tài
Đề tài là công trình đầu tiên tìm hiểu về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ hiện
đại Việt Nam mà đối tượng chính là những bài thơ của chương trình SGK
Ngữ văn bậc THPT). Nhờ việc khảo sát và tìm kiếm ra những đặc điểm
những vấn đề cụ thể, cơ bản của sự tự do hóa để hình thành thể loại thơ mới,
người giáo viên phổ thông nhận biết sự đổi mới của ngôn ngữ thơ hiện đại
Việt Nam đối với những tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở nhà trường bậc
học THPT để từ đó góp phần vào việc tìm kiếm và đổi mới cách dạy và học
môn Ngữ văn ở bậc học THPT đạt hiệu quả cao nhất.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, luận
văn của chúng tôi bao gồm ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận phục vụ cho việc thực hiện đề tài
Chƣơng 2: Tự do hóa ngôn ngữ thơ ở cấp độ bài thơ và khổ thơ trong
SGK Ngữ Văn THPT
Chƣơng 3: Tự do hóa ngôn ngữ thơ ở cấp độ câu thơ trong SGK Ngữ
Văn THPT.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỤC VỤ CHO VIỆC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1.1.Vài n t khái quát về thơ trong tiến tr nh v n động v n học hiện

đại Việt Nam
Thơ ca được coi là loại hình văn học xuất hiện và hình thành sớm nhất
trong nền văn học nhân loại. Loại hình văn học này ra đời cùng một lúc với
hàng loạt các hoạt động đời sống như nhạc, họa, múa, nhảy trong các cuộc tế
lễ thần linh, ma thuật thời nguyên thủy.
Ở phương Đông, cụ thể là Trung Quốc, theo lí giải của nhiều nhà khoa
học thì chữ “thi” trong Kinh Thi nguyên là đồng âm với chữ “tự” (nghĩa là
chùa). Điều này đồng nghĩa với cách hiểu khái niệm “nhà thơ” ban đầu là
“tự nhân”- người chuyên trông coi các việc tế lễ, cúng thờ và các bài “tụng”,
“nhã” chủ yếu được sáng tác bởi “tự nhân”. Sau này, theo tiến trình vận
động phát triển của văn học, xuất hiện thêm khái niệm “phong” được coi là
tổng hợp những sáng tác thơ ca của dân chúng.
Ở phương Tây, cội nguồn của từ “thơ”- “poet” trong tiếng Hi Lạp
được hiểu là sản xuất, sáng tạo, chuyển vào thơ có nghĩa là “sáng tạo trên
lĩnh vực từ ngữ hay ngôn từ”.
X t về mặt lịch sử, như vậy, thơ ca được coi là xuất hiện sớm nhất
trong các loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Điều này phần nào được thể
hiện thông qua các quan niệm của Hegel trong Mĩ học mà tác giả Nguyễn Vỹ
đã trích: “Lời của thơ nảy sinh từ thời xa xưa của mỗi dân tộc, lúc đó ngôn
ngữ còn chưa hình thành, phải nhờ có thơ ca ngôn ngữ mới được phát triển”
(48,17). Do vậy, thơ ca được coi là sản phẩm của quá trình nhận thức, tưởng
tượng và sáng tạo nhờ đó mà ngôn ngữ mới được phát triển. Nhà mĩ học Chu
Quang Tiềm cho rằng thơ ca cùng nguồn gốc với nhạc và vũ mà dấu tích còn

7


thấy rõ trong dân ca, ca dao. Thơ ca gắn bó mật thiết với các trò chơi chữ, câu
đố, trò chơi con trẻ từ đó dẫn tới đặc thù chính của thơ ca với tính âm nhạc,
nhịp điệu, hội họa. Bởi vậy người ta mới nói tới những quan niệm như “thi

