Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Đề tài thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện quỳnh phụ tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.21 KB, 78 trang )

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện Quỳnh Phụtỉnh Thái Bình.

1


Phần I: Mở Đầu
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội,

giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì nông nghiệp sản xuất ra những sản phẩm nuôi
sống con người mà bất kỳ ngành sản xuất khác không thể thay thế được. Đặc biệt
trong sản xuất nông nghiệp ngành sản xuất lương thực chiếm vị trí quan trọng
quyết định sự thành bại, ấm no hay phồn vinh của nông nghiệp và nông thôn, đôi
khi là của toàn bộ nền kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy việc phát triển sản xuất
lượng thực không những là quan trọng mà còn là chỗ dựa vững chắc để tạo đà phát
triển cho các ngành sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra lương thực
còn là nguồn dự trữ để nhà nước thực hiện chính sách xã hội. Từ những ý nghĩa
cực kì to lớn như vậy Đảng và Nhà nứơc ta đã lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng
tâm cho các thời kì phát triển của đất nước.
Đối với nước ta, sản xuất lương thực chủ yếu và quyết định vẫn là lúa gạo.
Do vậy việc thâm canh sản xuất lúa vẫn là mục tiêu hàng đầu đặt ra. Quỳnh Phụ là
một huyện thuần nông với đa số dân cư sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp. Cơ
cấu nông nghiệp của huyện chủ yếu là trồng trọt đặc biệt là ngành sản xuất lúa gạo
chiếm cơ cấu và diện tích chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất này. Vì vậy mà sản xuất
lúa gạo quyết định lớn đến thu nhập và đời sống của các hộ sản xuất lúa gạo trên
địa bàn huyện. Tuy nhiên sản xuất lúa gạo vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả
không cao. Điều này là do rất nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là do thiên tai
hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh, trình độ áp dụng kỹ thuật khoa học mới còn nhiều hạn
chế…



2


Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài “ Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện
Quỳnh Phụ - tỉnh Thái Bình”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu.
1.2.1. Mục tiêu chung.
Đánh giá thực trạng và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa, trên cơ sở đó đề xuất ra
những giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất lúa của huyện Quỳnh Phụ
tỉnh Thái Bình.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Nêu cơ sơ lý luận về hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất lúa nói

riêng.
-

Đánh giá thực trạng sản xuất và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa của các hộ

nông dân trong huyện.
-

Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa của

các hộ nông dân trong huyện.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu những vấn đề thuộc về kinh tế sản xuất lúa của các hộ nông
dân với chủ thể là các hộ sản xuất lúa.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

3


Phạm vi thời gian: đề tài được bắt đầu tiến hành nghiên cứu từ ngày 31/12/2007
đến ngày 25/4/2008.
Phạm vi không gian: Địa bàn huyện Quỳnh Phụ - tỉnh Thái Bình.

4


Chương I:Cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả sản xuất lúa
I.Đặc điểm sản xuất lúa gạo
Cây lúa là cây có thời gian sinh trưởng ngắn thường từ 4-5 tháng và phát triển
qua 4 thời kì: thời kì nảy mầm, thời kì mạ, thời kì đẻ nhánh- làm đòng, thời kì trổ
bông – làm hạt( Giáo trình cây lương thực, Nguyễn Đình Giao…2001). Mỗi giai
đoạn phát triển có những đặc điểm sinh lý khác nhau, nhu cầu dinh dưỡng và điều
kiện phát triển khác nhau. Vì vậy, tùy vào điều kiện mà có các biện pháp chăm sóc
hợp lý để cung cấp đầy đủ các điều kiện cần thiết giúp cho cây lúa sinh trưởng và
phát triển tốt đem lại năng xuất cao.
Cũng như các cây trồng khác cây lúa chịu sự tác động lớn của các yếu tố điêù
kiện tự nhiên như: nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, lũ lụt, hạn hán … Nếu
cấy lúa gặp điều kiện thuận lợi cây sẽ sinh trưởng phát triển tốt cho năng xuất cao.
Ngược lại nếu gặp thời tiết khắc nghiệt tùy theo mức độ khác nhau mà cây có thể
bị chết hoặc còi cọc, sinh trưởng và phát triển chậm cho năng xuất thấp.
Trên thực tế năng xuất lúa được quyết định bởi tổng hòa rất nhiều các yếu tố:
giống, kĩ thuật chăm sóc, điều kiện tự nhiên, yếu tố con người nhiều khi là do tác

động của yếu tố thị trường. Mỗi giống lúa khác nhau cho năng xuất khác nhau và
cùng một giống lúa với biện pháp thâm canh khác nhau có thể cho năng xuất khác
nhau. Mỗi giống lúa thích hợp với từng loại đất nhất định và cho năng xuất cao khi
đảm bảo yêu cầu kĩ thuật. Chính vì vậy mà cần thiết phải nắm rõ các đặc điểm của
cây lúa để có biện pháp canh tác thích hợp. Ngoài ra sản xuất lúa còn mang nặng
tính thời vụ. Thòi gian gieo cấy và thu hoạch dồn dập đã gây sức ép lớn về lao
động khi thời vụ đến nhưng sau khi thời vụ qua đi thì lao động lại nhàn rỗi nhiều.

