Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Căn cứ khoahọc thực tiễn để phát huy cơ chế tạo động lực trong nghiên cứu khoa học ở học viện chính trị hành chính quốc gia hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.58 KB, 98 trang )

Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu
đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2008
Mã số B.08-07

Căn cứ khoa học thực tiễn để phát huy cơ chế
tạo động lực trong nghiên cứu khoa học
ở Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Chủ nhiệm đề tài : PGS, TS Lê Ngọc Tòng
Th ký khoa học : Th.S Phạm Ngọc Hà
Cơ quan chủ trì

: Vụ Quản lý khoa học

7252
26/3/2009
Hà Nội - 2008


Chủ nhiệm đề tài: PGS, TS Lê ngọc tòng
Th ký khoa học: Th.S Phạm ngọc hà

Danh sách cộng tác viên

GS, TS Mạch Quang Thắng
TS Vơng Cờng
TS Mai Thế Hởn
Th.S Phạm Ngọc Hà
Th.S Hà Đỗ Lan
CN Nguyễn Ngọc Diệp


CN Trần Quốc Khánh
CN Nguyễn Hải Hiệp


Mục lục

Mở đầu

Trang
1

I- Căn cứ khoa học để phát huy cơ chế tạo động lực
trong nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh

1. Căn cứ khoa học
2. Một số khái niệm cơ bản
3. Nhu cầu và động lực của các nhà khoa học trong hoạt động
sáng tạo
4. Cơ chế tạo động lực trong NCKH
5. Một số phơng pháp cơ bản vận dụng vào hoạt động quản lý
để phát huy cơ chế tạo động lực trong NCKH

8
8
10
15
18
22


II- Căn cứ thực tiễn để phát huy cơ chế tạo động lực
trong Nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh

27

1. Căn cứ thực tiễn

27

2. Bối cảnh chung của đất nớc và xã hội

27

3. Những căn cứ thực tiễn để phát huy cơ chế tạo động lực trong
NCKH ở Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

38

III- Những quan điểm, phơng hớng và giải pháp chủ
yếu phát huy cơ chế tạo động lực trong Nghiên cứu
khoa học ở Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ

46

Chí Minh

1. Quan điểm cơ bản phát huy cơ chế tạo động lực trong NCKH
lý luận


47

2. Một số phơng hớng cơ bản để phát huy cơ chế tạo động lực
trong nghiên cứu lý luận

50

3. Giải pháp phát huy cơ chế tạo động lực trong NCKH ở Học viện

56

IV- Kiến nghị

65

Kết luận

72


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác nghiên cứu khoa học của Học viện trong hơn 10 năm qua và
hiện nay đã có những đổi mới và phát triển rõ rệt, có tác động ảnh hởng
to lớn đối với chất lợng đào tạo và từng bớc khẳng định vai trò, uy tín và
ảnh hởng của Học viện trong xã hội. Từ năm 1993 trở lại đây, Học viện
đã triển khai nghiên cứu khoảng trên 40 dự án, chơng trình, đề tài khoa
học cấp Nhà nớc, 37 đề tài cấp Nhà nớc độc lập, gần 500 đề tài khoa
học cấp bộ, cơ sở, đề tài Giám đốc giao nhiệm vụ. Bên cạnh đó, các

Phân viện và các đơn vị ở trung tâm Học viện còn chủ trì thực hiện hàng
trăm đề tài khoa học, đề tài tổng kết thực tế và hàng ngàn cuộc tọa đàm, hội
thảo khoa học.
Hệ thống các chơng trình, đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và
tổng kết thực tiễn đa dạng, phong phú, có nhiều mức độ và cấp độ khác
nhau. Đã bắt đầu hình thành những chơng trình và dự án nghiên cứu
lớn, huy động nhiều đơn vị và cá nhân trong và ngoài Học viện tham
gia. Các vấn đề và chủ đề nghiên cứu đã ngày càng bám sát thực tiễn
đào tạo, thực tiễn đổi mới. Các công trình nghiên cứu đã cố gắng thể
hiện những cái mới trong phơng pháp tiếp cận, trong phơng pháp
nghiên cứu, điều tra, khảo sát, kết hợp đợc tính lý luận cơ bản với tính
ứng dụng và tổng kết thực tiễn. Đã có một số đề tài, công trình, sản
phẩm có chất lợng tốt, góp phần vào việc cung cấp các luận cứ khoa
học và thực tiễn để xây dựng Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà
nớc. Số lợng các sản phẩm khoa học đợc xã hội hóa ngày càng tăng.
Những nỗ lực nghiên cứu của cá nhân và tập thể đợc thể hiện ở nhiều đơn
vị, có những nhân tố mới và những tiến bộ, những dấu hiệu trởng thành
khoa học ở lớp cán bộ khoa học trẻ.

1


Các kết quả nghiên cứu đã phục vụ và tác động trực tiếp tới công tác
đào tạo, góp phần đáng kể nâng cao chất lợng đào tạo, nâng cao nhận
thức xã hội, tác động đợc vào t duy lãnh đạo, quản lý thông qua đối
tợng đào tạo, bồi dỡng của Học viện, các ban - ngành - đoàn thể ở Trung
ơng và địa phơng có quan hệ trực tiếp và thờng xuyên với Học viện.
Đã bớc đầu mở rộng các quan hệ hợp tác nghiên cứu khoa học và
đào tạo cán bộ giữa Học viện với các nớc thông qua các dự án hợp tác
song phơng.

