Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

2016-6 - Tiểu luận - Triểt học - Thực trạng và giải pháp văn hóa kinh doanh cho sự phát triển bền vứng tại yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.78 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Cơ sở lý luận của văn hóa kinh doanh và phát triển bền vững
1. Khái niệm văn hóa, kinh doanh
1.1 Khái niệm văn hố
1.2 Khái niệm kinh doanh
1.3 Khái niệm văn hoá trong kinh doanh
2. Khái niệm phát triển bền vững
3. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế
Chương II: Thực trạng văn hóa kinh doanh trong phát triển bền vững ở
Yên Bái hiện nay
1. Sự hình thành và phát triển của văn hóa kinh doanh Việt Nam
1.1 Văn hóa kinh doanh cổ truyền Việt Nam
1.2 Văn hóa kinh doanh Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
1.3 Văn hóa kinh doanh Việt Nam thời kỳ đổi mới
2. Sự hình thành và phát triển của văn hóa kinh doanh tại Yên Bái
2.1 Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp, thiếu sáng tạo
2.2 Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn
2.3 Liên kết cộng đồng giữa các doanh nghiệp
2.4 Nặng về quan hệ, dựa dẫm
2.5 Xem nhẹ chữ tín
Chương III: Giải pháp cho văn hóa kinh doanh trong phát triển bền vững ở
Yên Bái
1. Tư duy kinh doanh và cung cách làm việc
2. Quan điểm hoạt động kinh doanh
3. Xây dựng văn hoá kinh doanh và đội ngũ doanh nhân
4. Nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hoá kinh doanh
Kết luận
Tài liệu tham khảo

2


3
3
3
4
5
6
6
8
8
8
8
10
10
10
11
11
12
13
13
13
14
15
16
18
19


LỜI MỞ ĐẦU

Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện

tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau; là
nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người,
và đối với mỗi một địa phương việc phát triển bền vững là một yếu tố hết sức quan
trọng, mỗi một địa phương phát triển bền vững góp phần khơng nhỏ đến sự phát
triển bền vững của cả một khu vực hay một quốc gia.
Văn hoá vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và góp phần
khơng nhỏ cho sự phát triển bền vững, văn hố ngày càng đóng góp vai trị điều tiết
tinh thần, góp phần đắc lực vào việc khai thác những nhân tố tích cực hạn chế nhân
tố tiêu cực của mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong xã hội, đồng thời yếu tố văn
hoá trong kinh doanh chính là hoạt động đem cái đẹp, tiện nghi, hiện đại tới mọi
người, mọi nhà, từ đó tạo thuận tiện cho việc bán hàng hóa sản phẩm, góp phần
tăng doanh thu và sự phát triển của chính các sản phẩm hàng hóa đó.
Qua q trình học tập và rèn luyện môn học Triết học, được sự hướng dẫn
của ThS. Ngô Thị Tân Hương, em xin mạnh dạn trình bày Tiểu luận môn học với
đề tài “Thực trạng và giải pháp cho xây dựng văn hóa kinh doanh đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững Yên Bái hiện nay”.
Do thời gian còn hạn hẹp và sự hiểu biết các vấn đề chưa sâu sắc, phạm trù
văn hoá kinh doanh là rộng lớn có nhiều mối quan hệ tác động qua lại hết sức đa
dạng và phức tạp đòi hỏi phải được tiếp tục đi sâu nghiên cứu, chắc chắn bài viết
còn có rất nhiều thiếu sót, hạn chế nhất định. Bởi vậy em mong được sự quan tâm
giúp đỡ, hướng dẫn, bổ sung của cơ giáo để có thể sửa chữa, khắc phục những mặt
kiến thức cịn yếu của mình và để bài viết có thể hồn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
2


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VĂN HOÁ KINH DOANH
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1. Khái niệm văn hóa, kinh doanh.

Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh là một mối quan hệ bổ sung cho
nhau và tác động lẫn nhau nhưng nó lại dường như tách bạch nhau, khơng liên
quan đến nhau, làm thế nào để sử dụng mối quan hệ đó, đưa văn hố vào kinh
doanh, sử dụng những đặc trưng của nền văn hoá vào kinh doanh để đạt tốc độ
tăng trưởng cao và hiệu quả là những vấn đề đang đặt ra. Những vấn đề đó đã thoát
ra khỏi lĩnh vực xã hội đơn thuần mà cịn trở thành mối quan tâm của chính khách,
các nhà quản lý và các nhà kinh doanh.
1.1 Khái niệm văn hố.
Cho tới nay, đã có rất nhiều định nghĩa về văn hố đó là một con số rất lớn và
khơng xác định như vậy nói lên sự phong phú của khái niệm văn hoá.
Từ thế kỷ XIX (năm 1871) Edward Burrwett Tylor đã đưa ra một định nghĩa
cổ điển, theo đó văn hố bao gồm mọi năng lực và thói quen, tập quán của con
người với tư cách là thành viên của xã hội. Với định nghĩa đó, văn hố bao gồm
ngơn ngữ, tư tưởng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, nghi thức, qui tắc, thể chế,
chuẩn mực, công cụ, kỹ thuật, cơng trình nghệ thuật (hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc)
và những yếu tố khác có liên quan đến con người.
Theo triết học Mác – Lênin: Văn hoá là tổng hoà những giá trị vật chất và tinh
thần cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự
tiến bộ của lồi người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Hình thức khởi đầu và nguồn gốc đầu tiên làm hình thành và phát triển văn

