Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Vai trò của chủ tịch hồ chí minh trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng việt nam 1941 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.46 KB, 58 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

ĐẶNG THỊ KIM NGÂN

VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1941 - 1945

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2016


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

ĐẶNG THỊ KIM NGÂN

VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1941 - 1945

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Đại tá Đào Văn Chung

HÀ NỘI - 2016




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, bằng sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và
những kiến thức được học tại trường, cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy
Đào Văn Chung, em đã hoàn thành khóa luận này.
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo, Đại tá
Đào Văn Chung đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong Trung tâm Giáo dục quốc
phòng Hà Nội 2.
Vì mới làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học nên khóa luận
này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp quý báu của thầy cô giáo trong Trung tâm Giáo dục quốc phòng và các
bạn đồng nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Đặng Thị Kim Ngân


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này được hoàn thành với sự hướng dẫn của thầy Đào Văn
Chung. Em xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong đề tài này đích thực của
riêng em.
Đề tài của em không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác và
chưa có một đề tài nghiên cứu nào. Nếu sai em xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2016

Sinh viên

Đặng Thị Kim Ngân


KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

NXB

Nhà xuất bản

QĐND

Quân đội nhân dân

LLVT

Lực lượng vũ trang

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CAND

Công an nhân dân


ANTT

An ninh trật tự

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

BVTQ

Bảo vệ tổ quốc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 2
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3
6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài ........................................................ 3
7. Kết cấu đề tài.............................................................................................. 3
Chƣơng 1. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ
HAI ................................................................................................................... 4
1.1. Vài nét về tình hình thế giới.................................................................... 4
1.1.1. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có
những chuyển biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới từng
nước, từng khu vực và cả trật tự thế giới vừa được thiết lập ..................... 4

1.1.2. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hay còn gọi là cách mạng kỹ
thuật lần thứ hai có những điểm khác biệt so với cuộc Cách mạng kỹ thuật
lần thứ nhất ................................................................................................. 7
1.2. Khái quát tình hình Việt Nam trong những năm đầu của chiến tranh thế
giới lần thứ hai .............................................................................................. 8
1.2.1. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất
phản động.................................................................................................... 8
1.2.2. Đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính
trị, bần cùng về kinh tế, chịu cảnh “một cổ hai tròng”.............................. 8
1.3. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên bùng nổ ..................................... 8
1.3.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ và Binh biến Đô Lương . 8
1.3.2. Phong trào Việt Minh ..................................................................... 10


1.3.3. Cao trào kháng Nhật....................................................................... 10
1.3.4. Cách mạng tháng Tám .................................................................... 11
1.3.5. Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam ........................................................ 12
Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY
DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI
KỲ 1941 - 1945............................................................................................... 13
2.1. Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam ........... 13
2.1.1. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng ................ 13
2.1.2. Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cách mạng,
tổ chức quần chúng, chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám của
Đảng .......................................................................................................... 13
2.1.3. Giữa năm 1944, tình hình thế giới và nước ta chuyển biến mau lẹ
có lợi cho cách mạng ................................................................................ 14
2.1.4. Hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
cùng nhau hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân ............................ 15
2.2. Xây dựng lực lượng chính trị quần chúng ............................................ 17

2.2.1. Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Hồng
quân công nông, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một cách sáng tạo,
phù hợp vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam ........................... 17
2.2.2. Thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân giai đoạn 1941 1945 ........................................................................................................... 20
2.3. Đào tạo cán bộ quân sự, biên soạn tài liệu huấn luyện quân sự ........... 21
2.3.1. Đào tạo cán bộ quân sự .................................................................. 21
2.3.2. Viết và biên soạn các tài liệu quân sự ............................................ 22
2.4. Sáng lập lực lượng vũ trang cách mạng ................................................ 27
2.4.1. Tình thế cách mạng đang chín muồi ............................................... 27
2.4.2. Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, ngày 22/12/1944, đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập .......................................... 28