Bên cạnh đó, hoạt động quản lý khoa học của Học viện những năm
gần đây đã có một số đổi mới quan trọng trong việc xây dựng chơng
trình, kế hoạch nghiên cứu 5 năm và hàng năm; từng bớc bổ sung, hoàn
chỉnh thể chế quản lý khoa học theo Luật khoa học và công nghệ; quy chế
quản lý đề tài, nghiệm thu và đánh giá kết quả nghiên cứu đợc chú trọng;
áp dụng các hình thức tuyển thầu các đề tài trọng điểm; đầu t kinh phí
nghiên cứu thỏa đáng và hợp lý hơn; các hoạt động khoa học từng bớc
đợc tăng cờng về chất lợng đảm bảo các yêu cầu dân chủ, khách quan,
công bằng trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Nhờ đó, bớc đầu hình
thành và phát huy đợc các nhân tố động lực, thúc đẩy phát triển khoa học
của Học viện.
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan thì hoạt
động nghiên cứu khoa học của Học viện hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.
Trên tinh thần đổi mới và phát triển hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa
học của Học viện theo tinh thần Nghị quyết số 52 - NQ/TW ngày 30 tháng
7 năm 2005 của Bộ Chính trị, Chiến lợc hoạt động khoa học 10 năm
(2005 - 2015) của Học viện đã chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của hoạt
động khoa học của Học viện và các giải pháp khắc phục. Theo đó, những
hạn chế yếu kém hiện nay là:
- Do nhiều nguyên khác nhau, hiện nay kết quả và chất lợng các
công trình nghiên cứu khoa học ở Học viện còn thấp, thiếu tính cơ bản,
2


hiện đại, tính sáng tạo và những phát hiện mới có giá trị cao về lý luận và
thực tiễn. Có rất ít các công trình có tầm vóc tơng xứng với vai trò, vị trí
của Học viện để có đóng góp quan trọng vào việc hoạch định đờng lối,
chính sách, hình thành Nghị quyết và các quyết sách của Đảng và Nhà
nớc, đợc d luận xã hội và giới chuyên môn đánh giá cao. Hiệu quả xã
hội và những đóng góp kịp thời, thiết thực của nghiên cứu khoa học còn

thấp. Còn ít các giải pháp, các khuyến nghị đề xuất có giá trị, gây đợc
sức chú ý và có sức thuyết phục cao trong xã hội, trong t vấn phản biện
xã hội đối với lãnh đạo, quản lý.
- Quản lý khoa học tuy đã có những đổi mới và có những tác dụng
tích cực nhng cũng còn nhiều hạn chế, nhất là quản lý từ cơ sở, vẫn còn
tình trạng chậm trễ về tiến độ, không tuân thủ nghiêm túc các quy định về
hành chính và tài chính khoa học theo các quy định đã ban hành. Cha tạo
đợc môi trờng học thuật và t tởng trong đời sống khoa học của Học
viện đủ sức lôi cuốn, kích thích những tìm tòi, sáng tạo, phát hiện cái mới
trong nghiên cứu, cha kết hợp tốt vai trò của các nhà khoa học đầu đàn,
các tập thể khoa học với việc tạo điều kiện cho các nhà khoa học trẻ phát
huy khả năng, tác dụng...Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất
là nghiên cứu lý luận dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm cần thiết; cha
thực sự mở rộng hợp tác nghiên cứu và tranh thủ các chuyên gia giỏi từ
nhiều cơ quan khoa học lớn ngoài Học viện để phát triển nhanh tiềm lực
khoa học. Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn cha phối hợp chặt
chẽ và thờng xuyên, nhất là tổng kết thực tiễn ngành và địa phơng.
Những hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân:1) Cha có nhận
thức thật đúng đắn và giải quyết thật hiệu quả mối quan hệ giữa đào tạo,
giảng dạy với nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Còn nặng về đào
tạo, nhẹ về nghiên cứu. Hoạt động nghiên cứu cha chú trọng đẩy mạnh
nghiên cứu ở tầm chiến lợc, phục vụ yêu cầu lãnh đạo, quản lý ở cấp
chiến lợc. Những thói quen, tập quán và sức ì còn khá lớn, hạn chế những

3


tìm tòi và những đột phá trong đào tạo, trong nghiên cứu khoa học và lý
luận. 2) Thiếu nhiều chuyên gia giỏi, đầu đàn làm nòng cốt trong nghiên
cứu. Có sự hẫng hụt lớn về cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ nghiên cứu