3


hoá là lao động của con người, phương thức hiện lao động và kết quả của lao động
và kết quả lao động.
Như vậy, mọi định nghĩa văn hoá đều chứa một nét chung là “con người” đều
thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hoá với con người. Văn
hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người là chủ thể sáng
tạo ra văn hố. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người

ln sáng tạo khơng ngừng để làm nên giá trị văn hoá. Một trong số những giá trị
văn hoá được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người – con người có
văn hố. Con người sáng tạo ra văn hố, đồng thời chính con người cũng là sản
phẩm của văn hố.
1.2 Khái niệm kinh doanh.
Giải thích nghĩa của từ “kinh doanh” trong một số từ điểm do các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ Việt Nam biên soạn cơ chế là giống nhau.
Theo đại từ điển Tiếng Việt, thì kinh doanh có nghĩa là “tổ chức bn bán để
thu lỗ lãi” và có từ điển từ và ngữ Việt Nam thì kinh doanh là “tổ chức hoạt động
về mặt kinh tế để sinh lời”.
Lãi hay lỗ ở đây được hiểu là: khi người ta bỏ vốn để bn bán hoạt động
kinh tế thì giá trị thu về phải cao hơn số vốn ban đầu cùng với việc bảo đảm thực
hiện các trách nhiệm khác theo pháp luật.
Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã
hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là ở chỗ kinh doanh như thế
nào, nó đem lại lợi ích và giá trị cho ai? đó chính là vấn đề của văn hoá trong
kinh doanh.
Như vậy, kinh doanh có thể hiểu như luật doanh nghiệp, xem đó là việc thực
hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.

4


1.3 Khái niệm văn hoá trong kinh doanh.
Từ hai khái niệm văn hoá và kinh doanh ta đi đến khái niệm văn hố kinh
doanh là gì?
Văn hố trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động
kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá
trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ.

Việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh sẽ đem lạij cho
kinh doanh và chủ thể kinh doanh một sử mạng cao cả. Đó là sứ mệnh phát triển
con người, đem lại sự giàu có, hạnh phúc cho mọi người, sự phồn vinh và vững
mạnh của đất nước, sự vẻ vang của dân tộc. Nhận thức được sứ mệnh ấy con người
sẽ hay say lao động, khơng ngại khó khăn gian khổ, thậm chí hy sinh cả lợi ích
riêng của mình đóng góp vào lợi ích chung vì xã hội. Do đó, văn hố trong kinh
doanh là bộ phận cấu thành của nền văn hố dân tộc, phản ánh trình độ của con
người trong lĩnh vực kinh doanh. Bản chất của văn hố trong kinh doanh đó là làm
cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng cái tốt, cái đẹp. Cái lợi đó tuân theo cái đúng,
cái tốt, cái đẹp. Ngược lại cái đúng, cái tốt, cái đẹp là cơ sở bền vững cho hoạt
động sinh ra cái lợi. Văn hoá kinh doanh cuả các nhà kinh doanh, của doanh
nghiệp được nhận biết qua hai phương diện chính.
Một là: các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, triết lý sống, tâm lý) được vận dụng
vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hoá về dịch vụ phù hợp với
nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hố. Đó chính là kiểu kinh doanh có văn
hố, kiểu kinh doanh phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân tộc.
Hai là: cái giá trị, sản phẩm văn hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ
thuật kinhdoanh...mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động và làm
nghề kinh doanh của họ, có tác dụng cổ vũ biểu dương đối với kiểu kinh doanh có
văn hố mà họ đang theo đuổi. Đó chính là lối sống có văn hố của các chủ thể
kinh doanh.
5