2.4.3. Sự ra đời và những hoạt động của đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân ............................................................................................... 28
Chƣơng 3: VẬN DỤNG NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN HIỆN NAY .............................................................................. 29
3.1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với lực lượng vũ trang nhân dân .................................................................. 29
3.1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................... 29
3.1.2. Thực tiễn ......................................................................................... 30
3.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính, lấy xây
dựng chính trị là cơ sở.................................................................................. 32
3.2.1. Sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân là sức mạnh tổng hợp
................................................................................................................... 32
3.2.2. Chất lượng chính trị là số 1, là cơ sở nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức mạnh chiến đấu trực tiếp, đấu tranh trên lĩnh vực lí luận, chính
trị, tư tưởng,… chống lại âm mưu và hành động của các thế lực thù địch
................................................................................................................... 33

3.3. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong tình hình mới ................................................................... 35
3.3.1. Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại .................................................................................... 35
3.3.2. Xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại ............................................................................................ 38
3.3.3. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới ................... 44
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 50


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thấm nhuần sâu sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, kế thừa những bài học
kinh nghiệm của ông cha ta về xây dựng tổ chức quân sự trong lịch sử giữ
nước của dân tộc, đồng thời đi sâu phân tích bản chất của chủ nghĩa thực
dân, Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra đối với các dân tộc thuộc địa, muốn chiến
thắng kẻ thù hung bạo thì không có sự lựa chọn nào khác là phải “dùng bạo
lực cách mạng chống bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền”.
Đầu năm 1941 sau gần ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí
Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Sự ra đời và lớn mạnh không
ngừng của lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, dân tộc ta
đã giành được thắng lợi vẻ vang trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những thắng lợi
vĩ đại đó là minh chứng cho sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo và vai trò to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà chiến lược quân sự thiên tài, người cha thân
yêu của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, người sáng lập, giáo dục rèn

luyện Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một
bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản quân sự mà người để lại cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nội dung những quan điểm đó không chỉ có ý
nghĩa trực tiếp đến việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng
Quân đội nhân dân trong đấu tranh cách mạng, mà còn là cơ sở nền tảng để
Đảng ta xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng
hiện nay.
1


Trước yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu và vận
dụng sáng tạo tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng
hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng Việt Nam, ý nghĩa và tính thực tiễn của vấn đề này nên em đã
chọn đề tài: “Vai trò của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng lực
lƣợng vũ trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945” làm đề tài
nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần làm rõ vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945.
- Vận dụng những quan điểm cơ bản của Chỉ tịch Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về bối cảnh tình hình thế giới và Việt Nam trong những
năm đầu của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
- Nghiên cứu vai trò Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ

trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945.
- Vận dụng những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của Hồ Chí Minh trong xây dựng lực
lượng vũ trang Cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng lực

2


lượng vũ trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945 và vận dụng trong
xây dựng lực lượng vũ trang hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp logic
- Phương pháp liệt kê
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
- Một số phương pháp chuyên ngành
6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
- Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, khẳng định vai trò to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ trang Cách mạng Việt Nam.
- Đề tài góp phần bổ sung những cơ sở, nền tảng trong xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
7. Kết cấu đề tài
- Mở đầu
- Nội dung gồm: 3 chương
Chương 1: Bối cảnh tình hình thế giới và Việt Nam trong những năm
đầu của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai

Chương 2: Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 - 1945
Chương 3: Vận dụng những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hiện nay
- Kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo

3


Chƣơng 1
BỐI CẢNH TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM ĐẦU CỦA CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

1.1. Vài nét về tình hình thế giới
1.1.1. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có
những chuyển biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới từng
nước, từng khu vực và cả trật tự thế giới vừa được thiết lập
- Thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhưng các nước châu
Âu, Nhật Bản và Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn thất lớn cả về
người và của. Chỉ có Mỹ giàu lên nhanh chóng trong chiến tranh (thu về 114
tỉ đô la lợi nhuận do bán vũ khí và phương tiện chiến tranh) và trở thành nước
mạnh nhất về kinh tế trong khoảng 3 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ
là chủ nợ lớn nhất thế giới (riêng về vũ khí, các nước đồng minh châu Âu đã
nợ Mỹ 41,751 tỉ USD) và nắm trong tay một lợi thế khiến các nước phải
kiêng nể, e dè là độc quyền về bom nguyên tử.
Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chỉ có 30 vạn người chết
(trong khi Liên Xô là hơn 26,5 triệu người, và toàn thế giới là 56 triệu người),
đất nước Mỹ lại không bị chiến tranh tàn phá (vì mặt trận chính là chiến
trường châu Âu bị tàn phá lên tới 260 tỉ đô la, trong đó Liên Xô chiếm