trung hữu họa” (trong thơ có họa), “Thi trung hữu nhạc” (trong thơ có nhạc).
Được coi là dạng thức ban đầu của văn học, thơ cũng như sử thi, kịch,
thơ trữ tình, đều được coi là hệ thống ngôn từ có nhịp điệu.
Thơ có nghĩa rộng, bao hàm toàn bộ nền văn học. Theo cuốn “Thi
pháp học” của Aristote, thơ bao gồm cả sử thi, bi kịch, hài kịch. Nhưng từ
thời cận, hiện đại, thơ có nghĩa hẹp chỉ riêng loại hình sáng tác cụ thể như thơ
trữ tình, thơ tự sự, trường ca.
Thơ là đơn vị chỉnh thể lớn nhất của kết cấu văn bản ngôn từ thơ trữ
tình, là sản phẩm của sáng tạo hoàn chỉnh của sự sáng tạo nghệ thuật của nhà
thơ tuân theo sự chi phối của một tứ chủ đạo, quán xuyến và chịu sự ràng
buộc của thiên pháp từng thời đại. Không kể những trường hợp bình thường,
một bài thơ dù chỉ gồm một hoặc hai câu cũng vẫn là một chỉnh thể toàn vẹn,
có quyền tồn tại cùng những bài thơ có dung lượng lớn hơn. Thậm chí đối với
những bài thơ có dung lượng nhỏ như những bài thơ thuộc thể Hai cư (Nhật),
Tuyệt cú (Trung Quốc), quy luật chỉnh thể lại càng phát huy hiệu lực mạnh
mẽ. Trong nghiên cứu về thơ, dù khi nhắm tới đối tượng chính là tập thơ,
người ta cũng không thoát khỏi việc đụng tới từng bài cụ thể. Trong trường
hợp khác, dù chỉ nhắm tới việc khen chê một câu thơ hay liên thơ (đều thường
thấy trong các thi thoại Trung Hoa xưa) thì người ta cũng phải xuất phát từ cái
nền cảm nhận chung về cả bài thơ hoàn chỉnh.
Cách đây khoảng 1500 năm, trong “Văn tâm điêu long” ở thiên “Tình
thái”, Lưu Hiệp đã đề xuất ba khái niệm quan trọng là “Hình văn”, “Thanh
văn”, “Tình văn” có khả năng khái quát được ba phương diện cơ bản cấu
thành nên một bài thơ. Đến đời Đường, Bạch Cư Dị, trong thư gửi Nguyên

8


Chẩn đã đề ra thuyết “cây thơ” nêu lên các yếu tố then chốt tạo nên điều kiện
tồn tại của thơ: “Cái cảm hóa được lòng người ch ng gì trọng y u b ng tình

cảm, ch ng gì đi trước được ngôn ngữ, ch ng gì gần g i b ng âm thanh,
ch ng gì sâu s c b ng nghĩa. Với thơ g c là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ,
hoa là âm thanh, quả là

nghĩa. Trên là bậc thánh hiền, dưới là k ngu si,

nh b như lợn cá, thần b như qu thần, chủng loại b t đ ng nhưng tinh thần
tương tự, hình trạng khác biệt nhưng tình cảm tương thông, không một th gì
nghe được âm thanh mà không đáp ng, không một th gì ti p nhận được tình
cảm mà không rung động.” (Trích "Thư gửi Nguyên Chẩn")
Hữu Đạt từng quan niệm: “Đó là văn bản b ng lời hay văn bản vi t.
Loại văn bản này có thể th c và phong cách riêng. Trước h t, nó là một tác
phẩm của quá trình sáng tạo lời “mang t nh ch t hoàn chỉnh” mà ở đó có sự
trau d i có

th c về cách biểu đạt ngôn ngữ.” (13,4) . Mặc dù quan niệm

trên còn nhiều hạn chế bởi nó giới hạn thơ tồn tại dưới giác độ văn bản tuy
nhiên nó cũng chỉ ra được những đặc trưng quan trọng về mặt hình thức của
thơ. Trước hết, một văn bản thơ muốn tồn tại được độc lập thì nó phải là một
thông báo mang ý nghĩa hoàn chỉnh, một thể thống nhất. Đặc trưng này khiến
cho một bài thơ thường có nhiệm vụ chính là gọi tên và phản ánh chủ đề mà
bài thơ hướng tới. Bên cạnh đó, muốn tạo nên được sự thống nhất hoàn chỉnh
trong bài thơ thì các yếu tố xuất hiện trong bài thơ buộc phải có mối quan hệ
mật thiết và rõ ràng. Chúng bị ràng buộc bởi mối liên kết vô hình bởi cách mà
nhà thơ sử dụng từ ngữ, xây dựng cấu tứ…
1.2. Những phƣơng diện cơ ản của sự tự do hóa ngôn ngữ thơ
1.2.1. Ngôn ngữ và ngôn ngữ trong thơ
“Ngôn ngữ” là thuật ngữ chuyên dùng của ngành ngôn ngữ học. Nó là
một hệ thống ký hiệu đặc biệt, giữ vai trò không thể thiếu trong cuộc sống bởi

