Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học môn giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.29 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

PHẠM THỊ HƯƠNG

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC
“THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN” TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

PHẠM THỊ HƯƠNG

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC
“THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN” TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học


Thượng tá. ThS. Phạm Văn Dư

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đến các thầy cô giáo trong Trung
tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2, các cô chú trong Thư viện Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2 cùng các bạn sinh viên đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên
cứu đề tài. Nhân dịp này em xin cảm ơn Ban giám đốc Trung tâm Giáo dục
quốc phòng Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa
luận của mình.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Thượng tá, thạc sĩ Phạm
Văn Dư - người thầy đã tận tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận này trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình nghiên cứu do thời gian có hạn cũng như hạn chế về khả
năng, chưa có kinh nghiệm nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế. Kính mong sự góp ý tận tình của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài có
tính khả thi.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Phạm Thị Hương


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em, dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo Thượng tá, thạc sĩ Phạm Văn Dư.
Em xin cam đoan những kết quả nghiên cứu của khóa luận là đích thực
của em và đề tài này không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.

Nếu có gì không trung thực em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Phạm Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG VIỆC DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn ..................................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 7
1.1.2. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin ..................................................................................................... 10
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ...... 11
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn ........................................................................................................... 12
1.3. Yêu cầu chung khi vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong dạy học giáo dục quốc phòng và an ninh ....................................... 17
1.4. Kết luận chương 1 .................................................................................... 21
Chương 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG DẠY HỌC GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
......................................................................................................................... 21
2.1. Nội dung chương trình môn giáo dục quốc phòng và an ninh ở trường trung
học phổ thông .................................................................................................. 22
2.1.1. Mục tiêu ................................................................................................. 22

2.1.2. Chuẩn bị kiến thức, kĩ năng .................................................................. 22
2.1.3. Mạch nội dung chương trình................................................................. 23


2.2. Thực trạng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
dạy học môn giáo dục quốc phòng ở trường trung học phổ thông ................. 26
2.3. Kết luận chương 2 .................................................................................... 32
Chương 3: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
VÀ AN NINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...................... 34
3.1. Yêu cầu khi vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
dạy học môn giáo dục quốc phòng và an ninh ở trường trung học phổ thông 34
3.2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học
môn giáo dục quốc phòng và an ninh ở một số bài lý thuyết tại trường trung
học phổ thông .................................................................................................. 36
3.3. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học
môn giáo dục quốc phòng và an ninh ở một số bài thực hành tại trường trung
học phổ thông .................................................................................................. 43
3.4. Kết luận chương 3 .................................................................................... 47
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 48
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 52

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNXH

Chủ nghĩa xã hội


GDQP&AN

Giáo dục quốc phòng và an ninh

GD & ĐT

Giáo dục và đào tạo

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

PPDH

Phương pháp dạy học

THPT

Trung học phổ thông

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục quốc phòng và an ninh là bộ phận của nền giáo dục quốc dân,
việc giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức GDQP&AN là nhiệm vụ chung
của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện
chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương, các hình thức phù hợp với
từng đối tượng. Đặc biệt chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, lịch sử truyền thống của Đảng và dân tộc, ý thức sống và làm việc theo
pháp luật, trong đó xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ
của mọi công dân (Trích chỉ thị 12/CT/TW của Bộ chính trị - BCH TW Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày 3/5/2007).
Môn học giáo dục quốc phòng và an ninh là môn học bao gồm nhiều kiến
thức về khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật quân
sự. Là một môn học không chỉ trang bị những vấn đề cơ bản về đường lối quân
sự của Đảng, tư duy về GDQP&AN và kiến thức quân sự mà còn rèn luyện,
bồi dưỡng nhân cách sống con người XHCN, niềm tự hào và sự trân trọng đối
với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam; góp phần giúp HS có ý thức cảnh giác trước âm mưu
thủ đoạn của các thế lực thù địch; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham
gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân.
Để đáp ứng nguồn nhân lực cho đất nước, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương cải cách toàn diện giáo dục. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học
được coi là trọng tâm với hướng tập trung vào hoạt động học của học sinh nhằm
phát triển tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, nội dung SGK
gắn liền với thực tiễn của đời sống xã hội. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận

