Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

NGUYÊN TẮC THÓNG NHẮT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ Ý NGHĨA TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.76 KB, 43 trang )

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINHTẾ TP.HCM
------

ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH:

NGUN TẮC THĨNG NHẮT GIỮA LÝ LUẬN VỚI
THỰC TIỄN VÀ Ý NGHĨA TRONG CÔNG CUỘC XÂY
DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA.

GVHD: TS. Trần Nguyên Ký
Khóa: Cao học 23
Nhóm: 4_ Cao học đêm 6

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 11 năm 2013


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

Các thành viên trong nhóm gồm:
1. Phan Thị Thu Hiền
2.

Nguyễn Thị Hồng Nhung

3.

Lưu Thị Tuyết Trinh



4.

Lê Thị Hương Giang

5.

Phạm Thị Hải Yến

6.

Trần Thị Ái Tiên

7.

Vũ Hồng Hạnh

8.

Võ Ngọc Huy

9.

Lê Trần Khánh Sơn

10. Nguyễn Thành Phước

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 2



Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

MỤC LỤC

Chương I.

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN...................5

1.

Lịch sử ra đời...................................................................................................................................5

2.

Phạm trù thực tiễn............................................................................................................................5

3.

Phạm trù Lý luận..............................................................................................................................6
a.

Khái niệm.................................................................................................................................6

b.

Phân loại tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận....................................................................7


Chương II.
NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN.................................................................................................................8
1.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý luận................................................................................8
a.

Thực tiễn là cơ sở của lý luận...................................................................................................8

b.

Thực tiễn là động lực chủ yếu của lý luận................................................................................8

c.
Thực tiễn là mục đích của lý luận (Hay nói cách khác thực tiễn định hướng cho sự phát triển
nhận thức, lý luận).............................................................................................................................8
d.

Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận..............................................................................8

2.

Vai trò của lý luận đối với thực tiễn.................................................................................................9

3.

Những sai lầm nếu không ứng dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong thực tế
10

a.

Bệnh kinh nghiệm:.................................................................................................................10

b.

Bệnh giáo điều:......................................................................................................................11

Chương III. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC
TIỄN VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA..............................12
1.

2.

Việt Nam trước đổi mới 1986........................................................................................................12
a.

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trước đổi mới..............................................12

b.

Lý luận của Đảng và những đường lối chỉ đạo của nhà nước.................................................13

c.

Kết quả đạt được....................................................................................................................15

d.

Bài học kinh nghiệm:.............................................................................................................17


Việt Nam sau đổi mới (từ năm 1986 đến nay)...............................................................................17
a.

Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam sau 1986.....................................................17

b.

Lý luận của Đảng và Những đường lối chỉ đạo của Nhà nước...............................................18

c.

Bài học kinh nghiệm..............................................................................................................32

Chương IV. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG NƯỚC TA HIỆN NAY.........................................33
1. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được khái
niệm của thực tiễn.................................................................................................................................33
2. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch
sử - cụ thể..............................................................................................................................................33
3.

Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều............................................................................34
a.

Bệnh kinh nghiệm..................................................................................................................34

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 3



Tri t h c

b.

Bệnh giáo điều.......................................................................................................................34

Chương V.
TIỄN.
1.

2.

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
..............................................................................................................................36

Vận dụng sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn vào việc tự học......................................................36
a.

Lý luận về việc tự học:...........................................................................................................36

b.

Thực tiễn áp dụng:.................................................................................................................37

Vận dụng lý thuyết trò chơi vào thực tiễn ở Việt Nam...................................................................37


Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 4


Tri t h c

Chương I.
1.

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
Lịch sử ra đời

Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học Duy vật trước Mác khơng thấy được vai trị của hoạt động
thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học Duy
tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu hoạt động thực tiễn như là hoạt động
tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngồi con người. Nói cách khác, Họ gạt bỏ vai
trị của thực tiễn trong xã hội.
Mác-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục được nhừng hạn chế trong quan
điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đổi với sự tồn tại và phát triến của xã hội loài người. Với
việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mác-Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý
luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
2.