5


Do đó phải có thêm nghề phụ để ổn định cuộc sống, giải quyết vấn đề lao động
trong lúc nông nhàn.
II. Vai trò sản xuất lúa gạo.
1. Gạo dùng làm lương thực – một trong những nhu cầu cơ bản của con
người
Cây lúa là một trong ba cây lương thực chủ yếu trên thế giới: lúa mì, lúa, ngô.
Lúa gạo là nguồn cung cấp dinh dưỡng quan trọng của con người. Lúa cung cấp
tinh bột: giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 calo.Lúa cung cấp các vitamin, protein,
lipit. Từ đặc điểm dinh dưỡng của hạt, đã từ lâu lúa gạo được coi là nguồn thực
phẩm và dược phẩm có giá trị. Tổ chức Quốc tế đã gọi hạt gạo là “hạt của sự
sống’’. Lúa cung cấp lương thực cho 1/2 dân số thế giới. Trong cơ cấu sản xuất
lương thực của thế giới: lúa mì chiếm 30,5%, lúa gạo 26,5%, ngô 24%, còn lại các
loại ngũ cốc khác.
Ngoài việc sử dụng làm lương thực chủ yếu, các sản phẩm của cây lúa còn được
sủ dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
2. Gạo dùng để chăn nuôi.
Nói chung, gạo dùng để chăn nuôi gia súc chủ yếu là tấm và gạo có chất lượng
xấu. Trước đây, khoảng 5% tổng sản lượng gạo được dùng để chăn nuôi hàng
năm. Kể từ thập kỉ 60, nhất là những năm đầu thập kỉ 90, tỷ lệ này giảm nhanh

chóng bởi lẽ:
-

Sự bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển, trước hết là ở châu Á dẫn đến
quan hệ cung cầu gạo trên thế giới căng thẳng và giá gạo tăng trong những năm
gần đây. Đặc biệt năm 2007 và đầu năm 2008 này giá gạo tăng một cách chóng
mặt.

6


-

Trình độ kỹ thuật sản xuất và công nghệ chế biến gạo được chú trọng đáng kể
đã giảm nhanh chóng tỉ lệ tấm và không ngừng nâng cao chất lượng gạo, đáp ứng
những nhu cầu cấp thiêt của con người cả về chất lượng và số lượng.

-

Sản xuất ngô được đẩy mạnh, cùng với sự phát triển của sản xuất ngô các loại
khác như khoai,sắn cũng được sử dụng cho chăn nuôi gia súc nhằm tiết kiệm triệt
để lúa gạo. Hiện nay gạo dùng cho chăn nuôi chỉ chiếm khoảng 1%.
3. Gạo dùng cho công nghiệp chế biến.
Từ lâu, gạo đã được sử dụng để chế biến các loại rượu cồn, cồn cao cấp hay gạo
được dùng để làm bún, bánh phở …một số loại dược liệu y tế cũng được chế biến
từ gạo. Nhiều năm qua, ngành công nghiệp thực phẩm phát triển đã sử dụng gạo
chế biến ra hàng loạt bánh mứt kẹo cao cấp. Trong suốt thời gian dài trước đây,
gạo được dùng làm nguyên liệu chế biến thường chiếm tỷ trọng từ 3-5% trong cơ
cấu tiêu thụ gạo trên thế giới. Đến nay việc sử dụng gạo làm nguyên liệu trong
công nghiệp chế biến cũng mang tính kinh tế thực dụng hơn.

4. Gạo dùng để xuất khẩu.
Hàng năm lượng gạo lưu thông trên thế giới khá lớn. Việt Nam là một trong ba
nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho nền
kinh tế. Trong những năm tới chúng ta sẽ chú ý sản xuất lúa đặc sản có mùi, dạng
hạt đẹp để tăng chất lượng gạo, tăng giá trị xuất khẩu. Hiện tại có nhiều doanh
nghiệp đã chú trọng đến vấn đề này. Công tác lai tạo giống có chất lượng cao phù
hợp với điều kiện ngoại cảnh đang được đẩy mạnh. Chủ chương liên kết 4 nhà: nhà
nước, nhà khoa học, nhà nông nhà doanh nghiệp trong nông nghiệp sẽ giúp cho
việc xuất khẩu gạo của Việt Nam phát triển.
5. Lúa gạo tham gia ổn định an ninh lương thực của thế giới.

7


Đứng trước sự khó khăn về lương thực ở nhiều nước và các châu lục. Hội nghị
thượng đỉnh lương thực thế giới do FAO tổ chức tháng 10 năm 1996 tại Roma đã
nêu rõ “ vấn đề đói và không an ninh lương thực là vấn đề mang tính toàn cầu và
ngày càng có xu hướng trầm trọng thêm ở một số khu vực, đòi hỏi ngay phải có
những hành động khẩn cấp vì theo dự đoán dân số thế giới ngày càng tăng và tài
nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt” vì vậy hội nghị quốc tế này đã đề ra 7 cam
kết và hành động, trong đó có 3 cam kết quan hệ lớn đến sản xuất nông nghiệp nói
chung và sản xuất lúa nói riêng.
III.Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế sản xuất lúa.
1. Điều kiện tự nhiên
Khí hậu thời tiết là yếu tố quan trọng nhất của điề kiện sinh thái có ảnh hưởng
lớn nhất và thường xuyên nhất tới quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa.
Cây lúa có xuất xứ từ vùng nhiệt đới nên điều kiện khí hậu nước ta thuận lợi cho
cây lúa sinh trưởng và phát triển. Trên đồng ruộng cây lúa chịu ảnh hưởng tổng
hợp của các điều kiện khác nhau, trong đó yếu tố nhiệt độ có ảnh hưởng rõ rệt nhất.
Các yếu tố khác như ánh sáng, nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sinh

trưởng và phát triển của cây lúa. Năm nào điều kiện khí hậu thuận lợi thì năm ấy
cây lúa cho năng xuất cao và ngược lại. Vì vậy có thể nói yếu tố thời tiết khí hậu
mang tính chất quyết định đến năng xuất lúa.
2. Nhóm biện pháp kĩ thuật canh tác
Biện pháp kĩ thuật canh tác là sự tác động của con người vào cây trồng như chọn
giống, kĩ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh…
+ Giống lúa: là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới năng xuất và hiệu quả kinh tế
của cây lúa. Mỗi giống có nằng xuất nhẩt định và cho năng xuât cao khi đảm bảo

