Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Quan hệ chính trị quốc tế tác động đến thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước ta giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.64 KB, 80 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
(Đề tài cấp cơ sở năm 2016)

QUAN HỆ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Cao Thị Thu Trang

HÀ NỘI, THÁNG 11 NĂM 2016


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN

: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CMKH-CN



: Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ

COC

: Bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông

DOC

: Quy tắc về ứng xử của các bên liên quan tại Biển Đông

EU

: Liên minh Châu Âu

AFTA

: Hiệp định thương mại tự do Asean

IGO

: Tổ chức đa chính phủ

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

G7

: Nhóm các nước phát triển


KTTT

: Kinh tế tri thức

MNC

: Công ty đa quốc gia

NGO

: Các tổ chức phi chính phủ

TAC

: Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á

TCH

: Toàn cầu hóa

TPP

: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

WTO

: Tổ chức thương mại

CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA

1. ThS. Cao Thị Thu Trang

Chủ nhiệm đề tài

2


2. PGS.TS. Lê Văn Phụng

Thành viên

3. TS. Nguyễn Thanh Hà

Thành viên

4. TS. Vũ Thị Như Hoa

Thành viên

5. TS. Trương Văn Huyền


Thành viên

6. ThS. Bùi Giang Nam

Thành viên

7. ThS. Cao Phan Giang

Thành viên

8. ThS. Cao Nguyên

Thành viên

MỤC LỤC
Trang
4

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG

8

Chương 1: Quan hệ chính trị quốc tế và sự tác động của nó đến

8

thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ
đổi mới
1.1. Quan hệ chính trị quốc tế


8

1.2. Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời

19

kỳ đổi mới
1.3. Nhận diện những tác động của quan hệ chính trị quốc tế trong
3

27


thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
Chương 2: Quan điểm và đối sách của Việt Nam trước sự tác

39

động của quan hệ chính trị quốc tế giai đoạn hiện nay
2.1. Xu thế vận động chủ yếu của quan hệ chính trị quốc tế trong

39

những năm tới
2.2. Định hướng hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng

53

và Nhà nước ta trong những năm tới

2.3. Đối sách của Đảng và Nhà nước ta trước sự tác động của quan

58

hệ chính trị quốc tế giai đoạn hiện nay
C. KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75

A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ chính trị quốc tế là mối quan hệ cơ bản nhất trong mối quan hệ
phong phú, đa dạng, nhiều chiều của đời sống quốc tế. Quan hệ chính trị quốc
tế có vị trí ngày càng quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt
trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Các mối quan hệ
chính trị quốc tế một mặt ngày càng phát triển sâu rộng, chặt chẽ, ràng buộc
và phụ thuộc lẫn nhau, mặt khác chứa đầy những mâu thuẫn, phức tạp và biến
đổi không ngừng, đòi hỏi các quốc gia vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau để
cùng tồn tại và phát triển.
Nghiên cứu quan hệ chính trị quốc tế để chúng ta có thể nhận thức được
những nội dung cơ bản của nền chính trị thế giới trong thời đại ngày nay. Đối
ngoại là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong quan hệ chính trị quốc tế. Các
chính sách đối ngoại của từng quốc gia đưa ra là cơ sở phát triển các mặt xã

4



hội của từng nước đó như: kinh tế, văn hóa, chính trị, ngoại giao. Trong bối
cảnh quốc tế và thế giới ngày nay luôn có sự biến đổi không ngừng và tác
động trực tiếp đến các quốc gia nói chung và chính sách đối ngoại của các
quốc gia nói riêng. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu các vấn đề về
quan hệ chính trị quốc tế đương đại, các chủ thể quan hệ chính trị quốc tế, các
xu thế vận động của của quan chính trị quốc tế… Trên cơ sở đó, phát triển tư
duy chính trị, xây dựng kỹ năng và năng lực quán triệt, vận dụng, cụ thể hóa
và bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực đối ngoại
trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ta. Từ đó, đề ra các đối sách thực
hiện đường lối, chính đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta dưới sự tác động
của quan hệ chính trị quốc tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định cục diện thế giới đa cực ngày càng
rõ hơn. Các nước lớn thay đổi chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh
tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến tình hình thế giới và
khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp
đặt, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khủng bố… ngày càng nổi lên trong quan
hệ quốc tế. Các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ đang
đứng trước những cơ hội và thách thức mới trên con đường phát triển. Đặc
biệt, việc tập hợp lực lượng nhằm liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các
nước trên thế giới và khu vực diễn ra phức tạp. Toàn cầu hóa và cách mạng
khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ thúc đẩy hình thành xã hội thông tin
và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới có chiều hướng phục hồi nhưng còn nhiều
khó khăn. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng,
an ninh lương thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên quốc gia,
các tổ chức khủng bố nổi lên… tiếp tục diễn biến phức tạp. Châu Á - Thái
Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á có vị trí địa - kinh tế và địa chính trị quan trọng, là khu vực có tiềm năng phát triển mạnh mẽ nhưng tồn
tại nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu
vực tiếp tục diễn ra gay gắt.