chủ chốt đủ sức triển khai các công trình lớn, các chơng trình, đề tài
trọng điểm. 3) Chậm xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt
động khoa học, nhất là ở các đơn vị khoa học cơ sở. 4) Tính thống nhất lý
luận với thực tiễn, bám sát thực tiễn đổi mới để nghiên cứu, tổng kết, phát
hiện các tình huống và dự báo còn yếu kém,...
Cũng theo nhận định của Chiến lợc hoạt động khoa học 10 năm
(2005-2015) của Học viện và báo cáo tổng kết các mặt hoạt động khoa
học nhân 55 năm ngày thành lập Học viện (tổ chức năm 2004) thì tất cả
những hạn chế trong hoạt động khoa học nói trên, tựu trung lại có thể
khẳng định đợc rằng do cơ chế quản lý hoạt động khoa học của Học viện
hiện nay còn những hạn chế, bất cập. Bởi vậy, mặc dù đã có nhiều cố
gắng, nhng do cha khai thác, khơi dậy các tiềm năng khoa học ở Học
viện, cha thực sự tạo ra đợc động lực trong nghiên cứu khoa học nên
cha có những bớc chuyển lớn trong hoạt động khoa học ở Học viện
Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, Học viện xây dựng kế hoạch triển
khai nhiệm vụ đề tài khoa học cấp Giám đốc giao nhiệm vụ: Căn cứ
khoa học - thực tiễn để phát huy cơ chế tạo động lực trong nghiên cứu
khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đây
là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết, góp phần nâng cao vai trò và vị thế
của Học viện trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng CNXH ở nớc ta.
2. Tình hình triển khai nghiên cứu
Việc nghiên cứu nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt
đông khoa học nói chung và quản lý hoạt động khoa học nói riêng luôn
đợc lãnh đạo Học viện, cơ quan quản lý khoa học quan tâm triển khai

4


thờng xuyên. Từ những năm 90 đến nay, Vụ Quản lý khoa học đã chủ trì

nghiên cứu nhiều đề tài về lý luận cũng nh nghiệp vụ quản lý nghiên cứu
khoa học, nh: Quản lý các hoạt động nghiên cứu lý luận Mác - Lê nin;
Cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu lý luận Mác - Lê nin; Khai thác
các động lực nghiên cứu lý luận Mác - Lê nin; Quản lý hoạt động khoa
học ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Nâng cao chất lợng
quản lý hoạt động khoa học ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
trong điều kiện mới; Nâng cao chất lợng và hiệu quả hoạt động quản
lý khoa học ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1999-2000);
Mối quan hệ giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học (2000-2001); Các
giải pháp nhằm nâng cao chất lợng các công trình nghiên cứu khoa học
ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2001-2002); Hoạt động
nghiên cứu khoa học ở các trờng chính trị tỉnh, thành phố (2002-2003);
Qui trình tuyển chọn và t vấn đề tài khoa học (2003-2004); Các giải
pháp nâng cao chất lợng đề tài nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004-2005);Bên cạnh đó, Vụ Quản lý khoa
học cũng đã phối hợp với một số đơn vị khác tổ chức các lớp tập huấn về
nghiệp vụ quản lý khoa học, tiến hành bổ sung hoàn thiện các văn bản
quản lý khoa học trình Giám đốc Học viện phê duyệt, nh: Qui định tạm
thời về một số vấn đề đào tạo và nghiên cứu khoa học (Qui định 80); Qui
chế tuyển chọn chủ nhiệm đề tài và cơ quan chủ trì đề tài cấp Bộ theo
phơng thức tuyển thầu; Qui chế hoạt động của Hội đồng khoa học Học
viện (sửa đổi); Qui chế quản lý hoạt động xuất bản (sửa đổi);...cho phù
hợp với tình hình phát triển của Học viện trong những năm gần đây. Ngoài
ra còn tiến hành cải tiến trên 20 văn bản, mẫu biểu quản lý khoa học theo
hớng tinh giản, gọn nhẹ, tạo thuận lợi cho các cá nhân và đơn vị nghiên
cứu nhng vẫn đáp ứng đợc yêu cầu của công tác quản lý khoa học.

5



Các kết quả nghiên cứu đề tài đã góp phần không nhỏ trong việc tăng
cờng chất lợng, hiệu quả hoạt động quản lý nghiên cứu khoa học ở Học
viện trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, do yêu cầu mới về nâng cao chất lợng hoạt động nghiên
cứu khoa học ở Học viện theo tinh thần Nghị quyết số 52 - NQ/TW ngày
30 tháng 7 năm 2005 của Bộ Chính trị và thực tiễn phát triển nghiên cứu
khoa học của Học viện hiện nay đòi hỏi phải có sự đổi mới, sáng tạo trong
hoạt động quản lý khoa học, đặc biệt là đổi mới cơ chế quản lý khoa học ở
Học viện. Thông qua việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học, mà trớc hết
là hoàn thiện tổ chức bộ máy và hệ thống văn bản quản lý khoa học là
điều kiện quan trọng để nâng cao chất lợng các hoạt động nghiên cứu
khoa học ở Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Mục tiêu
- Nghiên cứu, phân tích luận giải căn cứ khoa học - thực tiễn để phát
huy cơ chế tạo động lực trong nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đề xuất giải pháp hon thiện cơ chế tạo động lực trong nghiên cứu
khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao chất lợng nghiên cứu khoa học của Học viện.
4. Nội dung nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng cơ chế tạo động lực trong
nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Phân tích thực trạng hoạt động khoa học ở Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trong những năm gần đây.
Đánh giá tổng thể việc khơi dậy, phát huy động lực hoạt động khoa
học của Học viện: những mặt đợc, những hạn chế, nguyên nhân và
hớng khắc phục.
6


3. Đề xuất các giải pháp nhằm tạo động lực cho các hoạt động
khoa học đến năm 2015, với các nội dung sau:

a) Đổi mới cơ chế hoạt động nghiên cứu khoa học
b) Hoàn thiện tổ chức bộ máy hoạt động nghiên cứu khoa học
c) Xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý khoa học
d) Hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động
khoa học
e) Một số kiến nghị.
5. Phơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp luận nghiên cứu là chủ nghĩa Mác - Lênin và các
quan điểm của Đảng và Nhà nớc về khoa học công nghệ.
- Phơng pháp nghiên cứu trọng tâm của đề tài là phân tích và tổng
hợp kết hợp với phơng pháp so sánh.
6. Triển vọng nội dung
Có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan làm chức năng quản
lý nhà nớc về khoa học.