1


và thực tiễn được thể hiện qua việc tăng cường tích hợp, liên hệ nội dung môn

học với thực tiễn cuộc sống, địa phương, đất nước hoặc những nội dung ứng
dụng thực tiễn, thông tin mới về kinh tế - xã hội vào môn học, qua đó giúp học
sinh hiểu biết thực tế cuộc sống, hiểu biết các hoạt động sản xuất của quê hương
đất nước, góp phần vào định hướng nghề nghiệp, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng
tham gia lao động sản xuất, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước.
Trong những năm qua, việc dạy học môn GDQP&AN ở trường trung học
phổ thông đã có nhiều chuyển biến tích cực góp phần không nhỏ trong việc phổ
biến, tuyên truyền, trang bị những kiến thức chính trị, quân sự cho lứa tuổi thanh
niên. Song cũng thẳng thắn thừa nhận việc dạy học GDQP&AN ở trường THPT
hiện còn nhiều tồn tại, hạn chế. Nhiều giáo viên chưa tích cực, sáng tạo trong
việc tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học làm cho quá trình tiếp thu tri
thức của học sinh trở nên nặng nề, thụ động. Các kiến thức về chính trị, quân
sự chưa được học sinh hiểu và vận dụng một cách hiệu quả. Nội dung bài giảng
của GV còn nặng về lý thuyết, ít được lí giải, chứng minh với thực tiễn. Thực
trạng đó đã tác động không nhỏ đến thái độ học sinh trong việc tiếp cận môn
học. Những vấn đề này đòi hỏi trong quá trình dạy học, giáo viên khi giảng dạy
cần có sự gắn kết giữa nội dung chính trị, quân sự với thực tiễn sinh động.
Thông qua việc liên hệ giữa lý luận với thực tiễn cuộc sống, học sinh được rèn
luyện kỹ năng, giáo dục thái độ, hành vi ứng xử, trong thực tế cho phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội cũng như xác định trách nhiệm của bản thân trước
những biến đổi lớn lao của đất nước. Đã có những đề tài nghiên cứu về vấn đề
vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy môn
vật lý, môn hóa học trong quá trình giảng dạy ở trường THPT. Cũng có những
đề tài nghiên cứu “Vận dụng kỹ thuật dạy học tích cực trong việc đổi mới
phương pháp dạy học môn giáo dục quốc phòng và an ninh ở THPT”; “Ứng
dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng dạy học bài thường thức
phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai chương trình GDQP&AN lớp

2



10”,… Bên cạnh đó nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cũng được
đề cập đến với các đề tài như: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam”; “Vận dụng nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy hóa học”..., Song chưa có đề tài
nào nghiên cứu đến vấn đề vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong dạy học môn GDQP&AN ở trường THPT. Môn học giáo dục quốc
phòng và an ninh là môn học bao gồm cả nội dung lý thuyết và thực hành, vì
vậy việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng và nâng cao chất giảng dạy môn học này ở trường THPT.
Với những công trình đã nghiên cứu của các tác giả về những vấn đề liên quan
đến môn học GDQP&AN, đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề
vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của môn học
GDQP&AN. Việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong giảng dạy môn GDQP&AN ở trường THPT, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giảng bộ môn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp
bách. Xuất phát từ quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn
GDQP&AN, tôi chọn đề tài: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong dạy học GDQP&AN ở trường THPT”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích
Mục đích của đề tài nhằm làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn để tìm ra biện pháp vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong dạy học môn GDQP&AN ở trường THPT.
2.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu về thực trạng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong dạy học môn GDQP&AN ở trường THPT.