Đề cao cái lợi của hoạt động kinh doanh gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái đẹp,
nhằm thoả mãn có chất lượng nhu cầu và thị hiếu của đời sống xã hội, mỗi xã hội
cần định hình ra thành các truyền thống văn hoá kinh doanh trong nền văn hoá
chung của dân tộc.
2. Khái niệm phát triển bền vững.
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống

xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả quá
trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ mơi
trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội.
Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển
của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ơ đơ Gia-nê-rơ đề ra Chương trình nghị sự
tồn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự
phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả
năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển
bền vững được xác định là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh
tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt
xã hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người
(HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu
người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa,
văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được
sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục
tiêu thiên niên kỷ.
3. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế.
Văn hóa và kinh tế có tác động qua lại với nhau, khi nền văn hóa bị xuống cấp
và suy thối thì về mặt kinh tế khơng thể phát triển, văn hóa bao giờ cũng là động
6


lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế; Mặt khác, kinh tế phát triển tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển văn hóa của cộng đồng. Lịch sử thế giới cũng như nước
Việt Nam đó chứng minh nguyên lý đó; Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra, trong quá
trình phát triển của nhân loại, một số nước lãnh thổ đó từng có nền văn hóa cao,
được xem là cái nơi của nền văn minh nhân loại, thì ngày nay các nước đó khơng
phải là những nước có nền kinh tế phát triển, thậm chí chỉ là những nước đang phát

triển.
Ví dụ, sơng Hồng Hà của Trung Quốc đã hình thành đời sống đơ thị khoảng
3000 năm trước cơng nguyên, khu vực Lưỡng Hà có một nền văn hóa liên tục hơn
3000 năm trước cơng ngun… Người ta tìm thấy những dấu ấn và đặc trung văn
hóa của các quốc gia đó trong phát triển kinh tế. Thực thế đó bắt buộc người ta
khơng chỉ thừa nhận sự tác động của các yếu tố văn hóa vào q trình phát triển
kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trị của văn hóa cũng như tầm quan trọng của
việc đưa các yếu đố văn hóa vào hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, mối quan hệ giữa văn hố và kinh tế có thể hiểu:
- Văn hố và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh tế phải
đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của con người, sau đó mới đảm bảo điều kiện
cho văn hố phát triển kinh tế khơng thể phát triển nếu khơng có một nền tảng văn
hố, đồng thời văn hố khơng chỉ phản ánh kinh tế mà cịn là nhân tố tác động đến
phát triển kinh tế. Với mối quan hệ đó, sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
chỉ có thể năng động hiệu quả, có tốc độ cao chừng nào quốc gia đó đạt được sự
phát triển kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hố.
- Văn hố mang tính đặc thù của từng quốc gia, từng khu vực được coi là
những di sản quý báu bán tích lũy được qua nhiều thế hệ, mang đậm bản sắc dân
tộc. Nhưng đồng thời với quá trình phát triển, kế thừa và giữa gìn bản sắc riêng, nó
cịn tiếp thu những tinh hoa văn hố của quốc gia, dân tộc khác, làm cho văn hoá
đậm đà bản sắc dân tộc vừa có tính hiện đại phù hợp với sự phát triển kinh tế trong
7


điều kiện cách khoa học - kỹ thuật, làm cho vai trị của văn hố trong hoạt động
kinh tế càng được nâng cao và thiết thực khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con
người, đem lại sự phát triển cao với tốc độ cao và hài hoà trong hoạt động sản xuất
- kinh doanh.

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VĂN HÓA KINH DOANH TRONG PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở YÊN BÁI HIỆN NAY

1. Sự hình thành và phát triển của văn hóa kinh doanh Việt Nam.
1.1 Văn hóa kinh doanh cổ truyền Việt Nam.
Trong suốt lịch sử phát triển của nước ta, hoạt động kinh tế phổ biến là sản
xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp. Trong thời kỳ phong kiến, tư tưởng "trọng nơng
ức thương" rất phổ biến, chính vì vậy mà rất ít người giỏi về kinh doanh
1.2 Văn hóa kinh doanh Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.
Dưới thời Pháp thuộc: sự giao lưu với văn hoá Pháp đã để lại một dấu ấn sâu
đậm cho văn hóa kinh doanh Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, kinh
doanh trở thành một ngành độc lập, không phụ thuộc vào nông nghiệp, các ngành
sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đều phát triển hơn thời kỳ trước. Sự
thành công bước đầu của một số nhà kinh doanh người Việt, cùng với việc tiếp thu
những tư tưởng mới, đã cải thiện đáng kể hình ảnh doanh nhân và nghề kinh doanh
trong con mắt người Việt. Thời kỳ này đã xuất hiện một tầng lớp tư sản dân tộc,
giành lại được độc quyền thương mại từ tay tư sản nước ngoài và bắt đầu gây dựng