8


yêu cầu kĩ thuật của chúng. Tuy nhiên mỗi giống chỉ phù hợp với từng loại đất cụ
thể, từng miền khí hậu nhất định cho nên việc lựa chọn giống phù hợp và cho năng
xuất cao đối với từng địa phương là hết sức quan trọng và cần thiết.
+ Kĩ thuật chăm sóc: Đây là một khâu không thể thiếu trong quá trình sản xuất
nếu muốn đạt năng xuất cao. Trong quá trình chăm sóc phải cung cấp đầy đủ nhu
cầu dinh dưỡng cho cây trồng có như vậy mới đem lại năng xuất như mong muốn.
+ Phòng trừ sâu bệnh: Sâu bệnh là một trong những nguyên nhân làm giảm năng
xuất lúa. Ở cây lúa tình hình sâu bệnh rất phức tạp, với từng giống lúa thường
xuyên xuất hiện những loại sâu bệnh khác nhau. Trong quá trình sản xuất cần quan
tâm tới đồng ruộng để phát hiện kịp thời các loại bệnh. Từ đó có biện pháp tiêu
diệt ngay khi chúng mới xuất hiện. Phòng chống sâu bệnh kịp thời, hữu hiệu sẽ
giúp cho cây sinh trưởng tốt hơn và đem lại năng xuẩt và chất lượng lúa tốt hơn.
3.Nhóm các nhân tố kinh tế- tổ chức.
Các nhân tố của nhóm này gồm nhiều vấn đề có thể chia ra như sau:
+ Trình độ năng lực của chủ thể sản xuất kinh doanh: nó có tác dụng quyết định
trực tiếp tổ chức và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa. Năng lực của các chủ thể kinh tế
sản xuất kinh doanh thể hiện qua:
Trình độ khoa học kĩ thuật và tổ chức quản lí của các chủ thể.

-

Khả năng ứng sử trước những thay đổi của điều kiện kinh tế thị trường và

môi trường sản xuất kinh doanh.
-

Khả năng và trình độ trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật của các chủ hộ.

+ Quy mô sản xuất: Các nông hộ khác nhau có diện tích đất canh tác khác nhau.
Diện tích càng lớn thì mọi công việc như tổ chức, chăm sóc, thu hoạch, chi phí,

9


cũng được tiết kiệm hơn. Do vậy quy mô sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả kinh tế.
+ Thị trường: Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất lúa. Trên
thực tế do bản chất của người nông dân vốn rất thực dụng do đó nếu vụ trước được
mùa thì lập tức vụ sau người nông dân sẽ đầu tư vào sản xuất nhiều hơn. Vì vậy
vấn đề đặt ra là khi có sản lượng cao cần mở rộng thị trường tiêu thụ làm sao cho
sản xuất ổn định và phát triển để người sản xuất đảm bảo chi phí cho quá trình sản
xuất
4. Nhóm nhân tố xã hội
Để thấy được sự ảnh hưởng của nhóm nhân tố này đến năng xuất lúa chúng ta
nghiên của các nhóm nhân tố sau:
+ Thói quen tiêu dùng: đó là sự hình thành tập quán của người tiêu dùng, no phụ
thựôc vào đặc điểm của mỗi quốc gia, mỗi vùng cũng như trình độ dân trí của mỗi
vùng, quốc gia đó.
+ Thu nhập: nói lên sức mua của người tiêu dùng, nếu thu nhập thấp sức mua của

người tiêu dùng giảm và ngược lại.
Tóm lại các nhóm nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội trên có liên quan mật thiết và
tác động qua lại với nhau, làm biến đổi lẫn nhau và cùng ảnh hưởng tới quá trình
sản xuất và hiệu quả sản xuất. Do vậy đánh giá đúng sự tác động của nó đến hiệu
quả sản xuất lúa là rất cần thiết để có những giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả
kinh tế trong sản xuất lúa.
IV. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam.
1.

Tình hình sản xuất lúa trên thế giới.

10


Trong những năm gần đây tình hình sản xuất lúa gạo thế giới có những bước phát
triển đáng kể. Năm 2004 sản lượng lúa gạo thế giới đạt 608,49 triệu tấn. Đến năm
2005 thế giới sản xuất được 628 triệu tấn gạo đạt mức kỉ lục nhờ giá cả tăng
trongnăm 2004 làm tăng diện tích trồng trọt. Vụ lúa năm 2006 được tổ chức NôngLương Liên Hợp quốc(FAO) đánh giá đang tiến triển tương đối tốt tại nhiều nước
tại bán cầu nam hoặc gần xích đạo. Một số nước thậm chí đã thu hoạch vụ lúa
chính trước tháng 5/06. Số liệu ước tính của FAO cho thấy sản lượng lúa thế giới
năm 2006 có thể đạt 635 triệu tấn. Tại các nước thuộc bán cầu nam, sản xuất lúa vụ
năm 2006 của các nước Argentina, Australia, Indonesia, Madagascar có thể tăng
do vụ mùa diễn ra khá thuận lợi trong khi sản xuất lúa của Brazin, Ecuador giảm.
2.

Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam.
Từ sau khi có nghị quyết 10, giao ruộng đất cho nông dân và chính sách coi
hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, nông nghiệp nước ta đã có những bước phát
triển vượt bậc. Nước ta từ chỗ thiếu đói về lương thực cho đến nay đã trở thành
một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Hiện nay cây lúa được

đưa vào sản xuất ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Do điều kiện đa dạng của
khí hậu địa hình và tập quán canh tác nên nên sản xuất lúa gạo cũng phân bố không
đều trong cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích gieo trồng lúa
lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 51% tổng diện tích gieo trồng lúa của cả nước.
Tiếp đến là đồng bằng sông Hồng với diện tích gieo trồng chiếm khoảng 16%. Các
vùng còn lại chiếm khoảng 33% diện tích gieo trồng lúa cả nước. Diện tích gieo
trồng lúa tăng chủ yếu là do tăng vụ chứ không phải do diện tích đất canh tác tăng.
Năng xuất lúa của Việt Nam liên tục tăng trong những năm vừa qua. Năm 1990
năng xuất lúa chỉ mới đạt 31,9 tạ /ha/năm. Năm 2003 năng xuất trung bình của