3


Đề xuất phương hướng, biện pháp để vận dụng tốt nguyên tắc này trong
quá trình dạy học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn,
đi sâu vào phân tích làm rõ cách vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong dạy học môn GDQP&AN ở trường THPT.
- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong dạy học môn GDQP&AN ở trường THPT.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài giúp chúng ta nhận thức, đánh giá một cách khoa học việc vận
dụng nguyên tắc “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn” trong dạy học ở trường
THPT, đặc biệt trong giảng dạy bộ môn GDQP&AN hiện nay. Những yêu cầu
khách quan của việc vân dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong dạy học bộ môn này.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu, tìm ra cách vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong dạy học GDQP&AN. Làm cơ sở cho giáo viên vận dụng, thực
hiện trong giảng dạy môn GDQP&AN.
Đề tài được bảo vệ thành công có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên các khóa sau tìm hiểu và nghiên cứu.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết


4


Nghiên cứu các văn bản của Đảng, Nhà nước về GDQP&AN; nghiên
cứu tài liệu, giáo trình lý luận dạy học, PPDH.
Nghiên cứu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học.
5.2. Phương pháp điều tra
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp và gián tiếp.
Điều tra trực tiếp bằng cách đưa ra những câu hỏi cho giáo viên THPT
để đánh giá chất lượng, thực trạng dạy học, vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học môn GDQP&AN. Tiến hành điều tra
qua GV và HS, qua lãnh đạo nhà trường.
Điều tra gián tiếp được tiến hành thông qua sử dụng phiếu điều tra.
5.3. Phương pháp quan sát
Quan sát theo dõi thu thập các dữ liệu, các diễn biến tâm lý khác nhau
của GV và HS khi tham gia dạy và học môn GDQP&AN ở Trường THPT. Qua
đó tìm hiểu vai trò của GV và HS trong các hoạt động dạy học vận dụng nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã ảnh hưởng như thế nào tới chất lượng
của dạy học.
5.4. Phương pháp tọa đàm, phỏng vấn
Tiến hành trò chuyện, trao đổi với giáo viên giảng dạy môn GDQP&AN
về môn học GDQP&AN qua đó rút ra khuynh hướng, các khía cạnh cơ bản của
đối tượng nghiên cứu.
5.5. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo giảng dạy lâu năm môn
GDQP&AN để hoàn thiện đề tài nghiên cứu.
5.6. Phương pháp thống kê tổng hợp, thu thập và xử lý các số liệu liên quan
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung gồm có 3 chương như sau:


5


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vân dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong việc dạy học môn GDQP&AN ở trường THPT
Chương 2: Thực trạng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
vào môn học GDQP&AN ở trường THPT
Chương 3: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy
học môn GDQP&AN ở trường THPT

NỘI DUNG

6


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG VIỆC DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi
hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của
mỗi cá nhân và của tổ chức. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ
nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn
phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý, luôn là chìa khóa
để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại,
nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực

tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy
ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại
đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
1.1.1. Khái niệm
Về lý luận
Lý luận được hiểu là hệ thống những tri thức phản ánh những mối liên
hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan. Lý luận là sự khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, từ các tri thức về tự nhiên xã hội mà con người
tích lũy được. Lý luận được hiểu theo một cách khác là hệ thống hóa các khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật, trong đó quy luật là hạt nhân.
Khác với các quan điểm duy tâm, tôn giáo, triết học Mác - Lênin khẳng
định lý luận là kết quả của quá trình nhận thức đi từ nhận thức đi từ cảm tính
đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nhận thức

7


cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu, trình độ thấp của quá trình
nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận
thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận
thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy luận. Như
vậy lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao
của nhận thức.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài
người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
trình lịch sử.
Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu
tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái niệm,
phạm trù, nguyên lý, quy luật phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát
triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.

Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành
trong mối quan hệ với thực tiễn
Về thực tiễn
Theo từ điển Tiếng Việt: “thực tiễn” là “những hoạt động của con người,
trước hết là lao động sản xuất, nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự tồn
tại của xã hội”
Còn Từ điển học sinh thì định nghĩa: “thực tiễn” là toàn bộ những hoạt
động của con người để tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời sống xã hội bao
gồm các hoạt động sản xuất, đấu tranh giai cấp và thực nghiệm khoa học: không
có thực tiễn thì không có lý luận khoa học”.
Kế thừa có chọn lọc và khắc phục những hạn chế trong quan điểm về
thực tiễn của các nhà triết học trước, Mác và Ăng ghen đã đưa ra quan điểm
đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng
như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Theo triết học Mác -

8


Lênin: “thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật
chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới
bên ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có
tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để
làm chủ thế giới. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng
công cụ, phương tiện vật chất để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm biến đổi
chúng cho phù hợp với nhu cầu của mình.
Quan điểm của triết học trước Mác: Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa
đầy đủ về thực tiễn, cho rằng thực tiễn là hoạt động thực nghiệm khoa học trong
phòng thí nghiệm. Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực

tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn. Hêghen (nhà triết học
duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực tiễn
chứ không phải bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất.
Quan điểm triết học mácxít: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có
mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội. Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật chất của
con người mà chỉ là những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh
thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật chất
"cảm tính" của con người. Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản
chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến
hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo, là
phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Hoạt động thực
tiễn có ba dạng cơ bản, đó là:
Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của
thực tiễn, có vai trò quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực tiễn.
Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường

9


xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết
yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội
loài người.
Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác
nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội
phát triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn,
được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp
lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi
và phát triển của đối tượng nghiên cứu.

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn: giữa lý luận và thực
tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai
trò quyết định.
1.1.2. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản và
quan trọng nhất trong lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin.
Thực tiễn có vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động lực của lý luận. Thông qua
hoạt động thực tiễn, con người buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, quy
luật để con người nhận thức chúng. Do vậy, thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận
thức lý luận, thúc đẩy cho hoạt động lý luận con người và thông qua nó con
người phát triển bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn còn là mục đích
của nhận thức, của lý luận bởi mục đích cuối cùng của lý luận là gắn yêu cầu
thực tiễn, cải tạo tự nhiên, xã hội nhằm phục vụ cho nhu cầu con người. Thực
tiễn phải được chỉ đạo, hướng dẫn bởi lý luận, khoa học, cách mạng. Nếu thực
tiễn không có lý luận dẫn đường thì thực tiễn sẽ trở nên mù quáng. Còn nếu

10


thực tiễn được chỉ đạo bởi lý luận sai lầm và phản cách mạng thì hậu quả sẽ
khó lường.
Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn
cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho
chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng
đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú
và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Con người tác động vào
thế giới, nhận thức và khái quát những nhận thức đó thành lý luận. Lý luận lại
quay trở lại phục vụ thực tiễn và thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng sai của lý

luận.
Khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng đã khẳng định tính tích cực của sự tác động trở lại của lý luận đối với thực
tiễn. Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực
tiễn. Nếu lý luận xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo
điều, máy móc, bệnh quan liêu. Tuy nhiên bản thân lý luận luôn phải đổi mới
để theo kịp sự phát triển của thực tiễn để khỏi phải lạc hậu, lỗi thời và làm vai
trò hướng dẫn chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động thực tiễn, đem lại cho thực tiễn
những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới
khách quan.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi
đôi với thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải
luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế”. Dù nói “đi đôi”, “gắn
liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là: “thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn” là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin. “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng.

11


Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Như vậy, thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng:
thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để
không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn,
phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải
bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau,
hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải
kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại
mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, “Lý luận

cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên
mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”. Như vậy cũng có
nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở thuần túy; có ý nghĩa đích thực khi được
vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ
đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp
điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí
Minh phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn hòa quyện, thống
nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn
Theo chương trình môn học GDQP&AN cấp THPT ban hành theo Quyết
định 79/2007/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phân phối chương
trình môn GDQP&AN khối 10, 11, 12 giúp giáo viên lồng ghép và thực hiện
nhiều nội dung thực tiễn sinh động với bài học vận dụng nhiều phương pháp
mới trong quá trình giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên dành thời
lượng để phân tích sâu các nội dung trọng tâm và tích hợp, liên hệ những vấn
đề thực tiễn cho phù hợp với chương trình. Để làm được điều đó yêu cầu mỗi