5


Như vậy, sự phát triển ngày càng phức tạp của các mối quan hệ chính
trị quốc tế đặt ra yêu cầu khách quan cần nghiên cứu một cách toàn diện và hệ
thống diễn biến và kết quả của những sự kiện, sự tham gia của các chủ thể
quan hệ chính trị quốc tế; bối cảnh quốc tế, khu vực; các xu thế vận động của
chính trị thế giới, các nhân tố tác động đến quan hệ chính trị quốc tế; từ đó
giúp chúng ta nhận diện những tác động của quan hệ chính trị quốc tế trong
thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do vậy, để
thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và các mục tiêu
lớn trong chính sách đối ngoại của nước ta, việc thực hiện đề tài: “Quan hệ
chính trị quốc tế tác động đến thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn hiện nay” là yêu cầu cấp thiết trong thời
kỳ đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, việc nghiên
cứu đề tài cũng nhằm đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của nghiên cứu và giảng dạy
chuyên ngành Chính trị học ở Học viện Chính trị khu vực I.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a/ Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ chính trị quốc tế; đánh
giá những tác động của nó và luận giải những đối sách thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ chính trị quốc tế giai đoạn hiện nay.
b/ Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ chính trị quốc tế;
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đổi mới.
- Nhận diện sự tác động của quan hệ chính trị quốc tế đến việc thực
hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhằm hiểu sâu sắc hơn
quan điểm, phương châm chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Từ
đó làm rõ quan điểm và đối sách thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta trong quan hệ chính trị quốc tế giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6


a/ Đối tượng nghiên cứu
Các quan hệ chính trị quốc tế; đường lối, chính sách đối ngoại của quốc
gia và sự tác động của quan hệ chính trị quốc tế đến việc thực hiện đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn hiện nay
b/ Phạm vi nghiên cứu
Quan hệ chính trị quốc tế tác động đến việc thực hiện chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước Việt Nam giai đoạn từ thời kỳ đổi mới đến nay (1986 nay).
4. Phương pháp nghiên cứu
Quan hệ chính trị quốc tế là một lĩnh vực rộng lớn và là đối tượng của
nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Do đó phương pháp nghiên cứu cho
đề tài đòi hỏi một hệ các phương pháp bổ sung và hỗ trợ cho nhau:
- Phương pháp duy vật Mác - Lênin vừa là cơ sở lý luận vừa là một
phương pháp nghiên cứu cơ bản của đề tài này.
- Các phương pháp cụ thể mà đề tài trực tiếp sử dụng là: phương pháp
logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp và các phương pháp liên
ngành khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quan hệ chính trị
quốc tế và đường lối, chính sách đối ngoại của quốc gia.
- Về mặt nhận thức: Nhận diện các quan hệ chính trị quốc tế tác động
đến việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
thời kỳ đổi mới.
- Về mặt thực tiễn: Từ xu thế vận động của quan hệ chính trị quốc tế
và sự tác động của quan hệ chính trị quốc tế tới đường lối, chính sách đối
ngoại mà luận giải về những đối sách của Đảng và Nhà nước ta trước sự tác
động của quan hệ chính trị quốc tế giai đoạn hiện nay.


7


- Là tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập bộ môn Chính trị học.
6. Kết cấu Tổng quan Đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung Đề tài được kết cấu
thành 2 chương:
Chương 1: Quan hệ chính trị quốc tế và sự tác động của nó đến thực
hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Chương 2: Quan điểm và đối sách của Việt Nam trước sự tác động của
quan hệ chính trị quốc tế giai đoạn hiện nay

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN HỆ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ

1.1.1. Chủ thể của quan hệ chính trị quốc tế
Chính trị được nhận thức trước hết trong từng quốc gia thông qua quan
hệ giữa các nhóm lợi ích. Nhưng phạm vi ảnh hưởng và hiện thực của chính
trị không bị hạn chế trong phạm vi các quốc gia. Khi chính trị vượt ra khỏi
biên giới của mỗi quốc gia thì chính trị là mối quan hệ giữa các nước và trở
nên một hình thức mới là chính trị quốc tế. Chính trị quốc tế thực chất là sự
gây ảnh hưởng của quốc gia này đối với quốc gia khác, là sự tác động qua lại

8



giữa các quốc gia mà nền tảng là chính sách của từng quốc gia tham gia vào
sân khấu chính trị quốc tế.
Quan hệ chính trị quốc tế là mối quan hệ về mặt chính trị giữa các nhà
nước, giữa các quốc gia - dân tộc độc lập có chủ quyền, giữa các tổ chức quốc
tế và phong trào chính trị - xã hội, giữa các vùng, khu vực xoay quanh những
vấn đề cấu thành và vận động của nền chính trị thế giới. Trên quan điểm
Chính trị học, quan hệ chính trị quốc tế là những mối quan hệ trong nền chính
trị quốc tế - đó là sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền chính trị
quốc tế trong quá trình hoạt động thiết lập hệ thống quyền lực chính trị nhằm
thực hiện lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích chung nhân loại trên
phạm vi khu vực và thế giới.
Như vậy, quan hệ chính trị quốc tế có cơ sở từ quan hệ chính trị quốc
gia, tức là từ quan hệ giữa các chủ thể chính trị ở các quốc gia nhằm thực hiện
quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước có hai chức năng cơ bản: chức năng
giai cấp và chức năng xã hội; được thực hiện trong phạm vi quốc gia (đối nội)
và trên phạm vi quốc tế (đối ngoại). Mối quan hệ (hoạt động và sự tác động
qua lại) của các chủ thể chính trị giữa các quốc gia thực hiện quyền lực nhà
nước hình thành quan hệ chính trị quốc tế. Sự chín muồi chính trị của mỗi
quốc gia thể hiện ở sự hoạch định và thực hiện chính sách của nhà nước cả
trong đối nội lẫn đối ngoại, thực hiện chức năng quyền lực nhà nước cả trong
phạm vi quốc gia cả trong chính trị quốc tế.
Trong nền chính trị quốc tế, các chủ thể quan hệ chính trị quốc tế là các
cơ cấu, tổ chức có tư cách pháp lý quốc tế thực hiện các hoạt động chính trị
trên phạm vi thế giới một cách độc lập, có mục tiêu, trách nhiệm và quyền
hạn xác định và có vai trò nhất định đối với đời sống chính trị quốc tế. Cùng
với sự vận động và phát triển của chính trị quốc tế, chủ thể quan hệ chính trị
quốc tế được hình thành và phát triển ngày càng đa dạng. Trong nền chính trị
quốc tế hiện đại, các chủ thể quan hệ chính trị quốc tế cơ bản là:


9


Các quốc gia có chủ quyền: là chủ thể chính trị cao nhất có khả năng
trách nhiệm trực tiếp thể hiện và khẳng định nghĩa vụ và quyền lợi cơ bản (lợi
ích quốc gia) trong hệ thống quan hệ chính trị quốc tế; đồng thời, được cộng
đồng quốc tế và luật pháp quốc tế thừa nhận, bảo vệ. Đại diện cho quốc gia là
nhà nước của quốc gia đó. Các quốc gia - chủ thể chủ yếu của quan hệ chính
trị quốc tế tham gia đời sống chính trị quốc tế ngày càng nhiều hơn; cộng
đồng quốc tế mở rộng lên hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổ chức quốc tế
lớn là Liên Hợp Quốc đã tập hợp 193 nước tham gia, trở thành một chủ thể
quan trọng trong chính trị quốc tế.
Quốc gia có vai trò là chủ thể chủ yếu trong quan hệ chính trị quốc tế,
bởi vì quan hệ quốc tế chủ yếu là quan hệ giữa các quốc gia, ngoài quan hệ
giữa các tổ chức quốc tế và khu vực; mặt khác, mọi hoạt động quốc tế đều
xuất phát từ các hoạt động thực hiện lợi ích và nhu cầu của các quốc gia.
Những việc làm đó của mỗi quốc gia thể hiện rõ trong chính sách đối ngoại
của mình. Vai trò quốc gia được thể hiện ở mức độ nào, phụ thuộc vào khả
năng hoạch định và thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại; khả năng thực
hiện lợi ích và nhu cầu của quốc gia; khả năng tác động ra bên ngoài và phản
ứng với những biến động quốc tế của quốc gia.
Xét về tổng thể, chính sách đối ngoại - phương tiện mà mỗi quốc gia sử
dụng nhằm để hiện thực hóa những mục tiêu đối ngoại của mình, sẽ được xác
định tính chất của mỗi quốc gia trong giai đoạn lịch sử quan hệ quốc tế. Nói
cách khác, quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp, nếu không muốn nói là quyết
định đến tự do và mức độ phúc lợi cho mỗi cá nhân hay cho toàn thể xã hội
loài người. Vì thế, nó có khả năng huy động tốt nhất những khả năng của xã
hội loài người cũng như của môi trường thiên nhiên nhằm hiện thực hóa các
mục tiêu của con người. Đồng thời với đặc điểm và chủ quyền riêng biệt và

tối cao, quốc gia - dân tộc mới là đơn vị có thẩm quyền ra quyết sách cho bản
thân hoạt động đối nội và đối ngoại chứ không phải chủ thể phái sinh nào
10


khác. Dù cho quy luật vận động và phát triển của đời sống quốc tế có biến đổi
đến mức nào đi chăng nữa thì quốc gia - dân tộc luôn có vai trò tối quan trọng
trong sự duy trì sự tồn vong của xã hội và có vai trò chủ đạo trong nền chính
trị quốc tế đương đại.
Ngày nay, trong thế giới toàn cầu hóa, trên sân khấu chính trị quốc tế
không chỉ có các quốc gia - dân tộc độc diễn, mà còn có sự tham gia, tương
tác với nhiều “diễn viên” mới, đó là các chủ thể phi quốc gia, bao gồm tổ
chức liên chính phủ, phi chính phủ, các công ty xuyên quốc gia đầy quyền
lực, các phong trào chính trị - xã hội, các chủ thể mang danh nghĩa cá nhân…
Những chủ thể mới nổi này với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng, đa dạng
về chủng loại ngày càng tỏ rõ vai trò và sức ảnh hưởng của mình trong đời
sống chính trị quốc tế; làm cho đời sống quốc tế ngày càng phong phú, dân
chủ hơn và do đó cũng phức tạp hơn.
Quan hệ chính trị quốc tế diễn ra rất phức tạp, đan xen giữa các cấp độ
(toàn cầu, khu vực, nhóm nước…) giữa các phương thức (đấu tranh, cạnh
tranh, hợp tác, liên minh, liên kết…) giữa các vấn đề, các lĩnh vực khác nhau
(kinh tế, văn hóa, an ninh, môi trường)… Thực tiễn cho thấy, hợp tác và đấu
tranh là những xu thế phổ biến của quan hệ chính trị quốc tế trong mọi thời kỳ
lịch sử. Vì lợi ích, căn bản là lợi ích quốc gia, các chủ thể chính trị quốc tế
phải hợp tác với nhau cùng giải quyết các vấn đề lợi ích chung; đồng thời, vì
lợi ích của mình, có thể phát sinh mâu thuẫn, dẫn đến đấu tranh giữa các chủ
thể. Như vậy, hợp tác đồng thời tồn tại với đấu tranh là tất yếu, do sự phù hợp
hay bất đồng về lợi ích giữa các chủ thể không mang tính một chiều, thuần
nhất. Vì vậy ngày nay, bên cạnh quốc gia - chủ thể chính trong quan hệ chính
trị quốc tế thì với sự xuất hiện của các chủ thể mới đã làm cho đời sống chính

trị quốc tế ngày càng phong phú và phức tạp.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến quan hệ chính trị quốc tế