Phạm trù thực tiễn

Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức Macxít nói

riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động
thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy
tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt động
tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngồi con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai
trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Cụ thể:
Ph.Bêcơn, Đ.Diđơrơ,.. đề cao vai trị của thực nghiệm khoa học, chưa đề cập đến vai trị của các hình
thức khác của thực tiễn với nhận thức.
L. Phoiơbắc có đề cập đến thực tiễn, nhưng ông coi thường thực tiễn; đồng thời cho rằng chỉ có hoạt
động lý luận mới quan trọng và là hoạt động đích thực của con người.
G Hêghen tuy có đề cập tới thực tiễn, nhưng ơng chỉ giới hạn thực tiễn ở hoạt động tư tưởng mà
không thấy được thực tiễn là hoạt động vật chất.
Mac-Ăngghen đã kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế trong quan điểm về thực
tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lý luận của hai ơng
ln gắn bó chặt chẽ với thực tiễn và trở thành công cụ tinh thần để nhận thức và cải tạo thế giới, chứng
tỏ Mac- Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận
thức nói riêng.
Về sau, Lê-nin kế thừa và nhận xét rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận nhận thức”.

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 5


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký


Thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích của con người:



Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất (sử dụng công cụ vật chất để biến đổi thế giới vật chất)
mang tính chất của con người, là hoạt động đặc trưng của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản
năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là
hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để
làm chủ thế giới.
Thực tiễn bao gồm: dạng cơ bản và dạng không cơ bản:
- Dạng cơ bản bao gồm:.
Hoạt động sản xuất vật chất : là cơ bản và quyết định nhất vì nó quyết đinh sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
Hoạt động chính trị - xã hội: nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã
hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động nhằm rút ngắn độ dài của quá trình con người nhận
thức và biến đổi thế giới.
- Dạng không cơ bản được hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản. Chúng là dạng thực tiễn
phát sinh, chẳng hạn như hoạt động đạo đức, hoạt động nghệ thuật, hoạt động giáo dục, hoạt động tơn
giáo,…
Thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội



Thực tiễn là một quá trình vì bản thân nó cũng ln vận động và phát triển. Thực tiễn là hoạt động có
tính chất lồi nên khơng thể tiến hành chỉ với vài ba cá thể riêng lẻ, mà phải đông đảo quần chúng nhân
dân trong xã hội, từ thế hệ này sang thế hệ kia, cộng đồng này sang cộng đồng kia,...

Thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người



Trong qúa trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một “thiên nhiên thứ hai” của mình,
một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con
người vốn khơng có sẵn trong tự nhiên. Thực tiễn cịn hướng vào cải tạo các chế độ xã hội nhằm tạo ra
một xã hội ngày càng văn minh, dân chủ, công bằng. Hoạt động thực tiễn không chỉ cải tạo tự nhiên, đời
sống xã hội mà còn hướng đến cải tạo bản thân con người để con người ngày càng hoàn thiện hơn, mạnh
mẽ hơn.
Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu
của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
3.

Phạm trù Lý luận
a. Khái niệm

Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh mối liên hệ bản chất
những quy luật của thế giới khách quan

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 6


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách quan. Trong hệ thống các

khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản
phẩm của qúa trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là
sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là
sự tống kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ
lại trong quá trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải
mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi
trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái qt cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu
sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Như vậy lý luận thể hiện tính
chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là nó có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó phạm
vi ứng dụng của nó cũng phổ biến, rộng rãi hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
b. Phân loại tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
Tri thức kinh nghiệm chủ yếu thu được từ sự quan sát trong cuộc sống và thực tiễn, bao gồm tri thức
kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền
khoa học) là tri thức thu được thơng qua q trình sinh hoạt hàng ngày của con người, giúp con người giải
quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá trình tác động với đối tượng. Tri thức kinh nghiệm
khoa học là kết quả của quá trình quan sát hay thực nghiệm khoa học nó địi hỏi chủ thể phải tích lũy một
lượng tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học là chất liệu ban đầu để nhà khoa học
xây dựng các lý luận khoa học.
Tri thức lý luận là sự khái quát từ những tri thức kinh nghiệm.
Tất cả những tri thức nào phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng đều là tri thức lý luận.