49,3%). Có thể thấy rằng, Mỹ đã làm giàu trên sự đổ nát của châu Âu và thế
giới. Sau chiến tranh, nước Mỹ đã trở thành nước giàu mạnh nhất, chiếm ưu
thế về mọi mặt trong thế giới tư bản chủ nghĩa.
Có thể nói, Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước về kinh tế, quân sự và chính
trị… Từ đây tham vọng làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày càng bộc lộ và đây
cũng là cơ sở để Mỹ triển khai nhanh chóng kế hoạch của mình trong một bối
cảnh quốc tế và tương quan so sánh lực lượng hết sức thuận lợi đứng cả về hai

4


phía quan hệ: Mỹ với các nước trong khối đồng minh tư bản chủ nghĩa; Mỹ
với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, sức mạnh và ưu thế của Mỹ không kéo dài được mãi, nó đã bị
giảm sút tương đối từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, đặc biệt từ những
năm 70 khi các nước tư bản phục hồi và vươn lên nhanh chóng, trước hết là
Tây Âu và Nhật Bản.
Bị thiệt hại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chẳng những
mất hết thuộc địa mà nền kinh tế cũng lâm vào tình trạng bị phá hủy hoàn
toàn. Đất nước tiêu điều, các thành phố lớn bị tàn phá nặng nề, Nhật Bản bị
kiệt quệ về kinh tế, bị đè bẹp về quân sự, bị suy sụp về tinh thần, bị thiệt hại
lớn về người và của. Nhờ vào kế hoạch đầu tư của Mỹ mà bước sang những
năm 60 của thế kỷ XX, kinh tế Nhật Bản đã có bước phát triển nhanh chóng,
đuổi kịp và vượt các nước Tây Âu, vươn lên đứng thứ hai (sau Mỹ) trong thế
giới tư bản chủ nghĩa. Thực ra sự phát triển nhanh chóng vượt bậc này của
kinh tế Nhật Bản có những nguyên nhân khách quan, chủ quan của nó, và sự
“thần kỳ” này đã chứa đựng những mặt trái của nó mà từ đầu những năm 70
trở đi đã ngày càng bộc lộ rõ ràng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng Nhật
Bản đã có những bước tiến hết sức kỳ diệu trong tất cả các lĩnh vực, khiến cả
thế giới phải kinh ngạc.

- Thứ hai, hai cường quốc Xô - Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến
tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành
quan hệ đối đầu. Từ quan hệ đối đầu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối
đầu giữa hai phe - phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,
trong bối cảnh thế giới hai cực, quan hệ Xô - Mỹ, quan hệ giữa hai phe, mặc
dù mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc và kiềm chế nhau, đều thực hiện chiến
lược phòng ngự, đều tránh đụng đầu trực tiếp với nhau. Vì thế, về đại cục, hòa
bình thế giới được duy trì trong suốt thời kì chiến tranh lạnh và cả sau đó.