12


giáo viên phải biết vận dụng nhiều PPDH kết hợp với nhiều vấn đề thực tiễn để
làm phong phú bài dạy, gắn nội dung bài học với thực tiễn sinh động xung
quanh. Tuy nhiên, việc vận dụng cần phải linh hoạt để không làm lệch trọng
tâm và phù hợp với thời lượng tiết học. Trong đó, việc liên hệ thực tiễn sinh
động với lý luận trừu tượng là việc làm cần thiết và hữu hiệu trong việc thực
hiện chương trình theo quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo.
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, GDQP&AN là một trong những
môn học được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Chỉ thị 12/CT-TW ngày
03/5/2007 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác GDQP&AN trong tình hình mới”. Chỉ thị 12/CT-TW khẳng định
GDQP&AN là một bộ phận của của nền giáo dục quốc dân, là nhiệm vụ của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Nghị định 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007
của Chính phủ quy định về đối tượng, chương trình, nội dung; xác định xác
định vị trí, tính chất, nhiệm vụ GDQP&AN có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
chiến lược đào tạo con người mới XHCN.
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình GDQP&AN thống nhất
trên toàn quốc theo Quyết định số 79/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 cho
HS, SV trong các trường THPT.
Luật Giáo dục nước ta (năm 2005) xác định: “Hoạt động giáo dục phải
được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo
dục gia đình và giáo dục xã hội”. Cùng đó Luật Giáo dục (năm 2005) cũng đề
ra mục tiêu chung của giáo dục nước ta: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc

13


sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 27). Nói một cách
tổng quát, mục tiêu của nhà trường THPT nước ta là hình thành những cơ sở
ban đầu và trọng yếu của con người mới phát triển toàn diện phù hợp với yêu
cầu và điều kiện, hoàn cảnh của đất nước Việt Nam.
Hiện nay, thế giới đã bước vào kỉ nguyên kinh tế tri thức và toàn cầu hóa
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Tháng 4 năm 2006, ở
nước ta diễn ra Đại hội toàn quốc lần thứ 10; ngày 7 tháng 11 năm 2006 Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)

và ngày 17 tháng 11 năm 2006 khai mạc Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 14 tại Hà Nội. Việt Nam đang bước vào một
kỉ nguyên mới - kỉ nguyên hội nhập quốc tế và hợp tác cạnh tranh toàn cầu.
Song bên cạnh đó với sự phức tạp của tình hình biển Đông hiện nay là một
thách thức lớn và cần đề cao tầm quan trọng vấn đề bảo vệ chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.
Để theo kịp với những chuyển biến to lớn về tình hình kinh tế và chính
trị xã hội của đất nước ta cũng như trên thế giới trong giai đoạn này - một giai
đoạn mà cạnh tranh quốc tế là cạnh tranh về con người. Nền giáo dục phải có
sứ mệnh làm sao đào tạo ra những thế hệ con người Việt Nam có đủ sức mạnh
trí tuệ và nhân cách để đưa đất nước ta hội nhập thành công và cạnh tranh thắng
lợi trong môi trường toàn cầu. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, một trong những nhiệm vụ và giải pháp lớn về giáo dục được đề ra là:
“Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đổi mới cơ cấu, tổ chức, nội dung,
phương pháp dạy và học theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”.
Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao
trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội”
Trong trường THPT môn GDQP&AN có vị trí, vai trò và ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông. Đặc

14


biệt trong giai đoạn hiện nay nó càng có vai trò, ý nghĩa quan trọng hơn, là một
thành phần không thể thiếu của văn hóa phổ thông của con người mới.
Trong quá trình thực tập tại trường THPT, tôi nhận thấy yêu cầu thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình giảng dạy tại các trường THPT
nói chung và các bộ môn GDQP&AN nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt như
vậy, nhưng trong thực tế hiện nay vấn đề này dường như đang bị xem nhẹ, nếu
không nói là bị bỏ qua. Trong rất nhiều giờ giảng, giáo viên hầu như chỉ cắm
cúi vào giáo án, nhắc lại một cách mòn mỏi những điều đã có, đã được ghi chép