8


lòng tự hào được làm nhà kinh doanh; Thương mại và ngoại thương đều phát triển
nhanh chóng.
Giai đoạn 1954-1986: trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam bị phân chia
thành hai miền: miền Bắc được giải phóng khỏi ách đơ hộ của thực dân Pháp, tiến
lên xây dựng CNXH, còn miền Nam bị chiếm đóng, thay đổi theo chế độ thực dân
mới của Mỹ. Do sự khác biệt này mà văn hóa kinh doanh ở miền Bắc và miền Nam
cũng phát triển theo những chiều hướng khác nhau. Văn hóa kinh doanh miền Bắc
mang đặc tính của văn hóa kinh doanh XHCN, coi trọng công bằng xã hội nhưng
không coi trọng hiệu quả, tiêm nhiễm bệnh chủ quan, duy ý chí, cơ chế quản lý

cồng kềnh, mang nặng tính quan liêu, coi rẻ kinh doanh và thương nhân… ở miền
Nam, qua giao lưu với văn hố Mỹ, văn hóa kinh doanh nơi đây tiếp thu được một
số kiến thức, yếu tố cần thiết cho kinh tế thị trường như cơ sở hạ tầng, công nghệ,
kiến thức kinh doanh hiện đại, tác phong làm việc công nghiệp… nhưng cũng tiêm
nhiễm tâm lý vọng ngoại khá nặng nề, nhất là tơn sùng những gì của Mỹ, cùng một
số thói xấu khác như chủ nghĩa thực dụng, lối sống gấp, thích hưởng thụ, xa rời
bản sắc dân tộc…
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, hai miền Nam, Bắc cùng bước vào con
đường xây dựng CNXH, hai nền văn hóa kinh doanh dần hồ hợp với nhau, trở
thành một nền văn hóa kinh doanh thống nhất trong toàn quốc nhưng vẫn bảo tồn
một số khác biệt giữa hai miền. Nền văn hóa kinh doanh này tuy có bổ sung cho
văn hóa kinh doanh cổ truyền một số ưu điểm như: coi trọng công bằng xã hội,
nâng cao vị thế cho phụ nữ, có tinh thần vượt khó vươn lên… nhưng lại làm tăng
lên một số yếu tố tiêu cực cho kinh doanh như: tâm lý coi rẻ nghề bn nói chung
và kinh doanh nói riêng, tính chủ quan duy ý chí, cơ chế tổ chức quan liêu, thiếu
hiệu quả, tính cứng nhắc, kém năng động với thị trường… Đây là một trở ngại khá
nặng nề cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các nhà kinh doanh Việt Nam nói
riêng khi bước vào cơ chế thị trường.
9


1.3 Văn hóa kinh doanh Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Thời kỳ đổi mới đã mang lại một luồng sinh khí mới cho hoạt động kinh
doanh và đã làm thay đổi cơ bản văn hóa kinh doanh Việt Nam, ảnh hưởng của
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đến văn hóa kinh doanh Việt Nam.
2. Sự hình thành và phát triển của văn hóa kinh doanh tại Yên Bái.
Cùng hòa nhịp với sự phát triển của đất nước qua các thời kỳ, thì sự hình
thành và phát triển của văn hóa kinh doanh tại tỉnh Yên Bái cũng đồng hành cùng
phát triển văn hóa kinh doanh của đất nước; Bên cạnh đó doYên Bái thuộc khu vực
miền núi Bắc bộ nằm sâu trong lục địa, địa hình Yên Bái tương đối phức tạp, là

một phần tiếp giáp giữa vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc, đồng thời là vùng chuyển
tiếp từ địa hình vùng trung du Phú Thọ lên vùng cao Lào Cai.
Địa hình Yên Bái cịn nằm trên hai vùng có lịch sử phát triển địa chất khác
biệt hình thành nên các dạng địa hình khác nhau, cao dần từ Đông sang Tây và từ
Nam lên Bắc, điểm thấp nhất ở xã Minh Quân với độ cao khoảng 20m, cịn cao
nhất là đỉnh Pú Lng là 2.985m so với mực nước biển, trên 70% diện tích tự
nhiên của n Bái là địa hình núi cao và cao nguyên, nên đối với tỉnh Yên Bái việc
phát triển các ngành nghề chủ yếu tập trung trong ngành nông lâm nghiệp, chưa
phát triển được ngành tiểu thủ công nghiệp và cơng nghiệp. Do đó văn hóa kinh
doanh tại tỉnh Yên Bái còn một số thực trạng như sau:
2.1 Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp, thiếu sáng tạo1
Các doanh nghiệp ở Yên Bái vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương trường
do cung cách làm ăn mạnh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục
diện chung.Việc liên kết để đáp ứng các đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong
những bước đầu, dành riêng hợp đồng cho mình để dẫn đến tình trạng đối phó lẫn
nhau và sẵn sàng dành dật quyền lợi riêng cho cơng ty mình mà ko nghĩ đến cái lợi
chung. Nhiều doanh nghiệp khơng có khả năng tự sản xuất và kinh doanh ở qui mô
lớn cho cùng loại sản phẩm đế đáp ưng nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp lớn ở
10