5


Giữa “hai cực” Liên Xô và Mỹ có những mâu thuẫn rõ ràng. Trong khi
“cực” Liên Xô luôn luôn làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội; ngược lại, “cực” Mĩ luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế
lực phản động chống phá cách mạng thế giới với mưu đồ vươn lên vị trí thống
trị thế giới. Đúng như Thomas L. Friedman trong tác phẩm của mình có nhan
đề “Chiếc Lexus và cây ô liu” đã nhận xét khá chính xác về mối quan hệ giữa
hai cường quốc vốn là bạn bè và liên minh với nhau trong chiến tranh, giờ lại
là những đối thủ cạnh tranh của nhau: “Khi Mỹ trỗi lên từ sau Chiến tranh
Thế giới thứ hai, cưỡi trên lưng thế giới như một siêu cường vô địch, có trọng
trách toàn cầu và tham gia tranh giành quyền lực với Liên Xô… Bỗng nhiên,
cả thế giới trở thành sân chơi của Hoa Kỳ và cả thế giới chỗ nào cũng quan
trọng, vì mọi ngõ ngách trên thế giới đều có sự tranh giành với Liên Xô”. Có
thể nói, trong hơn nửa thế kỷ tồn tại của trật tự hai cực Ianta, một đặc điểm
lớn của tình hình thế giới là giữa Liên Xô và Mỹ, giữa hai phe vừa đấu tranh
gay gắt với nhau lại vừa chung sống hòa bình và hợp tác với nhau thông qua
diễn đàn của tổ chức quốc tế Liên Hợp Quốc.
- Thứ ba, một biến chuyển lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự ra

đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu
vực Mỹ Latinh sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã
tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội cùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống xã
hội chủ nghĩa hùng mạnh. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
những năm 50 - 60 đã thu hút sự chú ý của thế giới và tác động tới chiều hướng
phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội
ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin cậy của phong trào đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa tư bản không
còn là một hệ thống duy nhất chi phối nền chính trị thế giới. Tình hình trên đây

6


đã dẫn tới một vấn đề: trong chiến lược của mình, Mỹ và các nước đồng minh
không thể không tính đến việc hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
- Thứ tư, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào giải phóng dân tộc
diễn ra sôi nổi ở khắp các lục địa của Á, Phi, Mỹ Latinh, hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân bị tan vỡ từng mảng lớn và đến giữa những năm 60 đã
sụp đổ về cơ bản. Hơn 100 quốc gia dân tộc trẻ tuổi ra đời, ngày càng tham
gia tích cực vào đời sống chính trị thế giới. Bộ mặt hành tinh thay đổi to lớn.
Trong chiến lược của hai cường quốc Xô - Mỹ và hai hệ thống không thể
không tính đến lực lượng này.
- Thứ năm, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật bùng nổ vào những năm
40 của thế kỷ XX và diễn ra mạnh mẽ sau đó. Cuộc cách mạng này đã đưa lại
những tiến bộ nhảy vọt, những thành tựu kì diệu, những tác động tích cực và
những hậu quả của nó rất to lớn. Những nước nào đi sâu vào cách mạng khoa
học - kỹ thuật, tận dụng những thành tựu của nó thì vươn lên mạnh mẽ, tiếng
nói của họ trong quan hệ quốc tế ngày càng có trọng lượng hơn. Những nước
bỏ lỡ cơ hội tận dụng thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, thì tụt
hậu, hình bóng của các nước ấy trong quan hệ quốc tế cũng trở nên mờ nhạt.

1.1.2. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hay còn gọi là cách mạng kỹ
thuật lần thứ hai có những điểm khác biệt so với cuộc Cách mạng kỹ thuật
lần thứ nhất
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, hay còn gọi là cách mạng kỹ thuật
lần thứ hai có những điểm khác biệt so với cuộc Cách mạng kỹ thuật lần thứ
nhất, vì có nội dung phong phú hơn và phạm vi rộng lớn hơn nhiều, nó diễn ra
trong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm toán học, vật lí học, hóa học, sinh vật
học. Trải qua nửa thế kỷ, nhất là giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật đã thu được những thành tựu to lớn và kỳ diệu trên
nhiều lĩnh vực. Trong đó, sự kiện đáng chú ý, có ảnh hưởng trực tiếp đến hai

7


khối quân sự được hình thành sau này là năm 1945, bom nguyên tử đã ra đời
ở Mỹ, có thể dẫn tới những sự tàn phá không lường hết được của đất nước
này đối với hòa bình thế giới.
- Tóm lại, Chiến tranh lạnh gần như là một hệ quả tất yếu của tình hình
đối đầu, căng thẳng giữa hai phe thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
1.2. Khái quát tình hình Việt Nam trong những năm đầu của chiến tranh
thế giới lần thứ hai
1.2.1. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất
phản động
- Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản
động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực
lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế
chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính
sang Pháp làm bia đỡ đạn.
1.2.2. Đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính
trị, bần cùng về kinh tế, chịu cảnh “một cổ hai tròng”

Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9/1940 Nhật Bản
cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông
Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt
Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế.
- Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động
ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
1.3. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên bùng nổ
1.3.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ và Binh biến Đô Lương
- Ngày 27 tháng 9 năm 1940, người dân Bắc Sơn do Đảng bộ Đảng
Cộng sản Đông Dương địa phương lãnh đạo đã chớp cơ hội đế quốc Nhật tấn
công vào Lạng Sơn, đế quốc Pháp trốn chạy về Thái Nguyên qua Bắc Sơn,

8


Đảng bộ Bắc Sơn huy động dân chúng vũ trang cướp chính quyền, tấn công
chiếm được đồn Mỏ Nhài, tiếp tục tấn công tàn quân Pháp ở đèo Canh Tiêm,
Sập Dì. Xứ ủy Bắc Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương cử Trần Đăng Ninh lãnh
đạo phong trào và xây dựng lực lượng để chiến đấu lâu dài. Pháp sau đó tập
trung quân chiếm lại các đồn và đàn áp phong trào. Khởi nghĩa Bắc Sơn tan rã
nhưng phong trào du kích vẫn tiếp tục.
- Năm 1940, Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương chủ
trương và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ trong hoàn cảnh nước Pháp bị
bại trận trong “Đệ nhị thế chiến”, Phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương,
chiến tranh Pháp - Xiêm có nguy cơ bùng nổ, phong trào phản kháng của binh
sĩ người Việt trong quân đội Pháp ở miền Nam Việt Nam có dấu hiệu phát
triển. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp
tháng 11 nhận định điều kiện cách mạng chưa chín muồi, đã quyết định đình
hoãn cuộc khởi nghĩa. Nhưng quyết định đó chưa kịp phổ biến thì lệnh khởi
nghĩa đã được ban bố. Ngày 23 tháng 11, khởi nghĩa đã diễn ra ở Mỹ Tho,

Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên,
Bạc Liêu... Chính quyền cách mạng được thành lập ở một số nơi và đã bắt đầu
ngay một số cải cách dân chủ. Riêng ở Sài Gòn, kế hoạch bị lộ, Pháp kịp đề
phòng, và khởi nghĩa không thực hiện được. Pháp thẳng tay đàn áp phong trào
khởi nghĩa. Hàng nghìn người bị giết và bị bắt, nhiều làng mạc bị triệt phá,
nhiều cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương (Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập,
Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai...) bị xử tử. Lực lượng
khởi nghĩa một số rút được về U Minh, Đồng Tháp... Khởi nghĩa Nam Kỳ đã
nêu cao ý chí đấu tranh của người dân Việt Nam và báo hiệu một cuộc khởi
nghĩa toàn quốc, bước đầu đấu tranh vũ trang của các dân tộc ở Đông Dương.
- Ngày 13/1/1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung),
binh lính người Việt trong quân đội Pháp đang đóng ở đồn Chợ Rạng (Thanh

9


Chương, Nghệ An) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi
lên xe kéo về Vinh, định cùng binh lính người Việt ở đây tấn công Pháp để
chiếm thành. Kế hoạch không thành, Đội Cung bị bắt và bị xử tử cùng với 10
đồng đội của ông tại Vinh ngày 24/4/1941. Nhiều người khác bị kết án khổ
sai và đưa đi đày.
1.3.2. Phong trào Việt Minh
Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cách
mạng chống Pháp. Sau một thời gian nắm tình hình quốc nội và chuẩn bị,
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần VIII Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5
năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao
Bằng. Hội nghị Pác Bó đã xác định cuộc cách mạng ở Đông Dương trong giai
đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng và chủ trương thành
lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Cam-puchia. Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng

được đề ra từ hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939 là đề cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19
tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập
Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh).
1.3.3. Cao trào kháng Nhật
Cao trào kháng Nhật cứu nƣớc và Khởi nghĩa Ba Tơ
+ Tối 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn bán đảo Đông Dương,
trong đó có Việt Nam. Sau khi lật Pháp độc chiếm Đông Dương, chính quyền
Nhật liền thi hành chính sách mua chuộc, mỵ dân, kết hợp với chính sách
đàn áp.
+ Về chính trị, Phát xít Nhật Bản tuyên bố trao trả “độc lập” cho Việt
Nam, thành lập và bảo hộ Đế quốc Việt Nam, nhưng giữ nguyên bộ máy cai

10


trị của Pháp và thay người Nhật vào vị trí người Pháp. Nhật cho quân đội
Thiên Hoàng tấn công vào các chiến khu và cơ sở cách mạng của Việt Minh.
+ Về kinh tế, Nhật chiếm các cơ sở kinh tế của chế độ cũ, in giấy bạc
mới tung ra thị trường, vơ vét tư liệu sản xuất, hàng hóa, lương thực và cướp
đoạt tài sản của dân chúng Việt Nam; làm cho nền kinh tế Việt Nam bị kiệt
quệ, cuộc sống người dân điêu đứng, cùng quẫn. Giá gạo ở Bắc Kỳ vào tháng
10/1944 còn là 1150 đồng/tạ, thì đến tháng 2/1945 đã là 1.000 đồng/tạ. Tình
trạng đó đã dẫn đến nạn đói Ất Dậu, làm gần 2 triệu người bị chết đói.
Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động cao trào kháng Nhật mạnh
mẽ và chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa; đồng thời thay đổi hình thức tuyên
truyền, thay đổi khẩu hiệu tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với
tình hình mới.

Phong trào đã diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức, tấn
công Nhật toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa v.v. trên
khắp các thành thị, nông thôn và vùng thượng du. Phong trào đã chiếm giữ
được nhiều vùng rộng lớn, hình thành nhiều căn cứ cộng sản.
Quân đội Nhật đã mở các cuộc càn quét, bình định, tấn công mạnh vào
các vùng của Việt Minh. Quân Việt Minh, các đội dân quân - tự vệ, du kích
đã chống trả quyết liệt, bảo vệ căn cứ của họ. Tại các đô thị, các phong trào
đấu tranh của công nhân, học sinh, viên chức dâng cao. Nhiều tổ chức công
nhân cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí nghiệp. Cao trào kháng Nhật hoạt
động sôi nổi trên cả nước.
1.3.4. Cách mạng tháng Tám
- Khi Đế quốc Nhật đầu hàng phe Đồng Minh giữa năm 1945, Việt Nam
có cơ hội lớn giành lại độc lập. Cơ hội này đã được Hồ Chí Minh và Việt

11


Minh tận dụng. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương và
Mặt trận Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám, khởi đầu từ Tổng
khởi nghĩa Hà Nội rồi dần lan rộng ra khắp miền Bắc, miền Trung, miền Nam
và cả nước. Kết quả Đế quốc Nhật và chính phủ Đế quốc Việt Nam do họ
thành lập và bảo hộ đã sụp đổ.
- Việt Nam phục hồi độc lập.
1.3.5. Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam
Sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà
Nội, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này,
Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà
Nội để ra mắt người dân và chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập
chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh mời một số người đến góp ý
cho bản Tuyên ngôn độc lập do ông soạn thảo.
Ngày 31 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh bổ sung thêm cho dự thảo
Tuyên ngôn độc lập.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
trước đông đảo nhân dân, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Việt Nam chính thức phục hồi nền độc lập sau gần 100 năm Pháp thuộc.
Đây được nhiều người xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba trong lịch
sử Việt Nam, sau bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt ở thế
kỷ 10 và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi viết năm 1428.