7


Nội dung báo cáo

I- Căn cứ khoa học để phát huy cơ chế tạo động lực
trong Nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh

1. Căn cứ khoa học
Căn cứ khoa học là toàn bộ những tri thức khoa học đã đợc nghiên
cứu, phổ biến, trình bày hoặc sẽ đợc nghiên cứu phổ biến trình bày để
giải quyết một vấn đề thực tiễn nào đó. Trong hoạt động thực tiễn của xã
hội con ngời luôn luôn phải nhận thức quy luật vận động của các đối
tợng mà lao động của con ngời tác động đến để cải tạo nó một cách có

hiệu quả nhất. Lúc đầu sự nhận thức về các đối tợng đều trải qua một quá
trình lao động lâu dài để tích lũy tri thức. Sau đó tri thức đợc truyền từ
ngời này sang ngời khác thông qua ngạn ngữ, thành ngữ, cao dao, tục
ngữ. Ví dụ nh để nhớ mùa vụ gieo trồng các loại cây trong năm nhân dân
Việt Nam đã có bài cao dao nh sau:
Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng riêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng t gieo mạ thuận hòa mọi nơi
Tháng năm gặt hái vừa rồi
Trời đổ ma xuống, nớc trôi đầy đồng
Nh vậy sự nhận thức về mùa vụ ở đây đã đợc đúc kết lại thành
kinh nghiệm và ngời ta gọi đó là tri thức kinh nghiệm hay tri thức tiền
khoa học. Những ngời làm ruộng sẽ căn cứ vào tri thức kinh nghiệm nêu
trên để gieo trồng các loại hoa màu cho phù hợp với thời tiết. Và chúng ta
8


cũng có thể nói bài cao dao nêu trên là căn cứ tri thức kinh nghiệm để
gieo trồng một số loại hoa màu chính. Khi khoa học ra đời thì rất nhiều tri
thức của loài ngời đợc kiểm chứng lại và đợc phát hiện thêm bằng các
phơng pháp nghiên cứu khoa học (NCKH). Những tri thức mà khoa học
phát hiện ra đều đợc chứng minh một cách chặt chẽ, tính chính xác, tính
khách quan và tính đúng đắn của nó. Và rất nhiều tri thức khoa học đã trở
thành căn cứ quan trọng để con ngời giải quyết các vấn đề thực tiễn. Ví
dụ nh khi ngời ta xây dựng một cái cầu qua sông thì phải nắm đợc rất
nhiều quy luật về độ nén, về sức bền vật liệu, về địa chất của lòng sông
Toàn bộ những tri thức khoa học cần phải có để xây dựng một cái cầu
đợc coi là căn cứ khoa học để xây dựng cái cầu đó.
Khi chúng ta nói đến căn cứ khoa học để phát huy cơ chế tạo động

trong NCKH ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tức
là chúng ta muốn nói đến những tri thức khoa học đã đợc thừa nhận hoặc
sẽ đợc thừa nhận để phát huy cơ chế nêu trên. Qua nghiên cứu mục tiêu
nêu trên chúng ta có thể chỉ ra một số tri thức khoa học có thể giúp chúng
ta phát huy đợc cơ chế tạo động lực trong nghiên cứu khoa học nh sau:
* Về căn cứ khoa học ta có thể nêu các khái niệm nh: khái niệm
cơ chế, khái niệm động lực, khái niệm cơ chế tạo động lực trong NCKH,
hoặc chúng ta phải trình bày phơng pháp phát huy cơ chế tạo động lực
nh hoàn thiện cơ chế tạo động lực trong NCKH, vận dụng cơ chế tạo
động lực vào trong một điều kiện nhất định nào đó.
* Về căn cứ thực tiễn: chúng ta phải nghiên cứu những điều kiện
hiện thực của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh để
tìm ra những nhân tố tích cực và những nhân tố tiêu cực đang phát huy
hoặc đang kìm hãm các hoạt động NCKH ở Học viện, từ đó tìm ra các
giải pháp thích hợp để tạo động lực cho hoạt động NCKH. Khi chúng ta
đã tìm đợc những căn cứ khoa học và căn cứ thực tiễn để phát huy cơ chế
tạo động lực trong NCKH ở Học viện thì vấn đề còn lại là tìm các giải
pháp để giải quyết tốt các vấn đề đặt ra.
9


Nói tóm lại, căn cứ khoa học để phát huy cơ chế tạo động lực trong
NCKH ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là toàn
bộ tri thức khoa học mà chúng ta có thể thâu nạp đợc để giúp cho việc
phát huy cơ chế tạo động lực đạt hiệu quả cao nhất. Sau đây chúng ta sẽ
lần lợt tìm hiểu về các căn cứ khoa học đó.
2. Một số khái niệm cơ bản
2.1. Khái niệm cơ chế
Khái niệm cơ chế bắt nguồn từ một khái niệm trong kỹ thuật là
mechanist (mexahuz


m)