hai chức năng chính. Trước hết, đó là phương tiện cơ bản và quan trọng nhất

9


của giao tiếp và tư duy. Đồng thời, nó là tài sản chung của nhân loại, nhưng
mỗi cá nhân, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực lại có cách vận dụng nó theo những
cách khác nhau để đạt được những mục đích khác nhau.
Trong cách lĩnh vực khoa học, văn học là một ngành khoa học đặc biệt.
Bởi văn học là nghệ thuật ngôn từ - một loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ làm chất liệu để tổ chức tác phẩm. Cho nên, nghiên cứu văn học vừa là
nghiên cứu khoa học, vừa là nghiên cứu nghệ thuật; nó đòi hỏi người nghiên
cứu vừa biết sử dụng đúng các thao tác phân tích khoa học, vừa có khả năng
cảm nhận nghệ thuật.
Chính vì vậy, là một thể loại thuộc lĩnh vực văn học, ngôn ngữ thơ
trước hết là ngôn ngữ văn học, xác lập trong nó ba đặc trưng cơ bản sau đây:
a. Ngôn ngữ thơ giàu t nh biểu tượng
Thơ là nghệ thuật của trí tưởng tượng và “thăng hoa”. Người nghệ sĩ
sáng tác thơ là những người biết biểu hiện những tưởng tượng ấy của mình
bằng một hệ thống ngôn ngữ thơ giàu tính biểu tượng. Đây chính là yếu tố tạo
nên giá trị họa cho thơ. Khác với các loại thể khác, biểu tượng trong thơ
thường gián đoạn, không liên tục, có nhiều khoảng trống, khoảng trắng; vì
thế, người đọc thơ cũng phải có khả năng suy đoán cao. Đặc tính này giúp
cho thơ không kể lể, không chạy theo tính liên tục của bề ngoài mà tập trung
vào nắm bắt thẳng những hình ảnh nổi bật nhất, cô đọng nhất, giàu ý nghĩa
nhất của đời sống. Biểu tượng trong thơ thường ít hoặc không lộ rõ ra bên
ngoài. Nó vừa giàu sức gợi lại vừa có vẻ như mơ hồ đa nghĩa, cho ph p bạn
đọc có thể tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau, tiếp cận không chỉ bằng mắt,
bằng tai mà còn bằng sự xúc động của tình cảm. Người nghệ sĩ sáng tạo thơ
luôn luôn phải tìm tòi, lựa chọn những từ ngữ đắt nhất để diễn tả được thấu,

được hết tâm tư, tình cảm của mình, biểu hiện ra câu chữ bằng những biểu
tượng nhưng phải đảm bảo không làm cho m o mó ngôn ngữ của cộng đồng.

10


b. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ giàu nhạc t nh
Thơ đi vào lòng người bởi sự rung động của tình cảm con tim, bởi nó là
khúc hát được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn người nghệ sĩ khi họ thăng hoa.
Người xưa thường nói: “Thi trung hữu nhạc” (Trong thơ có nhạc). Nhạc tính
của thơ được vang lên bởi sự tổ chức ngôn ngữ tạo ra các kiểu từ ngữ, hình
ảnh luyến láy, trùng điệp, bằng trắc, ngắt nghỉ giàu nhạc điệu mang giá trị gợi
cảm. Thơ sẽ chẳng thể là thơ nếu nó không vang lên nơi người đọc một âm
điệu thiết tha trìu mến, một khúc lòng sầu bi ai oán, một điệp khúc rạo rực vui
tươi hối hả...làm rung động người nghe. Nhạc tính khiến cho thơ không chỉ
trở nên hấp dẫn mà còn dễ tạo sự đồng cảm nơi người đọc.
c. T nh lựa chọn, k t hợp độc đáo
Từ trước đến nay dường như không có một công thức nào cho việc tổ
chức ngôn ngữ trong sáng tạo thơ ca cả. Mỗi người nghệ sĩ bằng tài năng,
bằng cách cảm nhận, cách nghĩ khác nhau sẽ lựa chọn cho mình một cách
biểu hiện bằng hệ thống ngôn ngữ khác nhau.
Ngôn ngữ thơ thường không có tính liên tục và tính phân tích như trong
văn xuôi. Ngược lại nó thường không tuân theo một nguyên tắc thống nhất
nào cả, nhiều khi nhảy vọt, gián đoạn tạo ra những khoảng lặng giàu ý nghĩa.
Ngôn từ trong thơ, nhìn một cách thoáng qua, thường có vẻ phá vỡ kết hợp
lôgic thông thường của ngôn từ để tạo thành những kết hợp mới, bất ngờ theo
nguyên tắc lạ hóa. Người đọc muốn cảm nhận được thấu ý tình của nhà thơ
cần phải dựa trên nhiều yếu tố khác nhau mà mà cắt nghĩa, lý giải ngôn từ mà
nhà thơ biểu hiện. Đây là một đặc trưng vô cùng độc đáo của ngôn ngữ thơ.
Trong thực tế, nhà thơ nào làm được điều này và sự cách tân đó được chấp