11


1.1.2.1. Nhân tố thời đại và toàn cầu hóa
a/ Tác động của nhân tố thời đại đến chính trị quốc tế
Giai đoạn hiện nay của thời đại, được tính từ đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX, chứa đựng nhiều bước vận động quanh co, phức tạp của lịch sử. Nhìn
từ nền tảng vật chất của xã hội loài người, giai đoạn hiện nay được đặc trưng
bằng sự hiện diện mạnh mẽ của nền sản xuất hậu công nghiệp, của nền kinh tế
tri thức, của công nghệ thông tin… Xét trên bình diện các xu hướng lớn của
đời sống quốc tế, giai đoạn hiện nay là giai đoạn của quá trình toàn cầu hóa,
quốc tế hóa và khu vực hóa. Từ góc độ chính trị quốc tế, giai đoạn hiện nay
của thời đại là giai đoạn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay gắt, phức
tạp. CNTB và chủ nghĩa đế quốc ráo riết chống phá phong trào cách mạng thế
giới nhằm tái lập sự thống trị toàn cầu của tư bản độc quyền quốc tế. Các
quốc gia - dân tộc trên thế giới đang triển khai cuộc đấu tranh chống đế quốc
với nội dung sinh động (chống tự do hóa TBCN, chống tư bản tài chính lũng
đoạn, chống độc quyền tư bản toàn cầu, chống toàn cầu hóa TBCN…) và với
hình thức phong phú. Phong trào cộng sản quốc tế đã có bước phục hồi, củng
cố; CNXH có thêm sinh lực mới thông qua cải cách, đổi mới; các đảng cộng
sản từng bước xác lập vai trò, vị trí chính trị ở các nước thuộc Liên Xô cũ,
Đông Âu, các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ở Á - Phi Mỹ Latinh.
Thời đại xuất hiện từ những điều kiện vật chất khách quan, trên cơ sở
mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên quy
mô toàn thế giới. Thời đại ngày nay, xuất hiện từ những điều kiện vật chất do
sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp tạo ra và trên cơ sở các mâu thuẫn
cơ bản tồn tại ngay trong xã hội tư bản trước hết là mâu thuẫn giữa tư sản và

lao động được biểu hiện ra về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân. Bởi vậy, những biến động lịch sử những năm qua không
hề làm thay đổi tính chất và nội dung của thời đại ngày nay. Đó vẫn là thời

12


đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới; là thời đại đấu
tranh cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH, gắn liền
với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra những cơ sở vật
chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên CNXH.
Thực tiễn sự vận động của lịch sử mười năm cuối thế kỷ XX và gần hai
thập kỷ đầu thế kỷ XXI cho thấy, CNXH hiện thực vẫn tiếp tục được xây
dựng ở một số nước, đặc biệt là tư tưởng XHCN vẫn đang là sự lựa chọn của
nhiều dân tộc trên con đường phát triển. Những mâu thuẫn của thời đại ngày
nay vẫn tiếp tục tồn tại, cho dù đã có những thay đổi trong từng mặt đối lập
cấu thành mâu thuẫn cũng như hình thức biểu hiện và mức độ gay gắt của nó.
Các mâu thuẫn đó là: mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB; mâu thuẫn giữa giai
cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; mâu thuẫn giữa các
nước đang phát triển và chậm phát triển với các nước tư bản phát triển trong
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, ổn định, phát triển đang có nguy cơ
ngày càng trở nên gay gắt hơn; mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc, giữa
các tập đoàn tư bản đế quốc với nhau.
Bên cạnh đó, ngày nay, cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB vẫn tiếp
tục dưới những hình thức mới, nội dung mới. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài và
phức tạp giữa hai kiểu chế độ chính trị khác nhau về bản chất, nhưng lại cùng
tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, cùng phải đối mặt với thức khó
khăn tồn tại với mỗi quốc gia riêng biêt và cùng giải quyết những thách thức
mang tính toàn cầu; do vậy cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ chính trị
quốc tế.

b/ Tác động của nhân tố toàn cầu hóa (TCH) đến chính trị quốc tế
Toàn cầu hóa là quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn
cầu và khu vực, làm tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, sự
tương tác và tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đó là quá trình phổ biến hóa các giá trị, hoạt động, mô hình kinh

13


tế, chính trị, văn hóa, xã hội... trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa ngày nay
chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực kinh tế; TCH kinh tế là một xu thế khách quan
đang vận động, biến đổi không ngừng. Quá trình vận động của TCH đã và
đang tạo ra những tác động cả tích cực lẫn tiêu cực đối với các quốc gia dân
tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Những tác động đó, một
mặt đưa lại những thời cơ thuận lợi, mặt khác lại đặt ra nhiều nguy cơ, thách
thức gay gắt đối với mỗi quốc gia cũng như đối với đời sống quan hệ quốc tế.
Các tác động của TCH vào đời sống chính trị quốc tế bao gồm: TCH
làm cho mọi mặt của đời sống xã hội được quốc tế hóa, các quốc gia ngày
càng ít khả năng đóng cửa, tự cung, tự cấp hoặc ngăn cản các thành phần
trong xã hội của mình phát triển các mối liên hệ với bên ngoài. Lợi ích các
quốc gia đan xen nhau làm cho hoạt động đối ngoại và phương thức quan hệ
quốc tế thay đổi mạnh mẽ theo hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Xu hướng
chung là các nước cố gắng bảo vệ quyền lợi của mình nhưng tránh gây đổ vỡ
hoặc xung đột, giảm đối đầu, tăng hợp tác - đối thoại, và sử dụng các công cụ
thuộc “sức mạnh mềm” bổ sung cho “sức mạnh cứng”… Đây là những đặc
điểm khác biệt so với những thời kỳ trước đây và góp phần làm quá trình tập
hợp lực lượng thêm đa dạng và bức tranh quan hệ chính trị thế giới ngày càng
đa màu sắc.
Ngày nay, TCH thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch lao động từ Đông sang
Tây. Mỹ và Tây Âu đã trở thành điểm đến của hàng triệu người di cư hàng

năm, trong đó phần lớn là từ các nước Hồi giáo Bắc Phi, Trung Đông và Nam
Á. Di cư và hội nhập chính trị, cùng với việc đối mặt với những người Hồi
giáo vẫn bảo thủ về giáo dục, quyền phụ nữ và các mối quan hệ giữa nhà
nước và tôn giáo rất có thể làm gia tăng sức mạnh của các tổ chức chính trị
cực đoạn và làm tan vỡ các liên minh chính trị cánh tả đã từng là công cụ
trong việc xây dựng và duy trì các phúc lợi ở châu Âu. Biến động địa - chính
trị thế giới trong bối cảnh TCH diễn ra nhanh chóng, phức tạp, yêu cầu dân
chủ hóa sinh hoạt quốc tế luôn trở nên cấp bách và đứng trước nhiều thách
14