một cách đầy đủ, rõ ràng trong sách vở, tài liệu. Nhiều giờ học trôi qua trong
sự nhàm chán, nặng nề bởi giáo viên hầu như chỉ biết có lý thuyết suông. Bài
giảng thiếu sức sống, không thuyết phục, không sinh động đang là một hiện
tượng khá phổ biến tại các trường hiện nay. Hệ quả tất yếu kéo theo đó là chất
lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, giảng dạy thấp, thậm chí đôi khi còn phản
tác dụng và tạo ra tâm lý ức chế, gò ép cho người học. Từ đó nhiều người dễ
cho rằng GDQP&AN dường như là một lĩnh vực khô khan, thiếu sức sống,
thiếu sức truyền cảm. Xuất phát từ thực trạng hiện nay các bài giảng của một
số giáo viên GDQP&AN về cơ bản mang nặng tính lý thuyết, thiếu tính thực
tiễn. Cũng xuất phát từ điều này mà trong thực tế nhiều học sinh đã đến với các
bài học, bài thi các môn GDQP&AN bằng một tâm lý đối phó, chỉ chú trọng
học vẹt, học thuộc lòng, học sao cho miễn là qua được các kỳ thi, còn bản chất
vấn đề thì hầu như không hiểu hoặc không cần hiểu, niềm đam mê hứng thú
hầu như không có. Với những quan niệm và tâm lý xuất phát điểm như vậy thì
rõ ràng chất lượng, hiệu quả ở đây có lẽ là vấn đề đáng được báo động.
Hiện nay do nhiều yếu tố khách quan mà trình độ hiểu biết thực tiễn của
giáo viên còn yếu, giáo viên dạy còn nặng tính kinh nghiệm, phương pháp phổ
biến vẫn là thuyết trình, đọc chép nên gây ra tâm lý ngán ngại đối với người
học và thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức. Một số ít giáo viên chưa chú

15


trọng thật sự vào công tác chuyên môn của mình, nội dung kiến thức cần truyền
đạt chỉ khuôn lại trong nội dung sách giáo khoa trong khi rất nhiều vấn đề đã
trở nên lạc hậu. Cho nên trong phương pháp giảng dạy hiện nay cần gắn lý luận
với thực tiễn. Vì vậy, hoạt động giảng dạy về lý luận không có mục đích nào
khác hơn là phục vụ cho hoạt động thực tiễn của chính bản thân giáo viên. Khi
trình bày các nguyên lý, lý luận, giáo viên cần phải lựa chọn các vấn đề liên hệ
cho nguyên lý đó phải sát với hoạt động thực tiễn của cán bộ. Sự liên hệ sát với

hoạt động thực tiễn trên địa bàn của HS như vậy thì những vấn đề từ phức tạp,
trừu tượng sẽ trở nên dễ hiểu dễ tiếp thu hơn.
Việc lựa chọn tư liệu minh hoạ cho bài giảng phải xuất phát từ mục đích
minh hoạ để làm sáng tỏ vấn đề lý luận đưa ra. Các số liệu, sự kiện, kinh nghiệm
của địa phương, các tạp chí, báo hàng ngày và có thể khảo sát thực tế ở địa
phương.
Vì vậy, để đảm đương được công tác giảng dạy trong quá trình hiện nay,
lực lượng giáo viên cần được bồi dưỡng, đào tạo nâng cao, đào tạo sau đại học
mới đáp ứng tình hình và nhiệm vụ đặt ra hiện nay đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng của trường THPT. Quá trình nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên
phải chú trọng đến cả hai mặt:
Nâng cao chất lượng lý luận: đây là một vấn đề có tính hai mặt đó là sự
thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học, tính Đảng của người giáo viên
chính là lập trường chính trị trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công tác truyền đạt các chủ trương đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Còn tính khoa học chính là trình độ
chuyên môn của người giáo viên về chuyên ngành mà mình được đào tạo và
trang bị. Nếu lập trường chưa rõ ràng, chuyên môn chưa sâu sắc thì chưa thể
đứng trên bục giảng bài vì chưa đủ năng lực để truyền tải kiến thức đến cho
người học và cũng không thể đem lại lòng tin cho người học. Vì vậy, tính Đảng