nhận thì nhà thơ đó mới là người có được thành công.
1.2.2. Bối cảnh chung của tiến trình vận động thơ hiện đại Việt Nam
Vào những năm cuối cùng của thế kỉ XIX, cuộc sống mới k o theo

11


những hơi thở đứt quãng và lẫn lộn của Á- Âu khiến cho cuộc sống mới
chứng kiến sự mất giá của hai hình tượng văn học cùng như sự bế tắc và
khủng hoảng của nhà Nho và văn học Nhà Nho. Bởi vốn là những người luôn
giương cao chủ trương cao đẹp sống có đạo lý, sống có trách nhiệm với cuộc
đời, học để hành đạo phục vụ cho đời.Tuy nhiên, chế độ phong kiến mục
ruỗng đã đẩy các nhà Nho rơi vào tình thế tự mẫu thuẫn với chính mình. Một
mặt, họ thấy xấu hổ với các nhà Nho ẩn dật, lánh đời, một mặt khi lăn vào để
đối mặt với cuộc sống, họ coi đó là những hành động lầm lỡ và mất nhân
cách. Bởi vậy, chính bản thân họ là một khối tự mâu thuẫn lớn giữa một bên
là xuất xử ra làm quan hay ẩn dật. Điều này có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng
chủ đạo của nền văn học bởi ở tại thời điểm này, nhà Nho là những lực lượng
sáng tác chủ đạo chính trong xã hội. Tuy nhiên, chế độ phong kiến suy tàn,
Nho học mạt vận k o theo hàng loạt những biến đổi trong đời sống xã hội.
Trước bối cảnh đất nước rối ren và người dân cùng khổ, là những người
có ý thức sâu sắc về vận mệnh đất nước và dân tộc, những nhà Nho tiến bộ
nhận thấy văn chương bát cổ, thơ phú đều là những thứ không hữu dụng trong
đời sống thường ngày, thứ văn chương “nhai bã m a”, dùng chữ xưa chỉ nói ý
xưa, “không đau mà rên”. Nói tóm lại những thứ văn chương đang có như
kìm hãm con người phát triển trong ngục tù tâm hồn, trong tối tăm về nhận
thức. Bởi vậy họ nhìn nhận ra được những tiềm năng to lớn của văn chương
chân chính đó là có khả năng giác ngộ đồng thời có thể truyền bá những tư
tưởng mới vào trong lòng quần chúng nhân dân để chấn hưng đất nước. Bằng
những nỗ lực không ngừng nghỉ, họ đưa văn chương ra khỏi chức năng thông

thường nhằm phục vụ nhân dân và phục vụ đất nước được tốt hơn.
Sự xuất hiện của phong trào Duy Tân - một cuộc vận động dân tộc và
dân chủ xuất hiện để lại nhiều những thành tựu trong đó động thái tích cực
nhất mà phong trào Duy Tân để lại đó là phong trào đã biến chữ Quốc ngữ trở