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 7


Tri t h c


GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

Chương II. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý luận
a. Thực tiễn là cơ sở của lý luận

Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Bằng hoạt động
thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giói phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để
cho con người nhận thức chúng. Thực tiễn cung cấp những tài liệu cho lý luận. Do đó khơng có thực tiễn
thì khơng có và khơng thể có lý luận khoa học. Mọi tri thức, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn (thành hay bại) con người phân tích các yếu tố trong điều kiện
thực tiễn để hình thành nên lý luận. Như vậy, lý luận xuất hiện trên cơ sở của thực tiễn. Lênin viết: ‘'Thực
tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm khơng những của tính phổ biến mà của tính hiện thực trực
tiếp”.
b. Thực tiễn là động lực chủ yếu của lý luận
Thực tiễn luôn luôn mới, luôn làm nẩy sinh những vấn đề mới, làm nẩy sinh những "tình huống có
vấn đề" buộc, lý luận, khoa học phải lý giải và định hướng cho thực tiễn.
Quá trình biến đổi thế giới là quá trình con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá
những bí mật của thế giới làm phong phú sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ và giới hạn phát triển của lý luận và sự phát triển của các ngành khoa học. Nhu cầu của thực
tiễn địi hỏi phải có tri thức mới. Tổng kết kinh nghiệm, khái quát nhận thức, thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của các ngành khoa học.
Hoạt động thực tiễn của con người luôn tạo ra những công cụ, những phương tiện hiệu quả để nâng
cao khả năng nhận thức của con người, xây dựng lý luận ngày càng chính xác hơn.
c. Thực tiễn là mục đích của lý luận (Hay nói cách khác thực tiễn định hướng cho sự
phát triển nhận thức, lý luận)
Thế giới vô cùng vơ tận, do đó nhận thức cũng vơ cùng, vơ tận, mà nhận thức của một chủ thể lại có

giới hạn.
Nhận thức phải theo yêu cầu của thực tiễn thì mới có tác động thiết thực (giáo dục,đào tạo; nghiên
cứu khoa học).
Triết học Mác Lênin chỉ ra rằng từ hoạt động thực tiễn mà có tri thức và khoa học. Lý luận khoa học
sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, chỉ có ý nghĩa thực sự khi
chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ mục tiêu phát triển chung.
d. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù hợp với hiện thực khách quan mà nó phản ánh, và đồng
thời nó được thực tiễn kiểm nghiệm. Do vậy mọi lý luận phải thông qua thực tiễn kiễm nghiệm. C.Mác
nói: “ vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có thể đạt đến chân lý khách quan hay khơng hồn tồn
khơng phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý.” Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 8


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

nhân loại, những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
Những lý luận có giá trị là lý luận được chứng minh trong hoạt động thực tiễn. Thừa nhận thực tiễn là tiêu
chuẩn chân lý của lý luận, cần chú ý những vấn đề sau:
Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của
lý luận khi thực tiễn đạt đến tính tồn vẹn của nó.
Thực tiễn có nhiều giai đoạn khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ
phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể rời xa thực tiễn.
Ngồi tiêu chuẩn thực tiễn cịn có những tiêu chuẩn khác như: tiêu chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị…

song những tiêu chuẩn đó vẫn phải dựa trên nền tảng của tiêu chuẩn thực tiễn.
Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuản chân lý của lý luận một cách biện chứng, tức tiêu chuẩn này
vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu
chuẩn khách quan để kiểm nghiệm lý luận, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác định được chân lý
của lý luận. Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ, mà biến
đổi và phát triển.
Tóm lại sự phân tích trên đây về vai trị của thực tiễn đối với lý luận đòi hỏi phải quán triệt quan
điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sơ thực tiễn, đi sâu,
đi sát thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới sai lầm
của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
2.

Vai trị của lý luận đối với thực tiễn.

Lý luận và thực tiễn thống nhất với nhau, không chia cắt, không tách rời, khơng được coi trọng mặt
nào. Lý luận được hình thành khơng phải ở bên ngồi thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Do đó,
thực tiễn và lý luận ln có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau trong đó thực tiễn giữ vai
trị quyết định lý luận
Triết học Mác - xít chỉ ra rằng coi trọng thực tiễn khơng có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò
của lý luận mà phải thấy được vai trị tác động tích cực của lý luận đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận
đối với thực tiễn được thể hiện ở các điểm sau:
- Lý luận hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, giúp cho thực tiễn hoạt động đúng hướng, có hiệu quả. Lý
luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động tự giác, tránh được những hoạt động mò
mẫm tự phát (thực tiễn mù quáng).
Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “khơng có lý luận thì lúng túng nhắm mắt mà đi”.
Còn Lênin khẳng định “ khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng”.
- Lý luận góp phần giáo dục, động viên, cổ vũ tổ chức quần chúng. Lý luận biến thành niềm tin và
hành động của quần chúng sẽ là một lực lượng vật chất to lớn.
- Vai trò của lý luận trong thời đại khoa học công nghệ, thời đại văn minh trí tuệ quyết định sự
thành bại.

Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ
ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vơ cùng vơ

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 9


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không
đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu khơng thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự
báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận.
Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì khơng thể khơng có tư
duy lý luận.”
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình thức và trình độ biểu
hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống sinh
động. Những thước đo tính cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chổ lý luận đó phải
hướng hẳn về đời sống hiện thực, đề giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra,
và như vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngồi sự thống nhất lý luận và
thực tiễn, tự thân lý luận không thế biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận khơng có
mục đích tự thân mà vì phục vụ thực tiễn, để cải tạo thực tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được thực tiễn là cơ sở, là
động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận
đích thực bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện
ở nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triên của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng
biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn bàng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực
tiễn.

Tóm lại sự tác động trở lại của Nhận thức đối với thực tiễn theo hai hướng: nếu nhận thức phù hợp
với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển, nếu nhận thức phản ánh sai thực tiễn thì nó sẽ kìm hãm
sự phát triển thực tiễn.
3.

Những sai lầm nếu không ứng dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

trong thực tế
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần
tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để khơng mắc phải bệnh kinh nghiệm,
cịn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không
sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ
sung cho nhau.
a. Bệnh kinh nghiệm:
Là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận, hạ thấp vai trị của lý luận.
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc
phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý
luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Nếu khơng có lý luận hay trình độ lý luận thấp
sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có khơng ít cán
bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự
thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách
mạng" Những cán bộ ấy quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 10


Tri t h c


GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

mà thơi, chỉ thiên về một mặt mà thơi. Có kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt sáng một
mắt mờ". Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có
vai trị hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta
trong cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi", "Làm mà khơng có lý luận
thì khơng khác gì đi mị trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp". Làm mị mẫm chính là biểu hiện
của bệnh kinh nghiệm.
b. Bệnh giáo điều:
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý
luận khỏi thực tiễn.
Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi
lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó
cũng khơng thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý
luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng khơng sát thực tế
khơng phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng ln nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh
nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều.
Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn.
Có tên mà khơng bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như khơng có tên”. Như vậy cũng có nghĩa là lý luận
suông, lý luận sách vở thuần túy. "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp
dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu
khơng biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hịm đựng sách".
Kết luận: Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc
phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ
thực tiễn, đóng vai trị soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực
tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh
phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn ln hịa quyện, thống nhất với nhau, đòi hỏi
nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
(Dẫn chứng cụ thể tấm gương Hồ Chí Minh) Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng về việc quán

triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong
hoạt động cách mạng Người luôn ln sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Trong
khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện trên 700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ,
bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng,
các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học... Như vậy, mỗi năm
có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân.

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 11


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

Chương III. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA.
1.

Việt Nam trước đổi mới 1986
a. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trước đổi mới

Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nước ta bắt đầu xây dựng một mơ hình kinh tế kế hoạch tập
trung. Theo đó, chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất và cơ chế kế hoạch hóa tập trung
đóng vai trị là những yếu tố chủ đạo của mơ hình phát triển. Do vậy, hợp tác xã hoá được thực hiện đồng
nhất với tập thể hoá. Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước miền Bắc vừa là hậu phương lớn chi viện cho
tiền tuyến lớn miền Nam, vừa trực tiếp đánh trả chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Do tác động của chiến
tranh và có nguồn viện trợ khơng hồn lại từ các nước XHCN, các hợp tác xã lại có thêm sức mạnh tư
tưởng, tâm lý và vật chất để củng cố, những tiêu cực vốn có bên trong chưa bộc lộ ra. Mơ hình tổ chức