thức lớn. Chính vì vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, toàn cầu hóa đã, đang
và sẽ tiếp tục chi phối mọi lĩnh lực của đời sống xã hội và tác động mạnh mẽ
đến quan hệ chính trị quốc tế đương đại.
1.1.2.2. Cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức
a/ Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (CMKH-CN)
đến chính trị quốc tế
CMKH-CN hiện đại là sự thay đổi căn bản trong bản thân các lĩnh vực
khoa học - công nghệ cũng như mối quan hệ và chức năng xã hội của chúng,
khiến cho cơ cấu và động thái phát triển của các lực lượng sản xuất cũng bị
thay đổi hoàn toàn. Trong đó, quan trọng nhất là việc nổi lên vai trò hàng đầu
của yếu tố con người trong hệ thống lực lượng sản xuất dựa trên việc vận
dụng đồng bộ các ngành công nghệ mới có hàm lượng khoa học công nghệ
cao như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học…
Cuộc CMKH-CN diễn ra mạnh mẽ, đạt được nhiều kỳ tích tác động đến
tất cả các lĩnh vực của đời sống mỗi quốc gia và quan hệ chính trị quốc tế
đương đại. Chẳng hạn những tiến bộ trong lĩnh vực giao thông, thông tin liên
lạc làm cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn, thu hẹp khoảng cách không
gian địa lý giữa các quốc gia cũng như các châu lục trên thế giới. Tất cả
những hình ảnh đầy ấn tượng của các sự kiện, quá trình diễn ra ở bất kỳ nơi

nào trên thế giới đã nhanh chóng được chuyển tải đến từng gia đình, làm thay
đổi thái độ của mỗi cá nhân con người đối với những thành viên khác trong
cộng đồng nhân loại, cũng như đối với các sự kiện, quá trình đó. Như vậy,
chúng ta có thể thấy CMKH-CN đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi
mặt của quan hệ chính trị quốc tế. Nó buộc các quốc gia thuộc hệ thống xã hội
khác nhau và cả cộng đồng thế giới phải thay đổi cơ chế quản lý, phải cải
cách hành chính, từ bỏ cơ chế, mô hình quản lý không thích hợp.
Thành tựu của khoa học - công nghệ đã làm thay đổi chính sách của các
nhà nước. Nhờ áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ mới, nhiều nước đã

15


vươn lên về kinh tế (hàng hóa có sức cạnh tranh cao, tự túc được lương thực),
tăng cường thực lực, tính độc lập tự chủ, giảm sự lệ thuộc vào bên ngoài. Với
sự xuất hiện của vũ khí hiện đại, tất cả các nước đều có thể là mục tiêu tấn
công, không còn nơi nào được coi là an toàn tuyệt đối. Điều đó dẫn đến sự
thay đổi trong chính sách đối ngoại theo hướng hòa hoãn, đối thoại, hợp tác
cùng phát triển, cùng tồn tại hòa bình
Cách mạng khoa học và công nghệ có ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ
chính trị quốc tế. Để tận dụng thành tựu khoa học cho phát triển kinh tế, quan
hệ giữa nhiều nước đã chuyển từ đối đầu quân sự sang đối thoại, tăng cường
quan hệ kinh tế, khoa học. Sự phát triển của năng lượng mới, vật liệu mới,
công nghệ sinh học.... đã khiến sản phẩm công nghệ giảm dần sự lệ thuộc vào
tài nguyên thiên nhiên. Địa vị của các quốc gia có ưu thế tài nguyên thiên
nhiên giảm sút so với trước. Các nước lạc hậu về khoa học - công nghệ sẽ suy
yếu về sức mạnh hiện nay, nước nào nắm được khoa học - công nghệ se phát
triển nhanh chóng, tăng cường được sức mạnh tổng hợp an ninh quốc gia
càng được đảm bảo. Bên cạnh đó, những thách thức đặt ra trong bối cảnh
CMKH-CN hiện đại đã làm cho sự phân hóa, phân cực khá sâu sắc trong trình

độ phát triển giữa các quốc gia, dân tộc. Các nước chậm phát triển và đang
phát triển luôn chịu nhiều thua thiệt hơn so với các nước phát triển trong lĩnh
vực này khiến cho chênh lệch khoảng phát triển Bắc - Nam chẳng những
không được khắc phục mà còn có xu hướng gia tăng.
b/ Tác động của kinh tế tri thức (KTTT) đến chính trị thế giới
Nền KTTT là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển
kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như
làm chủ và sáng tạo tri thức cho những nhu cầu của riêng mình. Ngày nay,
kinh tế tri thức tác động quan trọng đến quan hệ chính trị quốc tế đương đại.
Trước hết, KTTT thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa, làm cho nó trở
thành xu thế bao trùm của chính trị quốc tế đương đại. Với kinh tế tri thức

16


trong một thế giới toàn cầu hóa, vai trò của các chủ thể quan hệ chính trị quốc
tế có những biến động to lớn. Vai trò của chủ thể truyền thống là các quốc gia
suy giảm nhất định. Bên cạnh đó, vai trò của các chủ thể mới như các tổ chức
quốc tế, các định chế liên kết toàn cầu và khu vực, các công ty xuyên quốc gia
ngày càng nổi bật hơn.
Nắm chắc nhân tài, tri thức và có chiến lược phát triển quốc gia tương
ứng trở thành tiêu điểm cạnh trạnh của sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thế
kỷ XXI. Trong những năm tới, nhân tố mang tính quyết định của một chế độ
chính trị quốc gia có thể tồn tại và tiếp tục phát triển hay không phụ thuộc vào
việc quốc gia đó có thể sáng tạo, tiếp thu và quản lý bao nhiêu nhân tài và vốn
tri thức. Trong kinh tế tri thức, tri thức trở thành động lực chủ yếu tăng trưởng
kinh tế, sáng tạo tri thức trở thành hoạt động quan trọng nhất của các quốc
gia. Do vậy, ý thức được tầm quan trọng của kinh tế tri thức, mỗi quốc gia,
dân tộc đều cố gắng tiếp cận để tìm ra chiến lược phát triển kinh tế hợp lý,
thông qua đó khẳng định địa vị của mình trong thời đại khoa học - công nghệ