12


thành hệ thống chữ phổ biến. Tuy nhiên, phong trào Duy Tân x t về bản chất
trái hoàn toàn với bản chất của nhà Nho. Bởi vậy, các nhà Nho ngay cả trong
văn chương cổ động Duy Tân vẫn ra sức gọt giũa, làm văn vẫn không thể đọc
ra được bản chất của văn học là gắn chặt với ngôn ngữ, nghệ thuật, hình
tượng nghệ thuật.
Rõ ràng, trong những năm đầu thế kỉ, sự vận động, phát triển con người
trí thức có bổn phận, có nghĩa vụ, có những hành đông tích cực mạnh là
chính, hướng chính chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị, xã hội. Thế nhưng
trong sự thay đổi đất nước. cuộc Âu hóa, lối sống cá nhân bắt đầu được hình
thành (tập chung chủ yếu ở các đô thị). Bối cảnh thực tại đưa đất nước bước
vào con đường tư sản hóa, tầng lớp trí thức Tây học tăng đột biến, trở thành
lực lượng chính trong xã hội với những thầy thông, phán, kí… với những
nghề chủ yếu đó là dạy học, viết văn. Sự thay đổi mạnh mẽ về mặt đời sống
xã hội, bối cảnh văn hóa là nguyên nhân chủ đạo dẫn tới sự thay đổi về mặt
nhận thức, tư duy.
Thế hệ những nhà Nho yêu nước như Phan Bội Châu, Phân Châu Trinh
được tiếp thu và ảnh hưởng của Tân thư thông qua chữ Hán. Ý thức sâu sắc
và lĩnh hội trọn vẹn tư tưởng của Tân thư, thế hệ Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh- những con người luôn nỗ lực biến văn chương trở thành công cụ tuyên
truyền cho đường lối cứu nước lúc bấy giờ. Đặc biệt với sự nghiệp sáng tác
đồ sộ của mình, những tác phẩm của Phan Bội Châu là sự chuẩn bị tiếp theo
cho những giai đoạn văn học sau này cho dòng văn học yêu nước và duy tân.

Cũng giống như hàng loạt những nhà Nho khác tại thời điểm hiện tại, Phan
Bội Châu nghi ngờ đạo thánh hiền được khởi xướng từ quốc gia láng giềng.
Điều này k o theo sự thay đổi trong quan niệm: trong văn học, hai hình tượng
người trung nghĩa và người ẩn sĩ bị xuống giá, nổi bật lên là hình tượng nhân
vật hào kiệt tự nhiệm. Mặc dù luôn khát khao và nỗ lực trong việc đổi mới

13


nền văn học bằng hàng loạt các thay đổi như lên án văn chương cử tử, ra sức
cách tân văn học, sáng tác những tác phẩm lay động tâm trí của của một thời
đại, tiếp tục sáng tác nhiều thể loại: thơ, tiểu thuyết, tuồng… nhằm thức tỉnh ý
thức của nhân dân, phục vụ cách mạng. Tuy nhiên cuối cùng Phan Bội Châu
cũng đã dừng lại trước ngưỡng xã hội xã hội chủ nghĩa. Văn thơ của ông vì
thế cũng dừng lại trước ngưỡng cửa của dạng thức văn học hiện đại bởi vì ông
không thể vượt qua được những quan niệm của văn học truyền thống mà ông
đã tắm mình trong đó.
Rõ ràng văn học yêu nước trong những năm đầu thế kỉ XX gắn liền với
phong trào chính trị mà nội dung chính của phong trào này đó chính là kết
hợp yêu nước, dành độc lập dân tộc kết hợp với phong trào duy tân và tư sản
hóa xã hội Việt Nam. Những nỗ lực cách tân, đổi mới nhằm thoát khỏi gông
cùm, kìm kẹp của tư tưởng Nho học đã ăn sâu vào tư tưởng các nhà thơ Việt
Nam lúc bấy giờ. Đây được coi là giai đoạn khá dài tuy không hoàn toàn đoạn
tuyệt với với những giá trị truyền thống được bồi đắp trước đó nhưng để phát
triển nhất định phải thay đổi về chất. Và các nhà văn nhà thơ thuộc giai đoạn
văn học sau đã làm được điều đó.
Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra được con đường cứu nước đúng
đắn nhằm giải phóng đất nước và phát triển xã hội đồng thời mở lối cho văn
học Việt Nam tham gia vào các nền văn học khác trên thế giới. Với hàng loạt
những sáng tác đầu tay của mình từ những năm 20 của thế kỷ XX, tác gia