11


Việt Nam đạt 46,3 tạ/ha, tăng 1,45 lần so với năng xuất trung bình năm 1990. Hiện
nay Việt Nam là nước có năng xuất lúa cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Tuy
nhiên, so với năng xuất trung bình của các nước tiên tiến trên thế giới thì năng xuất
của Việt Nam chỉ bằng 60 %.
Về sản lượng: cùng với chính sách đảm bảo an ninh lương thực, sản xuất lúa
gạo của Việt Nam đã đạt được nhiều thành công. Sản lượng lúa liên tục tăng.Sản
lượng lương thực năm 2005 là 39.622 nghìn tấn, năm 2006 là 39.648 nghìn tấn,
năm 2007 là 39.977 nghìn tấn. Trứơc đây Việt Nam là nước phải nhập khẩu gạo,
thì nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới. ĐBSH và
ĐBSCL là 2 vựa lúa lớn nhất của cả nứơc. Chỉ tính riêng 2 vùng này, sản lượng lúa
đã chiếm khoảng 70 % tổng sản lượng lúa cả nước. Tuy nhiên sản lượng lúa trong
4 năm trở lại đây biến động thất thường hơn so với giai đoạn trước, đặc biệt là đối
với các vùng ĐBSH và ĐBSCL.

12



Chương II. Thực trạng sản xuất lúa gạo của huện Quỳnh phụ.
I.Vị trí của cây lúa trong diện tích gieo trồng cây hàng năm của huyện.
Cây lúa chiếm diện tích hết sức quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói
chung và trong sản xuất trồng trọt nói riêng của huyện Quỳnh Phụ. Cây lúa cung
cấp hầu hết nhu cầu lương thực trong sinh hoạt và trong chăn nuôi của người dân
nơi đây. Mặc dù cây lúa không mang lại hiệu quả cao nhưng lại được hết sức chú
trọng trong sản xuất, đã có rất nhiều giải pháp và thay đổi nhiều phương thức sản
xuất nhằm nâng cao năng xuất và hiệu quả kinh tế của cây lúa trong địa bàn huyện.
Sở dĩ có điều này là do trong tổng diện tích cây trồng thì cây lúa chiếm ưu thế hơn,
hơn thế nữu lúa đã được thâm canh từ rất lâu đời trên mảnh đất Quỳnh Phụ, chất
đất nơi đây phù hợp nhất với cây lúa còn các loại cây màu khác thì ít phù hợp.
Chủng loại cây trồng ở địa bàn huyện rất đa dạng và phong phú, được chia thành
những nhóm cây chủ yếu sau: cây lúa, nhóm cây màu lương thực, nhóm cây có
chất bột, cây công nghiệp, cây thực phẩm, rau đậu và các loại cây hàng năm khác.
Trong đó cây lúa chiếm ưu thế hơn hẳn các loại cây trồng khác và các loại cây này
có sự chuyển dịch theo nhiều hướng khác nhau.
Cây lúa là cây trồng chủ lực đối với ngành trồng trọt. Phần lớn diện tích ngành
trồng trọt là của cây lúa: năm 2005 là 24028 ha giảm so với năm 2004 là 0,311%,
năm 2006 là 23949 ha giảm so với năm 2005 là 0, 33%. Năm 2007 diện tích lúa cả
năm là 23913 ha giảm 36 ha do chuyển dịch diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang
nuôi trồng thủy sản và trồng cây màu có giá trị kinh tế cao hơn. Tổng diện tích
gieo trồng cả năm 2007 đạt 32306 ha tăng 863 ha so với năm 2006, chủ yếu là tăng
diện tích cây trồng cây vụ đông và các loại rau màu. Lúa trên địa bàn huyện được

13


gieo cấy làm hai vụ chính, vụ xuân và vụ mùa. Diện tích gieo trồng của hai vụ gần
như tương đương nhau và không chênh lệch lớn, hai vụ lúa kể trên trong 3 năm
qua đều giảm nhẹ. Bình quân mỗi năm vụ xuân giảm 0,5% trong khi đó vụ mùa

giảm 0,6%. Tuy diện tích gieo trồng lúa trong những năm qua giảm nhưng vị thế
của cây lúa trong gieo trồng cây hàng năm của huện vẫn đứng hàng đầu.
Cây công nghiệp ngắn ngày trên địa bàn huyện rất đa dạng và phong phú bao
gồm các loại cây: cây đay, cói, lạc, vừng, đậu tương, thuốc lào. Tuy đa dạng như
vậy nhưng chúng chiếm phần diện tích gieo trồng rất khiêm tốn. Năm 2004 có
1396 ha diện tích gieo trồng chiếm 4,44% diện tích gieo trồng, năm 2005 là 1338
ha chiếm 4,24%, năm 2006 là 1331 ha chiếm 4,24%, bình quân mỗi năm giảm
0,24%. Nguyên nhân của tình trạng này là do đất màu dần trở thành đất ở và đất
làm trang trại. Trong nhóm cây công nghiệp thì đậu tương được gieo trồng chủ
yếu, bình quân trong vòng 3 năm tăng 2,6%. Cây đậu tương rất được chuộng trong
sản xuất cây vụ đông của nông dân trong huyện bởi vì kĩ thuật chăm sóc đơn giản,
đầu tư thấp và có hiệu quả cao hơn hăn so với cây trồng vụ đông khác. Cây lạc có
diện tích lớn thứ hai trong tổng diện tích gieo trồng cây công nghiệp: năm 2004
gieo trồng 275 ha chiếm 19,7% tổng diên tích gieo trồng cây công nghiệp, đến năm
2006 chỉ còn 168 ha, năm 2007 chỉ còn 151 ha. Diện tích cây lạc giảm một cách
nhanh chóng là do lạc không đem lại hiệu quả cao và người nông dân chuyển sang
trồng đậu tương. Cây công nghiệp còn lại chiếm cơ cấu và sản lượng nhỏ và luôn
có sự biến động, sự biến động này không ảnh hưởng nhiều đến giá trị sản xuất
ngành trồng trọt.
Cây thực phẩm các loại nhiều năm qua phát triển không ngừng trừ năm 2005
lắng xuống do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt làm rau màu sinh trưởng, phát triển