phát triển như vũ bão hiện nay.
Bên cạnh đó, xâm lược, bá quyền về văn hóa, tri thức tin học là mối đe
dọa lớn đối với trật tự thế giới ngày nay. Các nước tư bản phát triển lợi dụng ưu
thế của tin học gây trở ngại, hạn chế hoặc áp chế việc vận dụng tự do của các
nước khác, triển khai việc thâm nhập văn hóa tư tưởng, phát động chiến tranh
tâm lý và chớp lấy tin tức chiến lược của nước khác. Tính đa dạng của văn hóa,
việc lưu thông có trật tự và việc ứng dụng rộng rãi của tri thức tin học là cơ sở
tinh thần cho sự tồn tại phát triển của xã hội loài người. Chủ nghĩa đế quốc,
đứng đầu là Mỹ đang thực hiện âm mưu nhất thể hóa văn hóa đối với nhiều
quốc gia trên thế giới. Đây là một nguy cơ lớn, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tỉnh
táo và khéo léo để không bị chủ nghĩa đế quốc dùng các chiêu bài tri thức tin
học tiến hành xâm lấn, đồng hóa và xóa bỏ bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2.3. Địa - chính trị và khủng bố quốc tế.

17


a/ Tác động của địa - chính trị đến chính trị quốc tế
Địa - chính trị là những điều kiện, hoàn cảnh địa lý tác động, ảnh
hưởng tới chính trị và sự tác động của chính trị tới yếu tố đại lý. Trong chính
trị thế giới, đó là vấn đề không gian địa lý của các quốc gia, khu vực; xuất
phát từ nhân tố địa lý để khảo sát mối quan hệ chính trị quốc tế từ đó xác định
chiến lược an ninh và phát triển quốc gia. Hiện nay, địa - chính trị ngày càng
có vai trò quan trọng và tác động đến quan hệ chính trị quốc tế đương đại
Trước sự thay đổi mau lẹ của đời sống chính trị quốc tế, các nước đều
khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố địa - chính trị trong hoạch định
chiến lược phát triển quốc gia, trước hết là xây dựng chính sách đối ngoại phù
hợp, đặc biệt là với các nước có chung đường biên giới, các nước trong khu
vực. Xử lý tốt quan hệ láng giềng trở thành nội dung cốt lõi của chiến lược an
ninh quốc gia. Coi trọng nhân tố địa - chính trị để tìm ra các biện pháp quan

hệ thích hợp, xuất phát từ các yếu tố địa lý.
Ngày nay, vấn đề địa - chính trị là mối quan tâm hàng đầu, chi phối
chính sách đối ngoại của các cường quốc, nhất là những đế quốc có ý đồ
thống trị thế giới. Các nước đế quốc muốn kiểm soát thế giới, vì vậy họ thiết
lập một hệ thống đồng minh, đặt căn cứ quân sự ở mọi khu vực, khắp nơi trên
thế giới, đặc biệt ưu tiên những quốc gia có vị trí chiến lược nằm sát đối thủ
cạnh tranh. Có thể xác định trung tâm địa - chính trị và các vị trí chiến lược
then chốt mà các cường quốc thường cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau để giành
được vị thế tối ưu trong việc chi phối khu vực hoặc cả thế giới. Bên cạnh đó,
vấn đề không gian địa lý là yếu tố quan trọng trong liên kết khu vực, thúc đẩy
sự ra đời của các tổ chức khu vực. Trong những năm gần đây, do nhu cầu giữ
vững môi trường chính trị ổn định để phát triển kinh tế, trên thế giới đã xuất
hiện hàng loạt tổ chức khu vực.
Tóm lại, hệ thống địa - chính trị thế giới sau Chiến tranh lạnh có nhiều
thay đổi do tương quan so sánh lực lượng giữa các nhóm nước, giữa các khu

18


vực có những thay đổi mang tính phức tạp và đa dạng. Điều đó đòi hỏi mỗi
quốc gia, đặc biệt là các quốc gia được coi là có vị trí địa - chính trị phải nhận
thức và điều chỉnh để xác lập vị thế địa - chính trị của mình phù hợp với hệ
thống địa - chính trị thế giới hiện nay trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
b/ Tác động khủng bố quốc tế đến chính trị quốc tế
Khủng bố quốc tế là việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực một cách
có tính toán nhằm tạo ra sự sợ hãi để gây sức ép đối với chính phủ hoặc toàn
thể xã hội nhằm thực hiện các mục đích chính trị, tôn giáo, lý tưởng.
Sự kiện ngày 11-9-2001 xảy ra ở nước Mỹ là sự kiện sử dụng bạo lực
để khủng bố với quy mô lớn nhất, bất ngờ nhất, gây tổn thất nặng nền từ trước
đến nay. Sự kiện này ảnh hưởng quan trọng và sâu sắc đến chiến lược quốc tế,