Yên Bái chỉ tập trung một số các công ty như: Sứ Hoàng Liên Sơn, Xi măng Yên
Bái và Xi măng VINACONEX Yên Bái. Chỉ một số các công ty làm ăn kinh doanh
lớn là lằm ăn có uy tín còn một số các doanh nghiệp nhỏ, và các tiểu thương thực
hiện theo cách làm “Hổng chỗ nào thay vào chỗ đấy”, cẩu thả trong việc ký kết
hợp đồng… đang tồn tại và hồn tồn khơng phù hợp với mơi trường kinh doanh
văn minh hiện đại.
Trong việc kinh doanh, người kinh doanh khơng chú trọng đến việc đổi mới
hình thức mà vẫn duy trì thói quen, cung cách làm ăn lạc hậu, thủ cơng và tủy tiện
vẫn đang cịn tồn tại, phong cách làm việc thiếu chuyên nghiệp, sáng tạo, nhất

trong việc kinh doanh ít người nói thẳng, nói trực diện vào các vấn đề mình quan
tâm, với tâm trí làm ăn theo kiểu chộp dật, thời cơ, thiếu đầu tư dài hạn. Do vậy
với cách suy nghĩ và hành sử như trên, người kinh doanh họ ln tìm các để lách
luật, làm việc phi pháp, trốn lậu thuế để đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu mà
không đặt việc phát triển bền vững lâu dài của doanh nghiệp.
2.2 Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn.
Một hạn chế lớn khác đã bộc lộ trong văn hóa kinh doanh của tỉnh Yên Bái
đó là sự hạn chế về tầm nhìn chiến lược, cũng như khát vọng của chính các cá
nhân, doanh nghiệp ở Yên Bái. Điều đó cũng do chính từ ý thức người kinh doanh
tại địa phương, và xuất phát điểm từ nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là nơng nghiệp,
nên tầm nhìm chiến lược cịn thấp, ngắn hạn, chọn con đường đi tắt đón đầu nhưng
lại không nắm được bản chất của việc kinh doanh, việc kinh doanh thường không
đạt yêu cầu cho việc phát triển.
2.3 Liên kết cộng đồng giữa các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp kinh doanh tại địa bàn Yên Bái là các doanh nghiệp vửa
và nhỏ, nguồn vốn kinh doanh các doanh nghiệp còn thấp, dẫn đến năng lực cạnh
tranh chưa cao, nên rất cần sự liên kết và đoàn kết trong kinh doanh. Nhưng sự liên
kết, hợp tác giữa chính nội tại các doanh nghiệp trên địa bàn Yên Bái còn thấp và
11


rất nhỏ lẻ, mà thay vào đó thì các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cịn cạnh tranh
khơng lành mạnh với nhau, thậm chí cịn tìm cách phá việc làm ăn của các doanh
nghiệp khác. Kết quả của việc cạnh tranh khơng lành mành là làm yếu đi tính cạnh
tranh trên thị trường mua bán của Yên Bái, niềm tin và uy tín của các doanh nghiệp
bị giảm sút, dẫn đền nền kinh tế địa phương phát triển manh mún.
Trên thực tế vấn đề liên kết doanh nghiệp được đặt ra nhiều lần, tuy nhiên
cùng có sự quan tâm của các cấp, các ngành chuyên vào cuộc, nhưng không làm
thay đổi được thói quen cố hữu của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn Yên Bái là “
mạnh ai nấy làm”. Xét về khía cạnh liên kết hợp tác trong quá tŕnh hoạt động kinh