14


kém. Năm 2004 diện tích của nhóm cây này là 2835 ha chiếm 9,03 % tổng diện
tích gieo trồng cây hàng năm, năm 2005 là 2760 ha giảm so với năm 2004 là
2,65% tức 75ha, đến năm 2006 tăng lên 3124 ha tăng so với năm 2005 là 13,19 ha,
bình quân trong vòng 3 năm tăng 4,9%. Cây thực phẩm rau màu ngày càng có giá
trị kinh tế cao và đem lại nguồn thu đáng kể cho nông dân, đặc biệt nhóm này được

sản xuất phổ biến ở vụ đông. Ở nhiều xã như Quỳnh Hải, Quỳnh Hội có trình độ
thâm canh cây vụ đông rất cao.
II. Diện tích, năng xuất, sản lượng lúa của huyện các năm gần đây.
Cây lúa được thâm canh từ rất lâu đời trên mảnh đất Quỳnh Phụ, nó gắn bó
mật thiết với người dân nơi đây, nó đi sâu vào tâm lý của họ nhất định phải sản
xuất lúa nếu không thì không có đủ lương thực hoặc có tiền đi mua thì cũng không
được hạt gạo ngon. Trải qua rất nhiều lần thay đổi giống, thay đổi phương thức sản
xuất để nâng cao năng xuất cũng như hiệu quả kinh tế của cây lúa, hiện nay trên
địa bàn huyện đang sử dụng các giống phổ biến nhu:giống dài ngày là Xi23, 13/2,
8865, nếp thơm; giống ngắn ngày là Q5, TBR1, Khang dân 18, Khâm dục, N87,
N97, hương thơm 1, bắc thơm 7, BC15. Theo số liệu của phòng nông nghiệp
huyện, hiện nay có trên 10% diện tích lúa chất lượng cao. Người dân nơi đây đang
chuyển dần từ sản xuất về lượng sang sản xuất về chất lượng.
Bảng : Diện tích, Năng suất, sản lượng của lúa qua 3 năm.
Chỉ tiêu
Lúa
xuân

2004

DT(ha)
12039
NS(tạ/ha) 70,61
SL(tấn)
85007,

2005

2006


12208 11940
71,16
70,15
172264 83759

4

15

05/04
101,40
100,78
202,65

So sánh(%)
06/05
BQ
97,80
99,59
98,58
99,67
48,62
99,26


Lúa

DT(ha)
NS(tạ/ha)
mùa

SL(tấn)
Cả năm DT(ha)
NS(tạ/ha)
SL(tấn)

12185
57,17
69661,6
24224
63,85
154669

12088 12000 99,20
99,27
99,24
51,8
61,2
90,61
118,15 103,46
62616 73440 89,89
117,29 102,68
24208 23940 99,93
98,89
99,41
122,96 131,27 101,35 101,47 101,41
234880 157199 151,86 66,93
100,59
(Nguồn: Phòng nông nghiệp huyện Quỳnh Phụ)

Qua bảng số liệu cho thấy:

Mùa vụ: cây lúa trên địa bàn huyện được gieo trồng ở hai vụ: vụ xuân và vụ mùa
và cả hai vụ này đều có diện tích tương đương nhau. Tuy nhiên sản xuất lúa gạo
đều chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên cho nên lúa xuân thường cho
năng xuất cao hơn lúa mùa.
Diện tích: Hiện nay cây lúa không mang lại hiệu quả kinh tế cao so với các cây
trồng màu khác hoặc rau màu chính vì thế mà trong những năm gần đây diện tích
sản xuất lúa cho hiệu quả thấp được chuyển dần mục đích sản xuất. Đây cũng
chính là nguyên nhân khiến diện tích lúa giảm dần. Ở vụ lúa giống, lúa chủ yếu là
giống lúa dài ngày Xi23, thích hợp với chân đất trũng. Năm 2005 diện tích lúa
xuân là 12120 ha tăng so với năm 2004 là 0,67% tức là 81ha, đến năm 2006 chỉ
còn 11940 ha giảm so với năm 2005 là 4,19%(180 ha). Bình quân 3 năm diện tích
lúa xuân giảm 0,14%. Diện tích cấy lúa xuân ngắn ngày qua 2 năm 2006, 2007
phấn đấu toàn huện vẫn chỉ đạt được 67,3% diện tích gieo cấy. Diện tích lúa mùa
liên tục giảm bình quân trong 3 năm mỗi năm giảm 0,67%. Nguyên nhân là trong
những năm gần đây các yếu tố đầu vào trong sản xuất lúa tăng. Diện tích ở hai vụ
lúa sản xuất đều giảm dần, bình quân mỗi năm diện tích lúa của huện giảm 0,59%.

16


hiện nay chủ chương của huyện là chuyển đổi diện tích cấy lúa không có hiệu quả
sang mục đích sử dụng khác, sản xuất lúa gạo không cần tăng về diện tích mà chỉ
cần tăng về năng xuất và chất lượng.
Năng suất: yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất lúa
đó chính là năng xuất, năng xuất lúa giữa hai vụ lúa xuân, lúa mùa khác nhau rõ
rệt. Năm 2005 năng xuất lúa xuân là 71,16 tạ/ha, lúa mùa chỉ đạt 51,8tạ/ha, lúa
xuân cao hơn lúa mùa là 19,36 tạ/ ha; đến năm 2006 lúa xuân đạt 70,15 tạ/ha, lúa
mùa đạt 61,2 tạ/ha mức chênh lệch chỉ còn 8,95 tạ/ha. Năm 2007 năng xuất lúa
xuân đạt 60,81 tạ, vụ mùa 62,65 tạ, mức chênh lệch chỉ còn 1,84 tạ/ha. Qua bảng
số liệu cho thấy năng xuất lúa xuân tương đối ổn định, bình quân trong 3 năm có