Nguyễn Ái Quốc đã có những đóng góp không nhỏ trong việc góp phần làm
bền vững hơn nền văn học cách mạng nói riêng và nền văn học Việt Nam nói
chung. Hệ thống những tác phẩm thơ hiện đại từ nội dung tới hình thức là dấu
hiệu cơ bản cho thấy nền văn học Việt Nam nói chung, thơ ca Việt Nam nói
riêng đang bước vào chặng đường mới, chặng đường cho sự thay đổi tích cực.
Vào những năm 30, xã hội Việt Nam tiếp tục phát triển trong hoàn cảnh

14


đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp hết sức gay gắt, Sự thành công của cách
mạng tháng Tám đã xóa bỏ hoàn toàn sự tồn tại của chế độ thực dân phong
kiến. Đây là sự kiện quan trọng nhất của quá trình phát triển xã hội ở Việt
Nam. Sự thay đổi lớn lao đó cũng góp phần tạo nên những chuyển biến tích
cực dẫn đến những cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng, ý thức hệ nhằm hình
thành hệ thống những quan điểm, những tâm lý thẩm mĩ, những khuynh
hướng trào lưu văn học khác nhau có ích cho sự phát triển đất nước.
Văn học cách mạng phát triển mạnh mẽ, trở thành đại diện chính cho
tiếng nói của giai cấp vô sản và cho toàn dân tộc. Bởi vậy, lực lượng sáng tác
chủ yếu đó là những người chiến sĩ - những con người trực tiếp lăn mình vào
cuộc sống để tham gia chiến đấu, những con người có cơ hội chứng kiến và
thấu cảm cuộc đời của người lao động bình thường. Bởi vậy, nhân vật trung
tâm của nó trước hết là những con người lao động bình thường, những con
người luôn say mê lí tưởng, sẵn sàng chiến đấu để giải phóng đất nước và giải
phóng dân tộc. Nhận ra được khả năng truyền thông mạnh mẽ của văn học
cách mạng, nhưng trước năm 1945 văn học cách mạng không hề được công
khai, ngược lại nó luôn phải chịu sự câu thúc, kìm hãm, cưỡng bức ráo riết từ
chính quyền thực dân. Tuy nhiên, bằng sự phát triển nội tại của mình, văn học
cách mạng vẫn có sự phát triển, trở thành di sản quý báu làm phong phú nền
văn học Việt Nam hiện đại cả về kinh nghiệm sáng tác, lý luận lẫn thực tiễn

sáng tác. Chính nhờ thế, khi cách mạng thành công văn học cách mạng đã có
những phát triển nhảy vọt.
Phong trào thơ Mới 1932- 1945 ra đời giữa không khí bi quan, dao
động của thời kì phong trào cách mạng tạm lắng xuống và khủng hoảng kinh
tế năm 1932. Nó là đại diện cho tiếng nói đấu tranh của giai cấp tư sản dân
tộc và một bộ phận tiểu tư sản trí thức đã rút khỏi con đường đấu tranh chính
trị với đế quốc. X t về mặt nội dung, thơ Mới cũng góp phần quan trọng đấu

15


tranh đòi giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho hạnh phúc
lứa đôi, phê phán kịch liệt đại gia đình theo nề nếp phong kiến. Đối với những
tác giả thuộc phong trào thơ Mới, con đường văn chương lúc bấy giờ được coi
là con dường thoát ly trong sạch, là nơi chốn mà tất cả những ai nặng lòng với
đất nước đều có thể gửi vào đó tình yêu thầm kín. Điều này có thể thể hiện
thông qua nhận định của Trường Chinh: “Các tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu
tư sản tr th c Việt Nam tìm th y trong chủ nghĩa lãng mạn một ti ng thở dài
ch ng ch độ thuộc địa.” (12,2) . Do đặc thù xuất hiện sau chủ nghĩa lãng
mạn Pháp hơn một thế kỉ bởi vậy nên những nhà thơ lãng mạn thời đầu như
Thế Lữ, Huy Cận, … đã chịu ảnh hưởng nhiều của trường phái lãng mạn và
trường phái thi sơn. Từ 1936 về sau, thơ Mới ngày càng đi sâu vào cái “Tôi”
cá nhân, vào tôn giáo và vào các lĩnh vực siêu hình với lối diễn tả bằng các
cảm giác tinh tế bằng tiềm thức và bằng trực giác. Theo nhận định của giới
nghiên cứu văn học, các nhà thơ Mới chịu ảnh hưởng của trường phái tượng
trưng Pháp hơn là trường phái lãng mạn. Tuy nhiên dù sao đi nữa, rõ ràng
phong trào thơ Mới đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên diện
mạo cho tiến trình thơ Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX.
Cho nên nói về thơ Mới, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp
vô cùng quan trọng trong việc đưa nền văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời

kỳ hiện đại bởi hàng loạt những ưu thế của nó. Những ưu thế đó chính là: thơ
Mới có nhiều khả năng diễn đạt tình cảm hơn hẳn lối “thơ c ” nhờ việc biểu
hiện thành các thể thơ linh hoạt (5 chữ, 7 chữ, 8 chữ hoặc nhiều hơn trong
phạm vi một câu), cách hiệp vần đa dạng (vần liên tiếp, vần ôm nhau, vần
gián cách, vần hỗn tạp), nhạc điệu dồi dào đặc biệt là trong hệ thống các bài
thơ của Bích Khê, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Xuân Sanh v.v. Chính nhờ thế mà
ngôn ngữ trong thơ giàu hình tượng, cảm xúc.
Song song với sự phát triển của dòng thơ Mới lãng mạn, cùng trong

16


khoảng thời gian này, k o dài từ những năm 30 đến năm 1945, văn học Việt
Nam hình thành dòng văn học cách mạng với đặc thù nổi bật đó là dòng thơ
ca cách mạng. Xuất phát từ bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ luôn bị dìm
trong các cuộc đấu tranh cách mạng, bởi vậy nguồn cảm hứng chính hay đề
tài thúc đẩy các nhà thơ là tinh thần đấu tranh với ý thức giữ vững tinh thần,
là sự giác ngộ quần chúng trong nhà tù (như tù kinh tế) chống sự đầu hàng,
chống lại tư tưởng cải lương, tư tưởng quốc gia hẹp hòi. Ví dụ như:
“Đau khổ càng hăng lòng chiến đấu
Đau thương thêm luyện chí căm thù”
(Phan Trọng Bình)
Thơ ca cách mạng từ cuối năm 1939- 1945 phần lớn được làm theo thơ
Mới; bởi tại thời điểm này, thơ Mới cùng những thành tựu của nó đã thắng thế
hoàn toàn so với thơ cũ trước đây. X t về mặt nội dung, nếu như thơ ca cách
mạng thời kì trước nặng về việc thể hiện ý chí, kêu gọi chung chung thì thơ ca
cách mạng thời kì này đi sâu vào việc phản ánh đời sống, thế giới nội tâm của
con người. Điểm khác biệt tích cực tiếp theo mà thơ ca cách mạng trước không
làm được đó là thơ ca cách mạng thời kì này phản ánh cái Tôi cá nhân đặt trong
cái Ta cộng đồng. Điều này có tác dụng làm cho thơ ca cách mạng trở nên gần

gũi với tầng lớp bình dân hơn, bớt đi tính chất khô khan và áp đặt hơn.
1.2.3. Đặc điểm và biểu hiện sơ lược của sự tự do hóa ngôn ngữ thơ
1.2.3.1. Cơ sở hình thành sự tự do hóa thơ và ngôn ngữ thơ
a. Điều kiện kinh t - xã hội
Như chúng ta đều biết, cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là từ mốc 1884, sau
khi buộc triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước thừa nhận sự bảo hộ của Pháp,
thực dân Pháp đã hoàn thành cơ bản quá trình xâm lược Việt Nam và bắt đầu
thời kì khai thác thuộc địa ở Việt Nam và Đông Dương (từ 1897-1914 và từ
1918-1929). Dưới chính sách của thực dân Pháp, Việt Nam đã chuyển từ xã