doanh để cùng phát triển theo nguyên tắc cùng có lợi, tính cộng đồng của doanh
nhân ở Yên Bái còn yếu kém và quá rời rạc, ở mức thấp, bên cạnh đó thơng tin của
doanh nghiệp thiếu độ tin cậy, ảnh hưởng đến việc liên kết ngang, qui định của nhà
nước cho hoạt động liên kết chưa đầy đủ…
2.4 Nặng về quan hệ, dựa dẫm.
Các doanh nghiệp chính nội tại của tỉnh n Bái cịn đặc tính coi trọng quan
hệ cá nhân, xu hướng, cá nhân hóa được các mối quan hệ kinh doanh, dựa vào sự
bảo hộ của nhà nước vẫn tồn tại khá phổ biến, như tập chung vào một hoặc một
số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa người kinh
doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc mua với người có thẩm quyền quyết định
của bên đối tác mua hoặc bán. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân thành công nhờ vào
mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào năng lực, và xu hướng dựa vào quan hệ rộng
như là một chủ bài, mạnh hơn cả năng lực và xu hướng nhờ vả, chạy trọt hiện
đang tồn tại ở mức đáng kể.
Lợi ích quá nhiều từ quan hệ cá nhân, dùng quan hệ để trúng thầu bất chính
thậm chí đó là những hiện tượng đang gây bức xúc trong toàn xă hội, cái lợi mà
việc thân quen đem lại là một cám dỗ lớn hơn rất nhiều so với cái cực nhọc phải
đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đa phần các nhà kinh
12


doanh của chúng ta dường như hiển nhiên công nhận mối quan hệ này tốt hay xấu
có tính chất quyết định tới sự thành bại. Cám dỗ về đặc quyền, đặc lợi đang là lực
cản rất lớn trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng và làm trong sạch
bộ máy công quyền và ngăn cản sự phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung
và của tỉnh Yên Bái nói riêng.
2.5 Xem nhẹ chữ tín:
Chữ tín là một yêu cầu bắt buộc trong kinh doanh, muốn việc kinh doanh
phát triển phải làm việc dựa vào chữ tín của chính mình, và nó được nguồn từ khi
hình thành thị trường hàng hóa. Trong nền kinh tế tiểu nơng, chữ tính khơng được

đề cao, tuy nhiên trong nền kinh tế hiện nay tại Yên Bái, một số các doanh nghiệp
không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lí do khách quan để khước từ việc thực
hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác. Bản thân người
Việt kinh doanh nói chung và những người kinh doanh tại Yên Bái cũng chưa tin
người Việt, có chọn lựa kinh doanh thì người Việt sẽ chọn lựa làm ăn với người
ngoại quốc hơn là Việt Nam. Đây là hiểm họa cho các cơ sở kinh tế Việt Nam
cũng như Yên Bái về lâu về dài khi mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị trường
Việt nam cho các cơ sở kinh tế của nước ngoài như ngân hàng, bảo hiểm, tín
dụng… ồ ạt vào kinh doanh ở Việt Nam.

CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP CHO VĂN HÓA KINH DOANH TRONG PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG Ở YÊN BÁI

1. Tư duy kinh doanh và cung cách làm việc.
Trong nền kinh tế thị trường muồn kinh doanh trên địa bàn tỉnh Yên Bái phát
triển bền vững các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy kinh doanh, cần học hỏi các
13


kinh doanh và hoạt động của các tỉnh bạn, cùng với đó phải xây dựng chiến lược
dài hạn cho chính ngành nghề mình kinh doanh, như cử đại diện đi hoạc tập kinh
nghiệm tại các doanh nghiệp có hình thức kinh doanh tương tự, tổ chức các lớp tập
huấn nâng cao trình độ chun mơn cũng như quản lý từ đó mới có thể phát triển
một cách bền vững.
Bên cạnh muốn kinh doanh được phát triển, chính nội tại các doanh nghiệp
xây dựng văn hóa cho chính mình, tạo bản sắc và dấu ấn riêng về công ty hay
doanh nghiệp của mình, ngồi ra đầu tư chun sâu về sản phẩm của mình. Ngồi
việc xây dựng bản sắc của doanh nghiệp, do đặc thù tại tỉnh Yên Bái các doanh
nghiệp nhỏ lẻ, muốn phát triển cần hợp tác chặt chẽ với nhau về nhiều mặt (có điều

kiện hỗ trợ nhau về vốn, kinh nghiệm, kỹ thuật…), để tạo ra bản sắc riêng cho các
doanh nghiệp tại Yên Bái, từ đó tạo chỗ đứng trên thị trường Yên Bái làm cơ sở
vươn ra các thị trường tỉnh bạn.
Việc liên kết các doanh nghiệp trên thị trường vừa tạo điều kiện phát triển và
tạo đà cho việc cạnh tranh lành mạnh trên thị thường hàng hóa, cùng với đó việc
khai thác thơng tin về thị trường, về hàng hóa dịch vụ được bổ sung. Cùng với đó
khi các doanh nghiệp liên kết với nhau giúp việc ln chuyển hàng hóa dịch vụ,
được tuần hoàn, từ khâu sản xuất đến tiêu thụ tạo thành một vịng khép kín, tạo
điều kiện phát triển kinh tế bề vững cho địa phương.
2. Quan điểm hoạt động kinh doanh.
Sự hợp tác kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp vửa thể hiện
cái tôi cá nhân trong đó và cũng vì lợi ích chung cho các doanh nghiệp tại tỉnh Yên
Bái. Qua đó các doanh nghiệp cùng kinh doanh và cung cấp các mặt hàng cho
người sử dụng trên địa bàn được bình đẳng hơn, nhưng bên cạnh mặt tích cực cũng
có một phần tiêu cực đó là khi các doanh nghiệp nhỏ, mới hình thành muồn vào
hội nhập cùng các doanh nghiệp đã có tại thị trường dễ bị các hiệp hội này gây khó
dễ trong việc tiếp cận thị trường.
14