sự giảm nhẹ 0,33%. Nhưng ngược với lúa xuân lúa mùa có sự biến động lón về
năng xuất: năm 2005 do điều kiện thời tiết bất lợi cho sản xuất lúa vụ mùa, cho nên
năng xuất lúa mùa chỉ còn 51,9 tạ/ha, giảm 9,39% tức là 5,37 tạ/ha. Nhưng đến
năm 2006 điều kiện thời tiết thuận lợi đã làm cho năng xuất lúa mùa tăng vọt với
61,2 tạ/ha, tăng so với năm 2005 là 18,15%. Năm 2007 năng xuất lúa mùa đạt
62,65 tạ/ha. Bình quân trong năng xuất lúa mùa tăng 3,46 %. Qua đây cho thấy
năng sản xuất lúa chịu tác động rất lớn của điều kiện tự nhiên. Trên địa bàn huyện
2 giống X23 và Q5 được sử dụng khá lâu đời và cho năng xuất cao và ổn định.
Hiện nay huyện đang có chủ trướng sản xuất lúa có chất lượng cao như bắc thơm,
N97… trong đó chủ yếu là bắc thơm. Các giống lúa có chất lượng cao cho năng
xuất thấp hơn nhiều so với các giống cũ điều này cũng ảnh hưởng đến năng xuất
lúa bình quân của toàn huyện.
Diện tích và năng xuất lúa biến động dẫn đến sản lượng lúa của huyện biến
động, năm 2004 toàn huyện đạt 154699 tấn lúa gạo, đến năm 2005 do lúa mùa thất

17


thu cho nên sản lượng lúa giảm xuống 148862 tấn giảm 3,75% tức là 5807 tấn;
năm 2006 sản lượng lúa tăng lên 157199 tấn tăng so với năm 2005 là 5,6% tức
8337 tấn, nguyên nhân chủ yếu là do lúa mùa được mùa, bình quân 3 năm sản
lượng lúa tăng 0,81%. Năm 2007 sản lượng thóc đạt 147.607 tấn giảm so với năm
2006 là 9592 tấn nguyên nhân là do thời tiết khí hậu không thuận lợi và chi phí sản
xuất lúa cao nên người dân chuyển đổi mục đích sủ dụng đất.
Tóm lại, sản xuất lúa gạo hiện nay của nhân dân trong huyện có sự chuyển biến
theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế chứ không còn chú trọng trong
việc tăng về diện tích. điều này khẳng định nhận thức về sản xuất của nông dân nơi
đây được nâng cao rất nhiều, điều này góp phần tích cực vào công cuộc phát triển
sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội của huyện nói chung.


18


III. Tình hình tiêu thụ

Hộ nông dân
SX lúa

Chợ

Người thu gom

Đại lý thu mua

Chế biến

Người tiêu dùng

Tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng đối với bất cứ ngành sản xuất nào. Phần
lớn các hộ nông dân trên địa bàn huyện có diện tích sản xuất ít cho nên lúa gạo sản
xuất chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và chăn nuôi của gia đình, phần còn lại
mới để bán. Việc tiêu thụ sản phẩm do các nông hộ chịu trách nhiệm thực hiện.
Kênh tiêu thụ sản phẩm của hộ qua qua các hình thức sau: Hộ có thể mang thóc

19


gạo ra chợ bán, bán trực tiếp cho người tiêu dùng tại nhà, bán cho người thu gom
hoặc bán cho đại lí thu mua. Thông tin về giá lúa gạo khá phổ biến thuận lợi cho
nông dân trong việc tiêu thụ sản phẩm và có sự điều chỉnh theo giá lúa gạo quốc

gia. Lúa gạo từ các hộ nông dân hoặc những người thu gom tới đại lí thu mua từ đó
được chuyển đi chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên trên địa bàn huyện không có một cơ
sỏ chế biến lúa gạo nào lớn chỉ có những cơ sở rất nhỏ chế biến gạo để bán cho
nhân dân trong huyện và các vùng phụ cận. Theo số liệu của phòng thống kê toàn
huyện có 4 cơ sở chế biến gạo nhỏ của tư nhân, trong đó có hai cơ sở ở thị trấn
Quỳnh Côi.
IV. Những thuận lợi khó khăn.
1.

Thuận lợi :
Đất đai của huyện rất phù hợp cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Mặt

khác nông dân nơi đây có kinh nghiệm sản xuất lúa gạo từ lâu đời. Cơ sở hạ tầng
phục vụ cho sản xuất tương đối tốt: hệ thống thủy lợi và giao thông nội đồng đã
được 38 xã phường nâng cấp và đi vào hoạt động rất tốt. Hệ thống khuyến nông
đang trên đà phát triển cùng với việc tổ chức các lớp tập huấn kết hợp với thông
tin, tuyên truyền đã góp phần nâng cao nhận thức trong sản xuất cho người nông
dân.
Khó Khăn :
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì sản xuất của huyện cũng gặp một số
khó khăn. Khó khăn lớn nhất hiện nay là diện tích đất canh tác và đất sản xuất lúa
của các hộ quá ít, diện tích đât nông nghiệp được chia theo đầu người thấp. Đây
chính là nguyên nhân mà nông hộ không thực hiện quy mô sản xuất lớn hơn được.
V. Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa của hộ nông dân.