đó là mối liên hệ giữa các bộ phận trong dây

chuyền công nghệ mà sự vận hành của một bộ phận chính nào đó sẽ kéo
theo sự vận hành các bộ phận liên quan tạo ra sự đồng bộ giữa 3 bộ phận:
Động cơ (phát lực); truyền lực và bộ phận công tác. Sự vận hành của các
bộ phận đều nằm trong sự tơng ứng với nhau. Nếu một bộ phận nào đó
tăng tốc thì các bộ phận khác cũng thay đổi tốc độ, ngợc lại nếu một bộ
phận nào đó mà bị trục trặc sẽ kéo theo sự trục trặc của bộ phận khác. Khi
đa vào lĩnh vực quản lý xã hội thì khái niệm cơ chế đã thay đổi ít nhiều.
Chúng ta đã từng nói đến cơ chế thị trờng đó là sự vận hành của nền kinh
tế dựa theo các quy luật của sản xuất hàng hóa. Cơ chế thị trờng điều tiết
nền kinh tế bằng cái mà các nhà khoa học thờng gọi là cơ chế điều tiết
bằng bàn tay vô hình, đó là sự điều tiết của các quy luật kinh tế. Trong
quản lý chúng ta cũng dùng cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế quản lý khoa
học... Theo cách hiểu thông thờng: cơ chế quản lý là hệ thống các
nguyên tắc, các mối liên hệ, các quy định về các mối liên hệ, các công cụ
mà ngời quản lý nêu ra để vận hành hệ thống quản lý. Ngời quản lý
muốn điều khiển hệ thống quản lý phải xây dựng cơ chế quản lý để cả
hệ thống vận hành theo những quy định nhất định, ví dụ: nếu điều A xẩy
ra thì phải thực hiện điều B chứ không phải điều C. Toàn bộ những quy
định chặt chẽ đó sẽ tạo ra cái mà chúng ta gọi là cơ chế. Cơ chế quản lý
vừa tuân theo những quy luật của hệ thống quản lý vừa tuân theo quy luật
10


lợi ích. Ví dụ trong hệ thống quản lý thì chủ thể quản lý có thể ra lệnh cho
đối tợng quản lý thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ chức năng và

nhiệm vụ của hệ thống. Ngoài ra khi mọi đối tợng quản lý thực hiện tốt
các yêu cầu của cơ chế thì anh ta đợc khuyến khích về vật chất và tinh
thần; ngợc lại khi đối tợng quản lý không thực hiện tốt các quy định
trong cơ chế quản lý thì phải chịu những tổn thất về công việc, về thu
nhập, về uy tín...
Nh vậy, là cơ chế quản lý đợc hiểu là những quy định về mối
quan hệ giữa các khâu, các bộ phận, các thành tố... trong hệ thống quản lý
đợc đặt ra để vận hành hệ thống nhằm đặt đợc các mục tiêu đặt ra cho
cả hệ thống.
Cơ chế tạo động lực trong NCKH là một bộ phận của cơ chế quản
lý khoa học, nó cũng có những đặc trng của cơ chế quản lý khoa học
nhng nó chứa những đặc trng riêng mà chỉ hiểu rõ đợc rõ khái niệm
động lực trong NCKH mới thấy hết đợc bản chất của nó.
2.2. Khái niệm động lực
Khái niệm động lực chỉ có thể đợc hiểu thông qua rất nhiều khái
niệm bắt đầu từ khái niệm nhu cầu. Khi trong con ngời ta có một nhu cầu
nào đó và ngời ta muốn thỏa mãn nhu cầu nào đó thì xuất hiện ớc
muốn. Và khi đã có ớc muốn trong con ngời có sự thôi thúc để ngời ta
hành động để tìm kiếm các giá trị đó thỏa mãn. Sự thôi thúc đó là động
cơ. Và tổng hợp các động cơ lại thành động lực. Vì vậy chúng ta sẽ bắt
đầu nghiên cứu từ khái niệm nhu cầu.
2.3. Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu là đòi hỏi của mỗi cá nhân hay cộng đồng đối với một giá
trị vật chất hay tinh thần nào đó. Khi có nhu cầu trong con ngời xuất hiện
một trạng thái thiếu một cái gì đó cần phải đáp ứng. Khi đói thì ta cần có
thức ăn để ăn, lúc đó chúng ta có nhu cầu ăn. Khi rét chúng ta cần có quần
11