hợp tác xã kiểu tập trung bao cấp tỏ ra có tác dụng tích cực. Bởi vì nó có thể huy động tối đa sức người,
sức của cho cuộc chiến đấu, “thóc khơng thiếu một cân, quân không thiếu một người”, tất cả cho tiền
tuyến, cho chiến thắng. Và đã đạt được một số thành tựu đáng kể, cụ thể:
Năm 1975, miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, cả dân tộc bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh và cấm vận kinh tế, điều kiện thực tiễn đã
thay đổi, mơ hình kinh tế đó dần dần bộc lộ những mâu thuẫn, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng
hoảng ngày càng trầm trọng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đổi mới đường lối phát triển kinh
tế xã hội. Tuy nhiên do chưa nhân thức đúng thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta vẫn vận hành nền kinh
tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, đã mắc phải những khuyết điểm như:
+ Chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các nguồn lực dẫn tới
việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.
+ Nóng vội trong việc đưa hàng loạt hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao chẳng những đã khơng đạt
được mục đích đẩy quan hệ sản xuất đi trước để thúc đẩy lực lượng sản xuất lên theo, mà ngược lại đã
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Phát triển tràn lan các xí nghiệp quốc doanh trong hầu hết các ngành của nền kinh tế quốc dân,
vượt quá khả năng của Nhà nước về nhiều phương diện. Mặc dù tăng mạnh các cơ sở quốc doanh trong
nền kinh tế như vậy nhưng tổng sản phẩm xã hội được tạo ra từ thành phần kinh tế quốc doanh trong
giai đoạn này chỉ tăng 1,5 lần.
+ Phát triển nền kinh tế theo phương thức tự cung tự cấp, phương thức đổi hàng trong khuôn khổ
Hội đồng tương trợ kinh tế, chấp nhận cấm vận và bao vây kinh tế của các thế lực thù địch. Một nền
kinh tế khép kín và bị khép kín như vậy đã làm mất đi những khả năng tiềm tàng, những khả năng trong
tầm tay của việc sử dụng và phát triển những lực lượng sản xuất từ hợp tác quốc tế đem lại.

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 12


Tri t h c


GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

b. Lý luận của Đảng và những đường lối chỉ đạo của nhà nước


Lý luận của Đảng:

Đảng ta ngay khi mới ra đời, trong Cương lĩnh (năm 1930) đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn
đấu của nước ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tháng 9/1960, Đại hội III của Đảng đã xác định đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ
là “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội”, củng cố miền Bắc thành
cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường hệ
thống xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình trên phạm vi khu vực và trên thế giới.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, cả dân tộc Việt Nam cùng
bước vào một giai đoạn cách mạng mới – tiến hành công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước. Thế nhưng, khi bước vào giai đoạn cách mạng này, thực trạng kinh tế - xã hội ở hai miền Nam Bắc còn có sự khác nhau đã đặt Đảng trước sự lựa chọn bước phát triển tiếp theo cho cách mạng Việt
Nam nói chung, ở mỗi miền nói riêng. Trong đường lối chung của cách mạng Việt Nam là thực hiện con
đường phát triển quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, chúng ta cịn phải tiếp tục hồn thành về
cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, cải tiến công tác thương nghiệp, giá cả tài chính,…
Năm 1976, Đại hội IV của Đảng đã phát triển một bước đường lối của Đại hội III, vạch ra đường lối
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đó là đường lối : “Nắm vững chuyên chính vơ sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : cách mạng
quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng
khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa...
Với tư tưởng quán xuyến này, Đảng đã quyết định lựa chọn con đường cả nước cùng đi lên Chủ
nghĩa xã hội. Sự lựa chọn đó là hồn tồn phù hợp với thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam, phù
hợp với xu thế chung của thời đại. Song, do Việt Nam bước vào xâu dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở của
một nền kinh tế còn rất lạc hậu, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn non yếu, phần lớn lao động vẫn là thủ công,

sản xuất xã hội chưa đảm bảo được nhu cầu, Đảng đã khẳng định: Dẫu Việt Nam vẫn đang ở trong quá
trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, song con đường cách mạng của Việt
Nam vẫn là tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy, để
nâng cao đời sống nhân dân, Đảng đã đưa ra chủ trương tập trung phát triển sản xuất để xây dựng cơ sở
kinh tế - xã hội cho bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện con đường phát triển này, trên thực tế chúng ta đã mắc khơng
ít sai lầm, khuyết điểm như là căn bệnh giáo điều; sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ
nghĩa, dẫn đến tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược,
không đến nơi đến chốn; CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. (Cụ thể là trong thời kỳ này, đã có
lúc ta bắt chước rập khn mơ hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà
nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 13


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các
thành phần kinh tế mà không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta).