20


1. Tình hình cơ bản của hộ điều tra.
* Đặc điểm cơ bản của hộ nông dân ở địa điểm nghiên cứu

Như các địa phương khác từ sau nghị quyết 10 của bộ chính trị, hộ nông dân của
huyện Quỳnh Phụ đã được trao quyền sử dụng ruộng đất ổn định và lâu dài, chính
thức được coi là đơn vị kinh tế tự chủ. Cùng với quá trình đổi mới của đất nước
kinh tế hộ ở huyện ngày một phát triển.
Tuy nhiên đối với hộ nông dân trong điều kiện sản xuất hàng hóa như hiện nay
đang nổi cộm lên một số vấn đề: diện tích đát đai của hộ nông dân ở đây còn manh
mún, diện tích đất bình quân trên đầu người thấp điều này đã làm ảnh hưởng không
nhỏ đến phát triển sản xuất của hộ nông dân.
2. Cơ cấu các giống lúa của nhóm hộ điều tra
Giống là yếu tố ảnh hưởng lón đến năng xuất cây trồng vật nuôi. Mỗi giống cần
có đặc điểm sinh lí nhất định cần có kĩ thuật chăm sóc riêng và có ngưỡng giới hạn
năng xuất khác nhau. Giống lúa là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ
tới năng xuất lúa từ đó mà ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất của cây lúa.
Diện tích canh tác lúa của các hộ ở hai vụ lúa: lúa xuân và lúa mùa tương đối như
nhau và bằng diện tích đất canh tác. Tổng diện tích đất canh tác của các hộ điều tra
là 269,3 sào, trong đó hộ khá 46,2 sào, hộ trung bình có diện tích đất canh tác
202,9 sào, hộ nghèo có diện tích đất canh tác là 20,2 sào. Ở mỗi vụ các hộ lại sử
dụng các giống lúa khác nhau.
Qua điều tra cho thấy ở vụ xuân các hộ sử dụng giống Xi23, Q5, Bắc Thơm là
chủ yếu; giống Xi23 được gieo trồng 213,07 sào chiếm 79,12% diện tích gieo
trồng lúa xuân, giống Q5 có 33,04 ha chiếm 12,27%; Bắc Thơm có 14,08ha chiếm
5,23% còn lại các giống khác có 9,1ha chiếm 3,38%. Các nhóm hộ điều tra có cơ

21


cấu giống lúa khác nhau hoàn toàn. Hộ khá đã chuyển từ cấy lúa có năng xuất cao
nhưng chất lượng không cao sang cấy lúa có chất lượng cao. Do đó mà giống Xi23
chiếm 76,5%, Q5 chiếm 10,82%, diện tích bắc thơm chiếm 13,14% tổng diện tích
trồng lúa xuân của nhóm hộ này. Nhóm hộ trung bình diện tích giống Xi23 chiếm

76,5%, Q5 chiếm 10,82%, diện tích bắc thơm chiếm 3,95% tổng diện tích gieo
trồng vụ xuân của nhóm hộ này, ngoài ra nhóm hộ này còn dành 4,48 % diện tích
gieo trồng vụ mùa để sản xuất các giống khác ( Khâm Dục, Hương thơm, N97…).
Hộ nghèo diện tích cấy giống Xi23 chiếm 81,89%, giống Q5 chiếm 18,10 %tổng
diện tích gieo trồng vụ xuân của nhóm hộ này.
Vụ mùa: bước sang sản xuất vụ mùa thì các hộ nông dân lại sử dụng giống khác
điP: giống Q5 được gieo trồng phổ biến ngoài ra còn phải kể đến giống Bắc thơm.
Giống Q5 được gieo trồng 241,67 sào chiếm 89,74% tổng diện tích gieo trồng vụ
mùa, Bắc thơm chiếm 15,21% diện tích cấy lúa mùa của nhóm hộ này. Nhóm hộ
trung bình diện tích giống Q5 chiếm 89,95%, giống Bắc thơm chiếm 6,67 % tổng
diện tích gieo trồng của nhóm hộ này, ngoài ra hộ còn sủ dụng nhiều giống khác
nhưng chiếm cơ cấu rất nhỏ 3,38 % tổng diện tích gieo trồng của nhóm hộ. Hộ
nghèo trong vụ mùa sủ dụng giống duy nhất đó là giống Q5 vào trong sản xuất lúa.
Tóm lại cơ cấu nhóm lúa ảnh hưởng tới năng xuất bình quân của các nhóm hộ.
Tuỳ vào điều kiện kinh tế khác nhau mà các hộ ra quyết định lựa chọn giống trong
sản xuất, thông thường các hộ có điều kiện kinh tế đang có xu hướng chuyển sang
sản xuất lúa có chất lượng cao còn các hộ khó khăn thì vẫn tập trung vào những
giống đem lại năng xuất cao.
5.Chi phí sản xuất lúa của các nhóm hộ
5.1Chi phí sản xuất lúa của các nhóm hộ ở hai vụ lúa xuân và lúa mùa

22


Đối với bất kì loại cây trồng nào ngoài yếu tố thời tiết khí hậu thì phân bón,
giống, thuốc bảo vệ thực vật,… đều ảnh hưởng tới năng xuất cây trồng. Trong sản
xuất lúa việc thay đổi mức đầu tư đều ảnh hưởng tới năng xuất lúa và hiệu quả
kinh doanh mà cây lúa đem lại. Vì vậy người sản xuất lúa quyết định đầu tư ở mức
nào phù hợp với từng mùa vụ là điều rất quan trọng. Nếu như đầu tư cao quá hoặc
thấp quá ở các vụ khác nhau sẽ làm giảm năng xuất lúa. Chính vì vậy chúng tôi

tiến hành nghiên cứu hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở các mức đầu tư khác nhau của
các nhóm hộ điều tra.
a, Chi phí sản xuất lúa của các nhóm hộ ở vụ lúa xuân
Về chi phí trung gían: mức đầu tư chi phí cho một sào lúa giữa các nhóm hộ có
sự khác nhau rõ rệt. Bình quân mỗi sào lúa nhóm hộ khá đầu tư 192,12 nghìn đồng,
nhóm hộ trung bình đầu tư là 169,94 nghìn đồng, nhóm hộ nghèo đầu tư là 160,56
nghìn đồng. Qua so sánh cho thấy mỗi sào lúa nhóm hộ khá đầu tư cao hơn nhóm
hộ nghèo
Ở Quỳnh Phụ cây lúa được hết sức quan tâm trong sản xuất và kĩ thuật chăm sóc
được các khuyến nông viên huyện đặc biệt coi trọng. Các khuyến nông viên
thường xuyên tổ chức tập huấn cho khuyến nông các xã và các nông dân điển hình,
giúp họ nắm vững kĩ thuật từ đó phổ biến cho địa phương mình đang sinh sống và
công tác. Các yếu tố đầu vào để sản xuất chủ yếu là: phân đạm, phân lân, phân kli,
NPK, phân hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật…Tuy nhiên ở tuỳ mức độ kinh tế và yêu
cầu kĩ thuật mà các hộ có những cách đầu tư khác nhau.
Bảng: Chi Phí sản xuất lúa của các nhóm hộ ở vụ xuân
Tính cho một sào
Chỉ