Qua việc xây dựng nền văn hóa kinh doanh mở trên thị trường Yên Bái, cũng
tạo điều kiện việc cung cấp hàng hóa được phong phú, tránh tính trạng một doanh
nghiệp thao túng toàn bộ thị trường. Người mua hàng có được sự lựa chọn nhiều
hơn từ đó tạo ra thị trường mở cho nền kinh tế của tỉnh nhà, cùng với đó sẽ tránh
được tình trạng, một số các doanh nghiệp kinh doanh không đủ năng lực cạnh
tranh dựa vào mối quan hệ của mình để giành thị phần.
Muốn kinh doanh được phát triển bền vững, các doanh nghiệp trên địa bàn
phải dựa vào chữ tín của mình, đó là việc xây dựng xây dựng mối giao lưu cởi mở,
rộng rãi và tin cậy với các đối tác bên ngồi doanh nghiệp mình; Ví dụ quan hệ
giữa doanh nghiệp với nhà nước, ý thứ tuân thủ pháp luật, bảo tồn vốn của nhà

nước và làm nghĩa vụ nộp ngân sách, giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp
( cung cấp thiết bị điện, nước, tài chính, nguyên liệu, vật liệu...) giữa doanh nghiệp
với khách hàng, giữa doanh nghiệp với các đối tác cạnh tranh hay bạn hàng... Từ
đó, tạo lịng tin cho khách hàng đó là yếu tố quan trọng cho việc kinh doanh của
chính các doanh nghiệp đó, tạo điều kiện phát triển của doanh nghiệp mình và góp
phần phát triển cho tỉnh nhà.
3. Xây dựng văn hố kinh doanh và đội ngũ doanh nhân.
Xây dựng mối quan hệ ứng xử tốt đẹp giữa các thành viên trong cộng đồng là
yếu tố nền tảng, để đạt tới sự thống nhất trong công việc kinh doanh, như tổ chức
hiếu, hỉ, thăm hỏi và giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, cùng nhau quan tâm tới lợi
ích chung.
Ngay từ khâu tuyển dụng, cần đặt ra yêu cầu cao đối với nhân sự, buộc các
thành viên mới tham gia doanh nghiệp phải phát huy trí lực, tính năng động, sáng
tạo trong việc tạo ra hiệu quả của công việc, tạo dựng khơng khí thi đua, phấn đấu
của tồn đơn vị. Trong kinh doanh hiện đại, việc xây dựng nền văn hoá kinh doanh
một số các doanh nghiệp tại địa bản tỉnh còn tổ chức ký đi tham quan, nghỉ mát, tổ
chức các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hố thể thao... để tạo ra bầu khơng khí
15


lành mạnh thoả mái sau những ngày làm việc căng thẳng. Tất cả những yếu tố đó
góp phần tạo một bầu khơng khí riêng của một doanh nghiệp, tạo một bản sắc đặc
trưng riêng của chính doanh nghiệp đó.
Văn hồ là một thước đo, bên cạnh thước đo về kỹ năng chuyên môn để đánh
giá cán bộ nhất là cán bộ chỉ huy, quản lý. Nếu các nhà kinh doanh có trình độ văn
hố (khơng phải chỉ là bằng cấp chun mơn), họ sẽ có nhiều cơ hội đóng góp vào
sự nghiệp phát triển có văn hố, hạn chế rất nhiều sự phát triển kinh tế khơng văn
hố, tức là hạn chế những kiểu kinh doanh bất chính, phi nhân bản. Phải bằng các
biện pháp giáo dục, giáo dục kiến thức văn hoá cho các nhà kinh doanh để giúp họ
nâng cao nhận thức và hành động, từ đó nâng cao ý thức con người.