áo để mặc ấm, lúc đó chúng ta có nhu cầu mặc ấm và cái mà ta cần lúc

này là quần áo ấm. Khi tham gia NCKH chúng ta có nhu cầu phát hiện ra
cái mới có giá trị hữu ích đối với xã hội để phục vụ cho cuộc sống và phục
vụ cho chính sự thành đạt của chúng ta. Lúc đó ta có nhu cầu khám phá ra
chân lý. Khi tâm hồn ta cảm thấy trống trải ta muốn đợc ngắm một cảnh
đẹp, hoặc nghe một bản nhạc, lúc đó ta có nhu cầu thởng thức cái đẹp.
Nói tóm lại nhu cầu là sự đòi hỏi của con ngời về một giá trị vật chất
hoặc tinh thần nào đó. Nhu cầu của con ngời rất đa dạng và phong phú và
luôn luôn biến động cùng với sự phát triển của xã hội. Ngời ta có thể
chia nhu cầu của con ngời thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần;
nhu cầu cá nhân, nhu cầu cộng đồng, nhu cầu xã hội; nhu cầu hiện tại và
nhu cầu tơng lai; có nhu cầu sáng suốt và nhu cầu không sáng suốt
Nhà tâm lý học Maxlow đã chia các nhu cầu của con ngời thành 7 tầng
chính sau đây:
- Nhu cầu sinh học. Đó là nhu cầu cơ bản nhất của con ngời bao
hàm thở, ăn, ở, mặc, đi lại, duy trì nòi giống Để tồn tại và phát triển
trớc hết con ngời phải thực hiện quá trình trao đổi chất với tự nhiên. Đó
là mối liên hệ thờng xuyên phổ biến, tất yếu khách quan giữa con ngời
và tự nhiên. Nhu cầu trao đổi chất giữa con ngời và tự nhiên, chúng ta
gọi là nhu cầu sinh học. Trớc khi con ngời nói đến đạo đức, chính trị,
hay thơ ca thì phải có cái để ăn, để mặc và sống đã. Vì vậy, những vấn đề
liên quan đến lơng thực, thực phẩm, nhà ở, đi lại là những vấn đề quan
trọng nhất quyết định các vấn đề khác.
- Nhu cầu an sinh. Con ngời sống trong tự nhiên và xã hội luôn có
khả năng gặp nhiều rủi ro nh: bệnh tật, thiên tai, thú dữ, tai nạn, mất
mùa, Con ngời luôn đứng trớc những nguy cơ làm thay đổi cuộc sống
theo hớng xấu đi. Vì vậy nỗi lo bất an luôn luôn ám ảnh con ngời. Vì
vậy nhu cầu an sinh là một nhu cầu thờng xuyên.

12



- Nhu cầu tình cảm. Đó vừa là bản năng sinh học vừa là nhu cầu về
sự liên kết cộng đồng. Gia đình, quê hơng, tổ quốc là cái nôi nuôi
dỡng con ngời. Con ngời gắn vào cộng đồng nh thai nhi gắn vào cơ
chế thể mẹ. Từ đó tình yêu thơng giữa con ngời và con ngời là một
nhu cầu quan trọng.
- Nhu cầu nhận thức. Con ngời muốn chủ động tác động vào thế
giới tự nhiên và xã hội để cải tạo nó thì phải nhận thức đợc các mối liên
hệ giữa các sự vật và hiện tợng trên thế giới. Quá trình khám phá các quy
luật của tự nhiên và xã hội đã hình thành trong mỗi con ngời nhu cầu
nhận thức. Nhu cầu này đã bắt đầu từ em bé mới sinh đến ngời cao tuổi.
Em bé mới ra đời đã bắt đầu có nhu cầu cảm nhận thế giới bên ngoài. Con
ngời càng hiểu biết thì nhu cầu nhận thức lại càng cao.
- Nhu cầu đợc kính trọng. Con ngời sống trong cộng đồng luôn
luôn có xu hớng dành đợc sự trân trọng, tôn vinh của những ngời xung
quanh. Khi anh đợc kính trọng nghĩa là vị thế của anh trong cộng đồng
đợc đề cao và cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn vì vậy ai cũng muốn mọi ngời
xung quanh kính trọng mình, thơng yêu mình.
- Nhu cầu hoạt động xã hội. Đó là nhu cầu đợc tham gia vào hoạt
động thực tiễn của xã hội để có những đóng góp cho xã hội và khẳng định
đợc bản thân.
- Nhu cầu thẩm mỹ. Đó là nhu cầu đợc cảm thụ cao đẹp, đợc
sáng tạo ra cái đẹp. Trong cuộc sống hàng ngày con ngời luôn luôn
hớng tới sự cân đối, sự hài hòa và hơn thế nữa con ngời còn có nhu cầu
tái nhận thức, tái sáng tạo cuộc sống theo quy luật của cái đẹp.
Đó là bảy tầng nhu cầu cơ bản mà mọi ngời trong xã hội luôn luôn
hớng tới và tìm cách thỏa mãn. Tuy vậy, nhu cầu của con ngời thì rất
phong phú và đa dạng, trong nhiều trờng hợp ngời ta có nhu cầu nhng
họ không tìm cách thỏa mãn hoặc cố quên nó. Việc thỏa mãn một nhu cầu


13


nào đó đều phải trả giá cho nó bằng một giá trị nào đó mà mình có. Vì vậy
con ngời không thế thỏa mãn bất cứ một nhu cầu nào mà mình có. Trong
những điều kiện nhất định ngời ta chỉ có thể thỏa mãn một số nhu cầu
của mình số còn lại phải quên nó đi. Những nhu cầu đợc con ngời lựa
chọn để tìm cách thỏa mãn gọi là ớc muốn. Khi ngời ta có ớc muốn
tức là đã hớng tới việc thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Chẳng hạn tôi
muốn đi xem phim có nghĩa là tối đa chọn nhu cầu xem phim để tìm cách
thỏa mãn. Ước muốn xuất hiện khi ngời ta cảm thấy việc thỏa mãn nhu
cầu là hiện thực, là có khả năng và hợp với tâm lý, tình cảm của ngời ta.
Ước muốn làm xuất hiện động cơ. Động cơ là sự thôi thúc bên trong con
ngời đi tìm những giá trị nào đó để thỏa mãn các ớc muốn của mình.
Khi tôi khát thì tôi muốn uống nớc vậy là trong tôi xuất hiện một động
cơ thúc đẩy tôi đi tìm nớc để uống. Khi nhà khoa học muốn có những
sản phẩm, công trình khoa học để phục vụ cho xã hội và cho bản thân
mình thì trong nhà khoa học đó xuất hiện động cơ dẫn đến hoạt động
nghiên cứu khoa học. Động cơ là cơ sở dẫn đến các hành vi. Ngời ta làm
bất cứ một việc gì cũng phải có động cơ. Tất cả những gì con ngời hành
động đều liên quan đến nhu cầu của anh ta, mà trớc hết là các nhu cầu về
vật chất. Động cơ của nhiều ngời hợp lại thành động lực. Nh vậy xét
cho cùng động lực bắt nguồn từ nhu cầu của con ngời và đến lợt nó
động lực lại là nguồn gốc của các hoạt động xã hội. Chúng ta có thể hình
dung cơ chế tạo động lực cho các hoạt động xã hội nh sau: Nhu cầu
ớc muốn