Những chỉ đạo của Nhà nước:

Chúng ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ: “Khuynh hướng tư tưởng
chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy

nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan” (Đảng Cộng Sản Việt nam - Văn
kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI-1986). Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực
tế, chưa thừa nhận thật sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
+ Chủ trương tập trung cho cơng nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển công nghiệp nặng mà
không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát
điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất
khơng cao, sản xuất thủ cơng là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và
đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lịng mong muốn đi nhanh, khơng tính đến điều kiện khả năng
thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở
việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta
(quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các
quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường...), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản
xuất, của chế độ cơng hữu, chế độ phân phối bình qn, khơng thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng
sản xuất trong thời kỳ quá độ.
+ Duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế
hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối ... làm cản trở sự
sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội.
Trong hồn cảnh ấy, vấn đề sống cịn là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Muốn vậy, phải
thay đổi mạnh mẽ cách nghĩ và cách làm, tìm tòi và thử nghiệm cách làm ăn mới cho những vấn đề đặt ra.
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8-1979), với chủ trương bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”,
là bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tịi và thử nghiệm đó:
+ Hội nghị chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà
nước hoặc trao đổi tự do.
+ Khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hố; đẩy mạnh chăn ni gia súc dưới
mọi hình thức.
+ Sửa lại thuế lương thực và giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối
theo định suất, định lượng,...
Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) phát triển thêm một bước, đánh giá một cách khách
quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây nên sự
sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Để góp phần khắc phục tư

tưởng nóng vội, Đại hội đưa ra khái niệm về “chặng đường trước mắt” của thời kỳ quá độ và xác định

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 14


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

trong chặng đường này, nội dung chính của cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa là “coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu
hợp lý”. Đại hội cũng khẳng định sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong một thời gian nhất định ở miền
Nam.
Tuy nhiên sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khố V (12-1983) lại cho rằng sự chậm chạp trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế, xã hội, từ đó, chủ
trương để ổn định tình hình, phải đẩy mạnh hơn nữa cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng,
nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải sản quan trọng, thống nhất quản lý giá...
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) là bước đột phá thứ hai với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp,
chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Tháng 91985, cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền được bắt đầu bằng việc đổi tiền, xố bỏ hồn tồn chế độ
tem phiếu. Do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều
diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Đầu năm 1986, lại phải lùi một bước, quay trở lại
thực hiện chính sách hai giá...
Hội nghị Bộ Chính trị khố V (8-1986) là bước đột phá thứ ba với kết luận về một số vấn đề thuộc
quan điểm kinh tế. Nội dung là:
+ Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển
cơng nghiệp nhẹ, phát triển có chọn lọc cơng nghiệp nặng.
+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều

thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Về cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng
hoá tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị,
tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
Đại hội VI (tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước bao gồm đổi mới tư duy,
đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt nhấn
mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm
gốc.
c. Kết quả đạt được


Thành tựu

Về công nghiệp: Xây dựng được những cơ sở cơng nghiệp bước đầu có ý nghĩa quan trọng để phát
triển nhanh hơn giai đoạn tiếp theo. Ví dụ: so với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5, lần. Nhiều khu
cơng nghiệp lớn đã hình thành: thủy điện hịa Bình, Gang thép Thái Ngun, cơ khí Gia Lâm v.v…. Đào
tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề xấp xỉ 43 vạn người, gấp 19 lần
so với 1960.
Về kinh tế: cơ chế kế hoạch hóa tập trung tập trung được các nguồn lực vào việc thực hiện mục tiêu
chủ yếu từng giai đoạn cụ thể ( như ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng )

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 15


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký


Về chính trị: Điểm tìm tịi sáng tạo của Đảng là đã coi làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất
của hệ thống chun chính vơ sản ở nước ta; đã xây dựng mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,
Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong hoạt động của hệ thống chính trị ở tất cả các cấp, các địa
phương.
Về văn hóa – xã hội: Đã xóa bỏ dần những mặt lạc hậu, những cái lỗi thời trong di sản văn hóa
phong kiến, trong nền văn hóa nơ dịch của thực dân Pháp, bước đầu xây dựng nền văn hóa dân chủ với
tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nhiều triệu đồng bào mù chữ đã biết đọc, biết viết.
Hạn chế và nguyên nhân:



Về công nghiệp – nông nghiệp :
+ Hạn chế: cơ sở vật chất kỹ thuật cịn sơ sài, trình độ lạc hậu, lực lượng sản xuất trong nông nghiệp
mới chỉ bước đầu mới phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã
hội, đất nước khơng những nghèo nàn mà cịn rơi vào trình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội.