sánh ngang với các sự kiện quan trọng trong thế kỷ XX. Trong bối cảnh quốc
hiện nay, khủng bố quốc tế đang tác động tới mọi lĩnh vực, mọi quốc gia và
quan hệ chính trị quốc tế đương đại.
Đầu tiên, khủng bố quốc tế đe dọa an ninh, hòa bình thế giới, hình
thành những mâu thuẫn mới trong quan hệ. Sau sự kiện 11-9 đã hình thành
những mâu thuẫn cơ bản mới đó là mâu thuẫn giữa khủng bố và chống khủng
bố. Mâu thuẫn giữa các thế lực khủng bố cực đoan với thế giới phương Tây
do Mỹ đứng đầu ngày càng quyết liệt. Thế lực khủng bố quốc tế trở thành mối
đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình thế giới và ổn định khu vực trong thế
kỷ XXI. Khủng bố và chống khủng bố quốc tế trở thành tiêu điểm của cuộc
đấu tranh chính trị, quân sự trên thế giới ở thế kỷ này. Việc phòng và chống
khủng bố quốc tế trở thành nhiệm vụ cấp bách của nhiều nước trên thế giới để
bảo vệ lợi ích quốc gia mình.
Sau sự kiện khủng bố 11-9-2001, quan hệ chính trị quốc tế thay đổi
mạnh mẽ. Các nước lớn vừa hợp tác, vừa kiềm chế lẫn nhau, an ninh quốc tế
thay đổi theo xu thế đa cực. Để đấu tranh có hiệu quả chống khủng bố quốc tế
đòi hỏi sự hợp tác rộng rãi, chặt chẽ và kiên trì giữa các quốc gia, giữa các lực

19


lượng chính trị với những hành động thiết thực, không lợi dụng và nhân danh
chống khủng bố để vụ lợi riêng hoặc can thiệp vào công việc nội bộ các quốc
gia có chủ quyền. Bên cạnh đó, khủng bố quốc tế làm thay đổi chính sách đối
nội và đối ngoại của các quốc gia. Hầu hết các nước đều tăng cường lực lượng
an ninh; đưa ra chính sách đối ngoại cứng rắn hơn. Việt Nam luôn có thái độ
rõ ràng và dứt khoát là phản đối mạnh mẽ, kích liệt lên án, kiên quyết đấu
tranh chống mọi hoạt động khủng bố, mọi hành vi phá hoại trật tự an ninh
quốc gia, mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền, can thiệp thô bạo vào công việc
nội bộ của các quốc gia.

1.2. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
TA THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đường lối đối
ngoại, hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới
Chủ trương hội nhập quốc tế, thực hành đường lối đối ngoại hòa bình,
hữu nghị với các quốc gia, dân tộc trên thế giới đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu ra khi thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa : Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán với ai. Trong quá
trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối mở
cửa kinh tế, chuyển nền kinh tế sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Có thể nói, chủ động và tích cực hội nhập là chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Chính vì vậy,
đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới được Đảng ta khởi xướng từ
năm 1986 và được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội.
Cách đây đúng 30 năm, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986), Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới và coi đổi mới là yêu
cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Và sau gần hai năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VI, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số
13/NQ-TW về “Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Về

20


xu thế quốc tế, Bộ Chính trị nhận định: xu thế đấu tranh và hợp tác trong cùng
tồn tại giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau ngày càng phát triển. Căn cứ
vào yêu cầu, nhiệm vụ trong nước và tình hình thế giới, Nghị quyết xác định
mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Việt Nam là giữ vững hòa bình và
phát triển kinh tế; đồng thời nêu rõ quyết tâm chủ động chuyển cuộc đấu
tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa

bình; kiên quyết mở rộng quan hệ và đa dạng hóa quan hệ hợp tác quốc tế
cùng với việc xác định mục tiêu và các chủ trương lớn về đối ngoại trong tình
hình mới, Bộ Chính trị đề ra các chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể
phù hợp với xu thế quan hệ chính trị quốc tế đương đại.
Thực tế cho thấy, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thể hiện sự đổi mới
tư duy của Đảng về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại như:
quan hệ chính trị quốc tế; mục tiêu đối ngoại; an ninh và phát triển; đoàn kết
quốc tế và tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết
13 đánh dấu sự chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của nước ra trong
tình hình mới - là cơ sở hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở
rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Đến Đại hội lần thứ VII, xuất phát từ nhận thức trong đời sống chính trị
- kinh tế quốc tế, quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, bên cạnh lợi ích mang
tính giai cấp, mang tính ý thức hệ còn có những lợi ích mang tính phổ biến,
tính toàn cầu, do đó sự phối hợp, hợp tác giữa các nước để giải quyết vấn đề
quốc tế là một nhu cầu khách quan. Vì vậy, tư duy xác định “bạn, thù” trên cơ
sở tiêu chí ý thức hệ đơn thuần của thời kỳ chiến tranh lạnh không còn phù
hợp nữa, mà phải mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn. Từ đó, Đại hội VII khẳng định
mạnh mẽ chủ trương “hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình”, với phương châm: “Việt Nam muốn là bạn với các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(1).
(1)

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H.,1991, tr.147.

21


Đại hội đề ra yêu cầu đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với mọi quốc gia,

mọi tổ chức kinh tế; gia nhập các tổ chức quốc tế và các hiệp hội kinh tế khác
khi cần thiết và có điều kiện.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996), khẳng định quan điểm: “Tiếp tục
thực hiện đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần
Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(2); đồng thời đề ra một số chủ trương
đối ngoại mới như: coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm
kinh tế - chính trị thế gới; thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước
ngoài. Như vậy, từ những chuyển biến tư duy đối ngoại của Đảng ở Đại hội
VI, đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, đã hình thành đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Đến đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến thuận lợi, môi
trường hòa bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế
giới tạo điều kiện để nước ta tiếp tục phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực
bên ngoài. Ở trong nước, thế và lực đã lớn mạnh lên nhiều, cơ sở vật chất của
nền kinh tế được tăng cường. Đó là cơ sở để Đại hội Đảng lần thứ IX
(4/2001) đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” (1);
thúc đẩy hoạt động ở các diễn đàn đa phương; tích cực tham gia giải quyết
các vấn đế toàn cầu. Đặc biệt, Đảng đề ra chủ trương đưa quan hệ quốc tế
thiết lập đi vào chiều sâu với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”(2). Đây là lần đầu tiên chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được
đề ra trong đường lối đối ngoại của Đảng. Sự ra đời của chủ trương xây dựng
quan hệ đối tác là một mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong tư
duy và thực tiễn quan hệ quốc tế của Việt Nam.