động cơ

động lực


hành vi

hoạt động xã hội

(hoạt động thực tiễn của con ngời).
2.4. Động lực trong NCKH
Từ đây chúng ta chúng ta có thể nêu một định nghĩa về động lực:
Động lực chính là sự thôi thúc bên trong để những cá nhân và cộng đồng
thực hiện các hoạt động sáng tạo, tìm kiếm trao đổi các giá trị để thỏa
mãn nhu cầu của cá nhân và nhu cầu chung của xã hội. Động lực xuất

14


phát từ nhu cầu và ớc muốn của cá nhân và cộng đồng ngời trong xã
hội. Nó là nhân tố cơ bản để tạo nên các giá trị xã hội. Động lực trong
NCKH là sự thôi thúc các nhà khoa học, các tổ chức và cá nhân làm chức
năng quản lý khoa học thực hiện có hiệu quả hoạt động tìm kiếm sáng tạo
các tri thức khoa học. Động lực trong NCKH phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố nh nhu cầu, ớc muốn của các nhà khoa học, điều kiện thực tế của đất
nớc và của ngành chủ quản, cơ chế phát huy các động lực NCKH. Vì vậy
muốn tìm hiểu và nghiên cứu căn cứ khoa học và thực tiễn cần phải xuất
phát từ nhu cầu và ớc muốn chung của các nhà khoa học và bản chất của
cơ chế phát huy các động lực NCKH.
3. Nhu cầu và động lực của các nhà khoa học trong hoạt động
sáng tạo
Để có căn cứ lý luận để phát huy cơ chế tạo động lực trong NCKH
cần phải hiểu đợc nhu cầu, ớc muốn và động lực của các nhà khoa học
trong hoạt động tìm kiếm chân lý. Qua tìm hiểu chúng ta thấy rằng các

nhà khoa học càng có những nhu cầu và ớc muốn nh những ngời khác.
Ngoài ra do đặc thù nghề nghiệp nên họ còn có những nhu cầu mới mà ở
những đối tợng khác ít thể hiện hơn. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về các
nhu cầu đó.
3.1 Nhu cầu có thu nhập cao
Đây là nhu cầu cơ bản đầu tiên của tất cả mọi ngời. Muốn có điều
kiện kinh tế trên để tập trung toàn bộ trí lực vào hoạt động NCKH nhà
khoa học cần phải có thu nhập cao. Cũng nh mọi ngời khác nhà khoa
học cần rất nhiều các khoản chi để giải quyết những vấn đề do cuộc sống
đặt ra. Nếu không có đủ một nguồn thu nhập thờng xuyên đủ lớn thì nhà
khoa học không thể tập trung toàn bộ trí lực vào NCKH. Lơng của một
giảng viên đại học ở Trờng Hành chính công của Sinh-ga-pore với học
hàm tiến sỹ là 100.000 USD một năm tơng đơng với 1,7 tỷ VNĐ. Với
nguồn thu nhập nh vậy ngời giảng viên đó có đủ điều kiện để trang trải
15


mọi chi phí của cuộc sống gia đình và anh ta sẽ tập trung toàn bộ trí lực và
thời gian vào công việc chuyên môn để nâng cao chất lợng nghiên cứu và
giảng dạy. Trong khi đó lơng của một giảng viên đại học ở Việt Nam
khoảng 50 triệu đồng một năm. Điều đó buộc họ phải tìm thêm các việc
làm có thu khác ngoài nhiệm vụ chuyên môn để tăng thêm thu nhập.
Nhng nếu chúng ta càng thêm các nguồn thu khác thì lơng của giảng
viên các trờng đại học ở Việt Nam cũng khó vợt qua con số 150 triệu
đồng một năm, chỉ bằng 1/10 thu nhập của giảng viên Đại học ở Sing-gapore. Điều này cho thấy tại sao chất lợng NCKH và đào tạo ở nớc ta
cha thực sự cao. Qua kinh nghiệm quản lý khoa học nhiều năm chúng tôi
nhận thấy rằng các nhà khoa học Việt Nam dành phần lớn thời gian để tìm
kiếm thêm thu nhập ngoài lơng. Điều này đã làm giảm rất nhiều động
lực tìm kiếm sáng tạo chân lý của họ.
3.2. Nhu cầu thành đạt trong NCKH