+ Nguyên nhân: do sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi, bố trí cơ cấu đầu tư, cơ
cấu sản xuất, chủ quan duy ý chí, giáo điều trong nhận thức.

Về kinh tế:
+ Hạn chế: mơ hình và cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã thủ tiêu cạnh tranh, kiềm hãm tiến bộ khoa họccông nghệ, triệt tiêu động lực đối với người lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các cơ
sở sản xuất, kinh doanh, xóa bỏ quan hệ hàng hóa, tiền tệ, xóa bỏ kinh tế thị trường .v.v....làm cho nền kinh
tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng.

+ Nguyên nhân: cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình, quan hệ
hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu, nhà nước quản lý kinh tế kinh
tế thông qua chế độ “cấp phát, giao nộp”, bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nhiều cấp trung
gian vừa kém năng động, vừa sinh ra một đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.


Về chính trị:
+ Hạn chế: trong hệ thống chun chính vơ sản giai đoạn này mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân ở từng cấp, từng đơn vị chưa được xác định thật rõ. Chế độ trách nhiệm không nghiêm, pháp chế xã hội
chủ nghĩa cịn nhiều thiếu sót. Khơng ít cơ quan chính quyền không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không
làm công tác vận động quần chúng, chỉ quen dùng các biện pháp mệnh lệnh hành chính. Coi nhẹ cơng
tác xây dựng Đảng. Có tình trạng tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán trong phương thức lãnh đạo của
Đảng.

+ Nguyên nhân: Hệ thống chun chính vơ sản có biểu hiện bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới so với
những đột phá trong cơ chế kinh tế đang diễn ra ở các địa phương, các cơ sở trong toàn quốc. Bệnh chủ
quan, duy ý chí, tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa hữu khuynh trong vai trò lãnh đạo của Đảng.

Văn hóa – xã hội:
+ Hạn chế: đường lối xây dựng, phát triển văn hóa bị chi phối bởi tư duy chính trị “nắm vững chun
chính vơ sản” mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, đấu tranh ý thức hệ.

+ Nguyên nhân: cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa giai đoạn này cũng bị quy định bởi cuộc cách mạng

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 16


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là xóa bỏ nhanh, triệt để tư hữu, bóc lột, đưa quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất.


d. Bài học kinh nghiệm:
Về mặt lý luận, đó là sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động
trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều
mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên.
Chúng ta đã có thành kiến khơng đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của
sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó khơng chú ý vận dụng chúng vào việc định chế các
chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em.
Từ thực tiễn cách mạng, cả thành công và khuyết điểm sai lầm, Đảng ta đã rút ra được bài học là
phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thơng qua chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước là sản xuất, phát triển lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân từng
bước được ổn định và nâng cao, con người mới XHCN ngày càng được hình thành rõ nét, xã hội ngày
càng lành mạnh, chế độ XHCN được củng cố. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu
hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ…
2.

Việt Nam sau đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
a. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam sau 1986

Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội, nhằm đưa đất nước thoát
dần ra khỏi khủng hoảng vào những năm cuối của thập kỷ 80. Đảng ta đã kiên quyết và kiên trì tiến hành
đổi mới. Muốn đổi mới thì dứt khốt phải từ bỏ khơng thương tiếc những cái cũ lạc hậu, lỗi thời. Trọng
tâm của sự đổi mới lúc bấy giờ là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, là đổi mới các chính sách
kinh tế. Một trong những nội dung cơ bản trong đường lối đổi mới của Đảng do Đại hội VI đề ra là xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm đổi mới đó, Đại hội VII và VIII của Đảng
tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hố bằng các chính sách, cơ chế nhằm kiên trì xây dựng nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền
tảng trong nền kinh tế, kinh tế cá thể, tiểu thủ công, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể, kinh tế

tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến và có vai trị tích cực trong nền kinh tế.
Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật. Tháng 4- 2001, Đại hội IX
của Đảng đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng định:
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mơ hình
kinh tế tổng qt trong thời kỳ q độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm
nghiên cứu, tìm tịi, tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng Sản
Việt Nam.