16


là điều kiện cần còn tính khoa học là điều kiện đủ đối với mỗi giáo viên đứng
trên bục giảng. Trong thực tế sinh động, nhiều tình huống thực tiễn nảy sinh
nếu người giáo viên chưa hiểu thấu đáo chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước thì không thể lý giải được một cách sâu sắc những
vấn đề đó.
Nâng cao năng lực thực tiễn: năng lực thực tiễn của người giáo viên biểu

hiện dưới hai khía cạnh: Một là khả năng thâm nhập thực tiễn, đi thực tế ở cơ
sở. Hai là khả năng cập nhật kiến thức qua các hội nghị chuyên đề, hệ thống
thông tin đại chúng. Muốn có kiến thức thực tiễn để liên hệ cho nội dung lý
luận của bài giảng đòi hỏi rất nhiều ở người giáo viên nhất là giáo viên trẻ, phải
năng động tìm hiểu và thâm nhập thực tiễn.
Hình thức thâm nhập thực tiễn rất phong phú như: điều tra, khảo sát,
phỏng vấn trực tiếp… sẽ giúp ích rất nhiều trong việc bổ sung kiến thức cho
nội dung bài giảng thêm sinh động và góp phần quan trọng vào việc giúp cho
học viên vận dụng những tri thức được học vào việc giải quyết các nhiệm vụ
cụ thể.
1.3. Yêu cầu chung khi vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong dạy học giáo dục quốc phòng và an ninh
Đối với người học, người dạy: học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với
thực tiễn. Học tập nâng cao trình độ hiểu biết lý luận là rất cần thiết và quan
trọng, vì có lý luận soi đường mới có hành động đúng trong học tập và công
tác. Lý luận phải gắn liền với thực tiễn “Học lý luận không phải là để nói mép,
nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học để áp dụng vào
việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa
chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã
hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng”. Thống nhất giữa
lý luận với thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác

17


- Lênin. Thực tiễn mà không có lý luận hướng dẫn là thực tiễn mù quáng. Lý
luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông “Lý luận phải đem ra thực
hành, thực hành phải nhằm theo lý luận”. Theo Hồ Chí Minh, sự thống nhất
giữa lý luận với thực tiễn không chỉ là một quy luật nhận thức mà còn là quy
luật của sự phát triển toàn diện nhân sinh quan con người. Bởi vậy, học sinh

cần nắm chắc lý luận phải biết vận dụng vào thực tế cuộc sống hiện tại cũng
như sau này đi làm việc.
Giảng dạy trong nhà trường cần quán triệt sâu sắc nguyên lý giáo dục:
học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội.
Trong giảng dạy môn GDQP&AN, các vấn đề lý luận và thực tiễn phải
được giáo viên trình bày một cách thống nhất, làm sao để lý luận thường xuyên
liên hệ chặt chẽ với thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời sự
biến đổi của đời sống xã hội. Đất nước ta đang thời kỳ đổi mới với những thay
đổi rất nhanh chóng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh
vực giáo dục cũng đang có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ. Những
thay đổi trong đời sống thực tiễn phải được giáo viên kịp thời nắm bắt và đưa
vào trong nội dung bài giảng của mình. Chúng ta không được coi lý luận như
một cái gì xong xuôi, cứng nhắc, mà nó đầy tính sáng tạo và luôn được bổ sung
bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Trong quá trình giảng dạy, cần phân tích làm cho người học nắm được
cơ sở lý luận của các vấn đề cần truyền đạt, từ đó học sinh có thể lý giải được
những vấn đề thực tiễn.
Khi trình bày các nội dung của bài cần lấy những ví dụ minh họa mang
tính thực tiễn, thường xuyên liên hệ lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên, không nên
trình bày theo kiểu minh họa, thuyết minh chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, mà phân tích một cách có căn cứ lý luận để luận giải

18


×