ĐVT Hộ khá(1)

Hộ trung bình(2)

Tiêu

23

Hộ nghèo(3)

So Sánh(%)



SL

GT(1000đ)
1.CPTG 1000đ
182,12
- Giống Kg 2,96
18,00
- Đạm
Kg 4,60
21,63
- Kali
Kg 3,76
16,92
- Phân
Tạ 2,71
18,70
chuồng
- NPK
Kg 28,13
56,27
- Thuốc
1000đ
31,70
BVTV
- Thủy
1000đ
12,60
lợi phí

- Nộp
1000đ
6,30
HTX

SL

GT(1000đ)
169,94
2,88
17,78
3,64
17,11
3,55
15,98

SL

GT(1000đ)
160,56
3,21
17,75
5,00
23,50
2,37
10,67

1/2
107,17
101,24

126,44
105,92

2/3
105,84
100,17
72,80
149,79

1/3
113,43
100,41
92,05
158,65

2,73

18,84

2,08

14,35

99,27 131,25 130,29

26,91

53,82

24,48


48,97

104,54 109,91 114,90

27,52

26,42

115,19 104,15 119,97

12,60

12,60

100,00 100,00 100,00

6,30

6,30

100,00 100,00 100,00

(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)

Đối với phân bón, tuỳ giống nếu có cách đầu tư cho phù hợp thì sẽ có năng xuất
cao nhất. Ở Quỳnh Phụ nông dân đã bỏ kĩ thuật bón phân đơn: đạm, lân, kli. Hiện
nay các hộ đang sử dụng phương pháp bón phân tổng hợp NPK kết hợp với bón
phân đạm và phân kali bổ sung. Qua điều tra cho thấy các nhóm hộ khác nhau có
mức đầu tư phân bón khác nhau. Đối với phân đạm: nhóm hộ khá đầu tư 4,6 kg

trên 1 sào cao hơn nhóm hộ trung bình là 26,44 % tương ứng với 0,96 kg/sào và
thấp hơn nhóm hộ nghèo là 7,95 % tương ứng là 0,4 kg/sào. Nhóm hộ trung bình
có mức đầu tư phân đạm thấp hơn nhóm hộ nghèo là 27,20 % tương ứng với 1,36
kg/sào. Đối với phân kali: đây là loại phân có tác dụng lớn đối với quá trình tạo hạt
của lúa và làm cho cây lúa cứng cáp, tăng cường khả năng chống chịu của cây lúa.

24


Nhận thức được tầm quan trọng của kali cho nên nhóm hộ khá đầu tư lớn hơn so
với các nhóm hộ khác. Trung bình mỗi sào lúa xuân nhóm hộ khá đầu tư 3,76 kg
cao hơn nhóm hộ trung bình là 5,92 % tương ứng với 0,21 kg và cao hơn nhóm hộ
nghèo là 58,65 % tương ứng với 1,39 kg. Nhóm hộ trung bình đầu tư cao hơn
nhóm hộ nghèo là 49,79 % tưng ứng với 1,18 kg. Đối với phân NPK: đây là loại
phân chủ yếu mà hộ sử dụng để cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa. Hộ khá do có
tiềm lực kinh tế cao nên có mức đầu tư cao hơn nhóm hộ trung bình và nhóm hộ
nghèo. Trung bình mỗi sào lúa xuân nhóm hộ khá có mức đầu tư phân NPK là
28,13 kg cao hơn nhóm hộ trung bình là 4,54 % tương ứng với 1,22 kg/sào và cao
hơn nhóm hộ nghèo là 14,91 % tương ứng với 3,65 kg/sào. Nhóm hộ trung bình có
mức đầu tư cao hơn nhóm hộ nghèo là 9,8 % tương ứng với 2,43 kg/sào. Qua đây
cho ta thấy nhóm hộ khá đầu tư phân vô cơ cao hơn nhóm hộ nghèo và trung bình.
Ngoài ra nhóm này còn biết cân đối tỷ lệ bón phân đạm, kali, với NPK hơn hai
nhóm hộ còn lại. Nhóm hộ nghèo đầu tư phân vô cơ thấp nhất và cũng kết hợp 3
loại phân này kém nhất. Đối với phân chuồng: đây là loại phân mà các hộ tự cung
cấp được và có tác dụng rất tốt cho cây trông, và có tác dụng cải tạo đất tốt. Nó bổ
sung vào trong đất nhiều nguyên tố mà các phân vô cơ không có. nếu chỉ sử dụng
phân vô cơ mà không sử dụng phân hữu cơ thì đất nhanh chónh bị bạc màu. Qua
điều tra cho thấy ở vụ lúa xuân nhóm hộ khá đầu tư 2,71 tạ phân chuồng thấp hơn
nhóm hộ trung bình là 0,73 % tương ứng với 0,02 tạ và cao hơn nhóm hộ nghèo là
30,29 % tương ứng với 0,63 tạ. Nhóm hộ trung bình đầu tư cao hơn nhóm hộ

nghèo là 31,25 % tương ứng với 0,65 tạ. Hầu như phân chuồng do chăn nuôi bao
nhiêu đều được sử dụng hết trong sản xuất.

25


×