17


hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa thực dân nửa phong kiến. Chính
quyền thực dân Pháp xây dựng hàng loạt các cơ sở công nghiệp, tập trung
phát triển cơ sở vật chất phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa. Đây
chính là những chính sách cơ bản mà thực dân Pháp áp dụng nhằm biến Việt
Nam thành thuộc địa khai thác tài nguyên, thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng
lớn. Hệ quả tất yếu của những chính sách trên đó là mạng lưới các đô thị được
mở rộng ở Việt Nam k o theo sự gia tăng nhanh chóng về số lượng của giai
cấp tiểu tư sản bản địa: tiểu thương, viên chức, thợ thủ công, học sinh, trí thức
mới… Điều này góp phần thay đổi đáng kể cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã
hội, nơi trước kia phần lớn là địa chủ cường hào và quan lại.
Về chính trị, thực dân Pháp chia nước Việt Nam thành ba kì với những
chế độ cai quản về mặt chính trị khác nhau. Điều này dẫn tới sự khác biệt rõ
rệt về sự phát triển của ba miền trong cùng một đất nước. Bên cạnh những
mặt tiêu cực, những chính sách của Pháp góp phần mở mang giao thông, buôn
bán, phát triển kinh tế hàng hóa góp phần tạo nên một thị trường thống nhất từ
Bắc chí Nam hình thành cơ sở để củng cố sự thống nhất của dân tộc hình
thành chưa lâu nhưng thật vững chắc. Nó góp phần phá chính sách bế quan

tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn trước đây làm cho Việt Nam tiếp xúc với
thế giới, trước hết là Đông Nam Á và rộng hơn nữa là châu Âu; nhờ đó nó
đưa nước Việt Nam hòa vào cuộc sống chung hiện đại của thế giới. Ngược lại
khuynh hướng tiến bộ đó đó, thực dân Pháp tiến hành mở hàng rào thuế quan
làm cho Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào chính quyền Pháp. Sự phát triển
buôn bán và giao thông như thế làm mọc lên nhiều thành thị mang đặc trưng
tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, với chính sách kìm hãm công nghiệp, duy trì nền kinh tế
phong kiến chính quyền Pháp làm cho thành thị trở thành những trung tâm
thương nghiệp mang tính chất tiêu thụ, không có tác dụng tích cực đẩy mạnh

18


kinh tế Việt Nam theo hướng tư sản hóa tiến bộ. Ở Việt Nam lúc này chỉ có
sự xuất hiện những thị trường thống nhất, những thành thị đông dân cư đóng
vai trò trung tâm của nền kinh tế. Đây chính là sự giao lưu tiếp xúc với
phương Tây là những nhân tố mới của sự phát triển xã hội. Mặc dù bị cản trở
bởi những chính sách kìm hãm của thực dân Pháp như thế, nhưng nhờ những
nhân tố mang tính khách quan ngoài ý muốn của thực dân, chính sách của
chính quyền Pháp vẫn mang lại những tác động tích cực đến sự phát triển của
đất nước Việt Nam. Sự mở cửa của nền kinh tế vốn bị kìm hãm từ lâu đã tạo
điều kiện cho xã hội Việt Nam phát triển theo hướng tích cực, trực tiếp giao
lưu với thế giới.
Nếu như trước khi Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam nổi bật với nền sản
xuất mang đậm màu sắc phương Đông thì vào thời bấy giờ xã hội Việt Nam
đã thay đổi. Nếu như trước đây trong xã hội, chính quyền chủ yếu thuộc về
một dòng họ, mọi mối quan hệ đều được sắp đặt theo một thể thống nhất được
thể hiện thông qua hệ thống chính quyền trung ương tập trung chuyên chế,
dựa vào bộ máy quan liêu và quân sự nhằm duy trì sự thống trị thì bây giờ đã

thay đổi. Nếu như trước đây hàng loạt các mối quan hệ được phân phối theo
thứ bậc thân- sơ- trên- dưới thì xã hội thuộc địa nửa thực dân nửa phong kiến
đã không còn như thế nữa. Những bản làng ẩn nấp sau lũy tre xanh có cổng
làng đóng kín được coi là hình thức đặc trưng cho làng quê Việt Nam - đại
diện cho cả một bộ phận tầng lớp những con người sở hữu lối tư duy kh p
kín, trì trệ thì nay đã là thành thị mang đặc trưng tư bản chủ nghĩa. Sự du
nhập của nền kinh tế hàng hóa góp phần làm cho hệ thống thành thị phát triển,
làm cho xã hội xuất hiện nhiều nhu cầu mới.
Những thay đổi trên phương diện đời sống xã hội như vừa nói ở trên,
đến lượt mình lại có những tác động tới thơ ca, là nhân tố quan trọng làm
những hình thức nghệ thuật cũ rạn nứt và lột xác. Nhìn chung các nhà nghệ

19


×