(2)

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.,1996, tr.41.
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H., 2001, tr.120

(2)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H., 2001, tr.119
(1)

22


Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006) đã điều chỉnh, bổ sung một số nội
dung trong chủ trương đối ngoại của Đại hội IX như: khẳng định việc thực
hiện đường lối, đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; thực
hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế; nhấn mạnh yêu cầu chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hơp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác; đưa các quan hệ
quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Với phương châm:
“Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(3).
Đến Đại hội XI (01/2011), đường lối đối ngoại đã phát triển lên tầm
cao mới: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(1). Việc thiết lập
khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam với các
đối tác hiện nay đã tuân thủ những nguyên tắc đối ngoại bất di bất dịch này
nhằm đẩy mạnh chủ trương hợp tác vì phát triển, vì hòa bình của Việt Nam
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (01/2016) - Đại hội tổng kết
sâu sắc lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã định ra đường lối
mới, kế thừa những nội dung cơ bản của đường lối đối ngoại được thông qua
tại các kỳ đại hội trước, đặc biệt là Đại hội XII; và có những bổ sung, phát
triển mới. Với tư duy đối ngoại đổi mới, rộng mở, đa phương: “Việt Nam

muốn là bạn”, rồi “sẵn sàng làm bạn” và sau cùng là khẳng định: “Việt Nam
là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế”(2). Như vậy, đường lối đối ngoại của Đảng được hoàn chỉnh, bổ sung qua
(3)

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H., 2006, tr.112
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H., 2011, tr.83-84
(2)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H., 2016, tr.153
(1)

23


các kỳ Đại hội thể hiện chủ trương nhất quán mong muốn hợp tác hòa bình
với tất cả các quốc gia trên thế giới của Việt Nam.
Trong 30 năm thực hiện đổi mới toàn diện, trước sự chuyển biến của
tình hình quốc tế, xu thế quốc tế và yêu cầu của nhiệm vụ trong nước đòi hỏi
Đảng ta phải đổi mới tư duy và cách tiếp cận mới trong lĩnh vực đối ngoại, cụ
thể là Việt Nam phải chủ động, tích cực hơn để xây dựng một môi trường
quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định, có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, thực lực vững mạnh hơn và vị thế được nâng cao hơn là những điều
kiện đủ để Việt Nam thực hiện một chính sách đối ngoại “dấn thân” hơn, đảm
nhận một số vai trò quốc tế lớn hơn. Lợi ích quốc gia lâu dài đòi hỏi Việt
Nam chú ý hơn nữa đến trách nhiệm quốc gia, để không chỉ là một “người
bạn, một đối tác tin cậy” của các quốc gia khác mà còn phải là “một thành
viên có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế.
1.2.2. Những thành tựu trong quá trình triển khai đường lối đối ngoại
Những đổi mới trong nhận thức và tư duy đối ngoại nêu trên là cơ sở
vững chắc để Đảng ta xây dựng và tổ chức triển khai một chính sách đối

ngoại hiệu quả. Vì thế, trong 30 năm đổi mới, chúng ta đã thu được những
thành tựu to lớn trong đối ngoại.
Thứ nhất, chúng ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ
quyền quốc gia; phá được thế bao vây, cấm vận, tạo lập và giữ vững môi trường
hòa bình, thuận lợi cho phát triển đất nước; mở cửa và hội nhập thành công vào
khu vực và thế giới; có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn và hầu hết
các nước trên thế giới; trở thành thành viên ASEAN và gia nhập hầu hết các tổ
chức quốc tế quan trọng; lần đầu tiên đảm nhiệm thành công vai trò ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009; củng
cố được vị trí của nước ta trong chính sách khu vực của các đối tác. Nâng cao
hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp ngày càng tích

24


cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và thế giới, phát huy vai trò
tích cực trong cộng đồng ASEAN. Cùng với việc tăng cường ngoại giao nhà
nước, quan hệ đối ngoại đảng và ngoại giao nhân dân được mở rộng, đã nâng
cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa phương.
Thứ hai, chúng ta đã củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng
giềng; giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ đoàn
kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được phát triển, ngày
càng đi vào chiều sâu, đặc biệt là quan hệ hợp tác kinh tế; thương mại và đầu
tư. Quan hệ Việt Nam - Campuchia cũng không ngừng được củng cố và phát
triển về mọi mặt. Quan hệ với Trung Quốc có nhiều bước phát triển kể từ khi
bình thường hóa; Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của ta; đã
phân giới cắm mốc xong trên thực địa toàn biên giới; đã phê chuẩn Hiệp định
phân định và Hiệp định hợp tác nghề các ở Vịnh Bắc Bộ; đã thiết lập quan hệ
hợp tác chiến lược toàn diện. Trong bối cảnh Trung Quốc đơn phương gây ra
căng thẳng, phức tạp mới trên Biển Đông chúng ta đã kiên trì bảo vệ chủ

quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình; đồng thời giương cao
ngọn cờ hòa bình và công lý, chủ trương giải quyết tranh chấp thông qua các
biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển 1982; kiên trì tôn trọng thỏa thuận giữa ASEAN và
Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nỗ lực cùng các
nước liên quan xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông
(COC) thực sự có hiệu lực trong việc quản lý tranh chấp và ngăn ngừa xung
đột ở Biển Đông; và kiên trì xây dựng các thỏa thuận song phương giữa Việt
Nam và Trung Quốc để quản lý và giải quyết các tranh chấp trên biển. Đặc
biệt, khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng
đặc quyền kinh tế và thêm lục địa của nước ta, chúng ta đã kiên quyết bảo vệ
chủ quyền biển, đảo, đi đôi với nỗ lực tối đa và kiên trì sử dụng các biện pháp
ngoại giao và tuyên truyền đối ngoại, đấu tranh với Trung Quốc, nhằm giữ

25


×