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 17


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

Những nét mới trong đường lối và quan điểm của Đảng về cơ cấu thành phần kinh tế như trên chính
là sự điều chỉnh có tính chiến lược, làm cho quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm lực kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá
rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của
cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hoá ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà cịn
có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/năm. Giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu
phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng... Tuy nhiên, cũng
có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được nghiên cứu và giải quyết.

b. Lý luận của Đảng và Những đường lối chỉ đạo của Nhà nước


Lý luận của Đảng:

Cơng cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận những bài học kinh nghiệm và sai
lầm đã được nêu ra tại Đại hội Đảng lần VI (1986) và cho phép phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước
ta hiện nay. Phải dung hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa
chứng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại
của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ
nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thảnh phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại toong sản xuất
giữa chứng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán triệt
quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của
triết học Mác xít Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó địi hỏi phải có lý luận khoa
học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản lảm cơ sở cho sự đổi mới
trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận khơng bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị
xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận.
Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thảnh lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là q trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý luận,
đúc kết thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại q trình đổi mới. Có những điều chứng ta
phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải
chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đề chống lạm phát, vấn đề khốn trong nơng nghiệp, vấn đề phân phối sản
phẩm... Trong q trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch
lạc nhất định. Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan
trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa -

Nhóm 4_CHĐ6k23


Page 18


Tri t h c

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi
mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trị của thực tiễn, Đảng ta khơng hề hạ thấp, khơng hề coi nhẹ lý luận. Q trình
đổi mới là q trình Đảng ta khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận,
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể
hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong
những hoàn cảnh và điều kiện mới.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết kinh nghiệm
thành công và cả kinh nghiệm chưa thành công trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
các nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của những năm đổi mới, Đảng ta đã nêu ra những phương
hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gồm:

-

Một là, "xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,

lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính
với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân".

-

Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với


phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân".

-

Ba là, "phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã

hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực
hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu".

-

Bốn là, "tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới

quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản
tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội".

-

Năm là, "thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống

nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại

hồ bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới".

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 19


Tri t h c

-

GVHD: TS. Trần Nguyên Kýn Nguyên Ký

Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng

Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh
giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành
quả cách mạng".

-

Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm

nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta".
Hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh
chóng, phức tạp, khó lường thì những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, trong đó có những vấn đề liên
quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Khơng ít vấn đề về nhận thức lý luận còn

chưa đủ rõ; khơng ít vấn đề về thực tiễn, nhất là những vấn đề bức xúc nảy sinh từ cuộc sống, chưa được
giải quyết kịp thời và tốt nhất.
Trên cơ sở đó Văn kiện Đại hội IX tiếp tục chỉ rõ : “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng
bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư
tưởng sai trái”. Chỉ có như vậy con đường đến CNXH của chúng ta mới giảm bớt gập ghềnh, quanh co.


Đường lối chỉ đạo của Nhà nước

Từ thực tiễn phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời
gian tới, Đảng và Nhà nước cần tổng kết lại kinh nghiệm và tiếp tục nghiên cứu đưa ra để thực hiện một
số vấn đề có tính lý luận sau:

-

Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.

-

Giữ vững và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.

-

Giải quyết các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng

xã hội.
Về kinh tế:

-


Về các thành phần kinh tế và các chủ thể của thị trường
Đổi mới về mối quan hệ giữa củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất với phát triển lực lượng sản xuất -

một trong những căn cứ quan trọng cho sự đổi mới tư duy về cấu trúc nền kinh tế (cấu trúc sở hữu và các
thành phần kinh tế).
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất của phương thức sản xuất, trong đó,
mỗi mặt có vị trí và tác động khơng giống nhau. Lực lượng sản xuất là mặt đông nhất, cách mạng nhất và
giữ vị trí quyết định đối với quan hệ sản xuất. Mối quan hệ sản xuất được thiết lập thích ứng với trạng
thái, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ giữ vai trò mở đường tạo điều kiện thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất quyết định tính chất của quan hệ sản xuất, quyết định sự
phát triển của quan hệ sản xuất, do đó, khơng thể nóng vội thiết lập quan hệ sản xuất mới khi chưa tạo ra

Nhóm 4_CHĐ6k23

Page 20



×