Xây dựng đội ngũ doanh nhân văn hố địi hỏi phải có những phẩm chất như
chủ nghĩa yêu nước và ý thức công dân, cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng khách
hàng và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham mưu cho nhà nước về đường lối,
chiến lược và chính sách kinh tế, đề xuất các giải pháp và là cầu nối cho nhà nước
trong các quan hệ đối ngoại, có các kiến thức, kỹ năng kinh doanh và tinh thần
sáng tạo, có khả năng hợp tác và có tính năng động. Từ đó tạo điều kiện cho sự
phát triển của chính doanh nghiệp mình, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển mộ
cách bền vững.
4. Nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hoá kinh doanh.
Nhận thức bao giờ cũng là khởi điểm cho mọi hành động, cần phải bắt đầu từ
nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hố kinh doanh, từ đó thứ đẩy kinh tế được
phát triển. Điều này dựa trên những cơ sở sau:
Một là, hiện tại các doanh nghiệp kinh doanh tại Yên Bái vẫn chưa chú ý tới
sự cần thiết tất yếu của văn hoá kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp
lực kinh tế, nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận làm cho các doanh nghiệp khơng
chú ý tới vấn đề văn hố kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ.

16


Hai là, các chính sách và cơ chế quản lý kinh doanh hiện hành cũng mới chỉ
chú ý tới các khía cạnh kinh tế, xã hội và mơi trường của kinh doanh. Sự thiếu
vắng hoặc mờ nhạt khía cạnh văn hố trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh
doanh hiện hành có nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ sự thiếu hụt rõ ràng trong
nhận thức của các nhà hoạch định chính sách.
Ba là, định hướng xã hội nhằm vào tạo dựng văn hố kinh doanh cịn
thiếu, văn hố tiêu dùng tạo nên bầu khơng khí và áp lực dư luận xã hội, việc
nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hóa kinh doanh cần phải được bắt đầu
ngay. Sự phối hợp giữa Chính phủ - doanh nghiệp - tổ chức xã hội phi chính
phủ là yếu tố rất quan trọng trong công việc này. Phải làm cho toàn bộ xã hội

nhận thức và nhận dạng đúng vai trị, vị trí của doanh nghiệp, doanh nhân Việt
Nam trong đổi mới.

17


KẾT LUẬN

Phát triển bền vững là xu thế chung mà đất nước ta và toàn nhân loại đang
nỗ lực hướng tới. Đó cũng là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng bộ và chính
quyền địa phương tại tỉnh Yên Bái đang phấn đấu, được thể hiện trên tất cả các mặt
về đời sống xã hội nói chung và thay đổi bộ mặt văn hóa kinh doanh nói riêng.
Người tham gia kinh doanh họ đã thực sự đóng góp cơng sức cho sựe tiến bộ
của xã hội, song cũng chính họ nếu khơng đủ sức và lực, nhân và trí sẽ có hành vi
phản văn hố trong kinh doanh. Do đó, điều tiết mối quan hệ này, chính là một
hoạt động nhân văn có tính gia đình, tính quốc gia và có tính văn minh nhân loại;
Chính vì lẽ đó việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh có thể làm lành mạnh hố các
quan hệ xã hội bởi nó thúc đẩy q trình tiến hố của xã hội. Yếu tố văn hố trong
kinh doanh cịn thể hiện sự giao lưu văn hoá giữa các vùng miền của mỗi nước,
giữa các quốc gia và có tính tồn cầu và sản phẩm cịn là phương tiện chuyển gia
các thơng tin về văn minh và tiến bộ xã hội, từ nước này sang nước khác. Nếu
chúng ta suy nghĩ trái ngược coi thường yếu tố văn hố, xem nhẹ đặc tính dân tộc
trong hoạt động kinh tế, kinh doanh chúng ta sẽ phải trả giá đắt, điều này đã được
thể hiện qua một số nước chủ nghĩa phát triển.
Tóm lại, nếu chúng ta biết kết hợp hài hồ giữa văn hố và kinh doanh thì
sẽ giúp cho các doanh nghiệp của nước ta sẽ ngày càng phát triển, và giúp tỉnh
Yên Bái ngày càng đi lên theo kịp các tỉnh bạn, ngày càng lành mạnh hoá và
giàu đẹp hơn, nếu chúng ta đi ngược lại với điều đó thì cũng như ta đã đi trái với
quyluật tự nhiên thì hậu quả của nó khó mà tưởng tượng được. Vai trị của yếu
tố văn hoá trong kinh doanh hết sức quan trọng, trong việc thúc đẩy sự phát

triển kinh tế bền vững của đất nước nói chung và của tỉnh Yên Bái nói riêng
trong quá trình đổi mới.
18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học (Cao học) Trường đại học kinh tế và quản trị kinh
doanh Thái Nguyên;
2. Văn hoá và kinh doanh (GS Phạm Xuân Nam) – NXB KHXH;
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
4. Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền
vững (RIO+20).
5. Website của Đảng Cộng sản Việt Nam, cổng thông tin điện tử tỉnh Yên
Bái.

19



×