12


Chƣơng 2
VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG LỰC
LƢỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
THỜI KỲ 1941 - 1945
2.1. Hồ Chí Minh về nƣớc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
2.1.1. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
- Ngày 28/1/1941, sau 30 năm tìm đường cứu nước và hoạt động yêu
nước ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc. Pắc Bó (Hà Quảng Cao Bằng) là nơi đầu tiên được Người chọn đặt cơ quan lãnh đạo cách mạng.
2.1.2. Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cách mạng,
tổ chức quần chúng, chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám của
Đảng
- Về đến Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ
sở cách mạng, tổ chức quần chúng, chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ
tám của Đảng. Hội nghị họp trong tháng 5/1941 tại Pắc Bó do Người chủ trì,
tiếp tục chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, nhưng nêu cao hơn
nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chủ trương giải quyết vấn

đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, ở mỗi
nước thành lập một mặt trận đoàn kết dân tộc đồng bào yêu nước, không phân
biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính
trị, đặng cùng nhau mưu cầu cuộc dân tộc giải phóng. Chuẩn bị tiến tới cuộc
khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ đến lúc này được coi là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng, toàn dân ta.
- Cuối năm 1940, sau khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trương của
Đảng, một bộ phận lực lượng vũ trang chuyển sang xây dựng các đội du kích,
sau thống nhất thành đội Cứu quốc quân hoạt động ở căn cứ Bắc Sơn - Võ

13


Nhai. Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 71941 đến tháng 2/1942) sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh
lực lượng và tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở chính
trị trong quần chúng ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.
- Thời gian này, Cao Bằng được coi là nơi thí điểm cuộc vận động xây
dựng các Hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp chín
châu của Cao Bằng có Hội cứu quốc, trong đó có ba châu “hoàn toàn”, nghĩa là
mọi người đều gia nhập tổ chức Việt Minh, xã nào cũng có Uỷ ban Việt Minh.
Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao Bắc - Lạng được thành lập. Sang năm 1943, Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên
tỉnh lập ra 19 ban xung phong “Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn Võ Nhai và phát triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi.
- Trong khi chú trọng xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng cơ
bản ở nông thôn và thành thị, Đảng vẫn không xem nhẹ việc tập hợp rộng rãi
các tầng lớp nhân dân khác, như học sinh, sinh viên, trí thức, tư sản dân tộc
vào Mặt trận cứu nước. Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt
Nam, vận động thành lập Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam (cuối năm 1944) và
Đảng Dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh (tháng 6/1944).
Đảng còn chủ trương vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp,
tranh thủ cả những ngoại kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phát xít.

2.1.3. Giữa năm 1944, tình hình thế giới và nước ta chuyển biến mau lẹ
có lợi cho cách mạng
- Giữa năm 1944, tình hình thế giới và nước ta chuyển biến mau lẹ có
lợi cho cách mạng. Căn cứ vào đó, ngày 7/5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ
thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí đuổi thù
chung”. Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ:
“phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt... Cơ hội cho 1 dân tộc ta chỉ ở trong
một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”.

14


2.1.4. Hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
cùng nhau hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân
- Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và được Hồ Chí Minh giao
trọng trách, ngày 22/12/1944 Võ Nguyên Giáp thành lập “Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân” gồm 34 chiến sĩ trong một khu rừng thuộc
huyện Nguyên Bình - Cao Bằng. Sau đó, Đội xuất quân và giành chiến thắng
liền trong hai trận, tiêu diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng)
ngày 25 và 26/12/1944.
- Phát huy trận đầu ra quân là chiến thắng, đội đẩy mạnh hoạt động vũ
trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng,
góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ và thúc đẩy
phong trào cách mạng trong cả nước.
+ Ở Thái Nguyên, đội Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích, hạ
nhiều đồn địch, phối hợp cùng với nhân dân thành lập chính quyền ở một số
nơi. Đến giữa tháng 5/1945, hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
và Cứu quốc quân cùng nhau hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
Như vậy, bên cạnh lực lượng hùng hậu của quần chúng, lực lượng vũ
trang ra đời và trưởng thành nhanh chóng, trở thành chỗ dựa cho cách mạng.

- Đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Trên lĩnh vực văn hoá tư
tưởng, Đảng Cộng sản đấu tranh chống lại nọc độc văn hoá tư tưởng phản
động, phản khoa học của Nhật - Pháp và tay sai, tuyên truyền phổ biến văn
hoá tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng, đường lối chính sách của Đảng và
Mặt trận, nhằm giác ngộ cổ vũ quần chúng tham gia cách mạng.
- Một trong những vũ khí sắc bén nhất của cuộc đấu tranh là sách báo.
Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta luôn quan tâm đến báo chí. Báo của Đảng và
Việt Minh lần lượt ra đời, ngày càng nhiều về số lượng và tốt về chất lượng,
đã giữ vai trò hết sức to lớn trong đấu tranh. Đó là những tờ báo: Giải phóng,

15


Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi sậy, Đuổi giặc
nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập...
Ngay trong một số nhà tù đế quốc các chiến sĩ cộng sản của ta cũng đã cho ra
báo, như Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hoà Bình), Thông reo (Chợ Chu),
Dòng sông Công (Bà Vân),…
- Đảng và Mặt trận Việt Minh còn phái các cán bộ hoạt động dưới hình
thức công khai, bán công khai trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng để gây dựng
phong trào văn hoá tư tưởng tiến bộ, cách mạng, mang tính chất quần chúng;
họ đi sâu đi sát với những người làm công tác văn hoá - văn nghệ, với giới trí
thức, thanh niên để tổ chức, đoàn kết họ, hướng họ tham gia vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa của toàn dân.
- Đề cương văn hoá Việt Nam do Đảng Cộng sản đưa ra năm 1943 đã
vạch rõ tính chất phản động của văn hoá nô dịch của thực dân Pháp - phát xít
Nhật và tay sai, nêu lên tầm quan trọng của cách mạng văn hoá, là một trong
ba mặt trận đấu tranh do Đảng lãnh đạo đó là chính trị, kinh tế và tư tưởng
văn hoá.
- Văn hoá mới của Việt Nam là nền văn hoá mang tính chất dân tộc và

dân chủ. Nền văn hoá đó phải được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: khoa
học, dân tộc, đại chúng.
Muốn cho ba nguyên tắc đó được thực hiện, một mặt, cần ra sức xây
dựng nó; mặt khác, cần tích cực đấu tranh chống lại văn hoá tư tưởng thực
dân phong kiến, nô dịch, phản khoa học, phản dân tộc, phản nhân dân, xa rời
quần chúng. Cùng với “Đề cương văn hoá Việt Nam”, Hội văn hoá cứu quốc
Việt Nam ra đời và tham gia Việt Minh.
Đảng còn vận động, giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước tiến bộ
thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam, một chính Đảng của tư sản dân tộc và trí
thức yêu nước, tiến bộ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời tháng

16


6/1944 và gia nhập Việt Minh.
Như vậy, bên cạnh lực lượng hùng hậu của quần chúng, lực lượng vũ
trang ra đời và trưởng thành nhanh chóng, trở thành chỗ dựa cho cách mạng.
2.2. Xây dựng lực lƣợng chính trị quần chúng
Xây dựng lực lượng vũ trang là vấn đề cơ bản, trọng yếu của mọi cuộc
cách mạng. Nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và với tầm nhìn
chiến lược, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ thị, huấn thị về công tác
chính trị trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân qua các thời kỳ. Những
quan điểm đúng đắn, sáng tạo của Người đến nay còn nguyên giá trị lý luận
và thực tiễn.
2.2.1. Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Hồng
quân công nông, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một cách sáng tạo,
phù hợp vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam
- Ngay từ năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng, Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trương: “Tổ chức ra quân đội công nông” nhằm thực hiện các
nhiệm vụ chính trị do Đảng xác định. Đặc biệt, giai đoạn 1941 - 1945, khi

mới về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng, Hồ Chí Minh đã có
nhiều chỉ thị cơ bản về lực lượng vũ trang nhân dân làm cơ sở để từng bước
xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân một cách toàn diện; trong
đó, công tác chính trị được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng. Quan điểm đó
được đúc kết trong các tác phẩm, các bài nói, bài viết và hoạt động chỉ đạo
thực tiễn của Người, được thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
+ Một là, lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam phải do Đảng tổ chức,
lãnh đạo, giáo dục và luôn mang bản chất giai cấp công nhân. Để đáp ứng tình
hình phát triển của phong trào cách mạng, ngay sau khi về nước (đầu năm 1941),
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tháng 5/1941. Người xác định: Cách mạng Đông Dương phải kết liễu

17


×