Ngoài nhu cầu vật chất các nhà khoa học đều có ớc muốn đợc
thành đạt trong sự nghiệp của mình. Sự thành đạt này đợc thể hiện trong
các giá trị tinh thần đợc xã hội tôn vinh nh học hàm, học vị, các chức vị
quản lý trong hệ thống NCKH, tên tuổi, uy tín đợc nhiều ngời biết đến.
Các danh hiệu nh thạc sỹ, tiến sỹ, phó giáo s, giáo s, viện trởng, viện
phó các viện nghiên cứu, nhà giáo u tú, nhà giáo nhân dân, nhà khoa học
u tú, nhà bác học đều rất đáng quý đối với những ngời hoạt động
trong lĩnh vực NCKH. Trong một số trờng hợp nó trở thành khát vọng
phấn đấu suốt cả một đời. Nhà báo nổi tiếng Lê Bá Thuyên đến năm 63
mới bảo vệ thành công luận án tiến sỹ và ông rất tự hào rằng ớc mơ lớn
từ lâu của ông đã trở thành hiện thực. Các danh hiệu khoa học tuy không
mang lại lợi ích vật chất to lớn, nhng lại là niềm tự hào của các nhà khoa
học. Họ kiên trì phấn đấu cho các chức danh này. Đây là vấn đề giá trị
tinh thần to lớn mà xã hội dành cho sự nỗ lực to lớn của họ.
3.3. Nhu cầu tìm kiếm sáng tạo các tri thức mới
16


Đây là nhu cầu đặc trng nổi bật của các nhà khoa học. Nếu không
có ớc muốn khám phá chân lý sẽ không có nỗ lực vợt bậc trong NCKH
và không có tài năng, không có thiên tài. Nhận thức thế giới là nhu cầu
thuộc tầng thứ t của con ngời, song đối với nhà khoa học đây là nhu cầu
rất quan trọng. Khi đi sâu nghiên cứu một lĩnh vực nào đấy họ muốn
khám phá ra bản chất của các sự vật và hiện tợng và các quy luật vận
động của chúng. Sự tìm kiếm sáng tạo đôi khi không phải chỉ vì mục đích
kinh tế hay đạt danh hiệu cao quý trong khoa học mà do thôi thúc nội tâm
muốn khám phá chân lý. Những nhà khoa học lớn với những phát minh
vạch thời đại là những ngời có lòng say mê NCKH và họ không có ý
thức vụ lợi trong hoạt động của mình. Có một số nhà khoa học sẵn sàng
đánh đổi cả sinh mệnh để tìm ra chân lý. Điều này cho thấy nhu cầu tìm

hiểu khám phá thế giới là nhu cầu nội tại là thôi thúc lớn của các nhà khoa
học.
3.4. Nhu cầu cống hiến cho x hội
Những ngời làm khoa học là những ngời rất có ý thức đối với sự
phát triển của xã hội. Họ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với
đất nớc đối với cộng đồng đối với xã hội. Đó là những ngời đợc đào
tạo rèn luyện từ những môi trờng văn hóa rất cao. Họ là những ngời học
giỏi, có đạo đức và có nhân cách. Thành tích học tập của họ ở các cấp
thờng cao và khi lựa chọn lĩnh vực khoa học để hoạt động họ đều biết
rằng đây là lĩnh vực khó khăn vất vả. Những ngời nào không có trình độ
không có bản lĩnh thờng không thể chịu đựng lâu trong các cơ quan làm
chức năng NCKH. Các nhà khoa học đều hiểu rằng làm việc trong lĩnh
vực này rất khó có thể trở thành giàu có và địa vị cao. Họ chọn con đờng
này vì khoa học làm nên sức mạnh của xã hội. Mỗi một bớc tiến của
khoa học là một nấc thang đa nhân loại đến hạnh phúc. Vì vậy nhà khoa
học có thể hy sinh lợi ích của mình để phục vụ nhân loại Đó là nhu cầu
đợc cống hiến sức lực và trí tuệ cho đất nớc cho quê hơng.

17


3.5. Nhu cầu đợc sống và làm việc trong bầu không khí dân chủ
Bản chất của khoa học là duy lý. Chân lý là động lực và là mục tiêu
của hoạt động khoa học. Vì vậy đối với các nhà khoa học chân lý quan
trọng hơn mọi giá trị tinh thần khác. Mỗi nhà khoa học đều vơn lên
khám phá cái mới với 3 thuộc tính sau đây: tính sáng tạo, tính độc đáo và
tính hữu ích cao. Chỉ có khám phá với giá trị hữu ích cao mới làm vừa
lòng các nhà khoa học. Các hoạt động quản lý hành chính chỉ là phơng
tiện để các nhà khoa học hoạt động có hiệu quả. Vì vậy mọi sự chỉ huy
mang tính mệnh lệnh từ trên xuống bất chấp đúng sai đều gây ức chế đối

với nhà khoa học. Lĩnh vực NCKH là một lĩnh vực cao quý của xã hội. Đó
là cái túi khôn của dân tộc và đất nớc. Vì vậy phải đối xử với các nhà
khoa học nh những con ngời cao quý. Nhà khoa học ở một khía cạnh
nào đó là nhân tài của đất nớc, là nguyên khí của quốc gia. Họ phải đợc
trân trọng phải đợc nâng niu. Mọi sự đối xử thô bạo đều gây phản cảm
đối với họ và do đó hạn chế năng lực sáng tạo. Trong tập thể khoa học
phải có bầu không khí dân chủ mọi ngời phải đợc tự do trình bày và bảo
lu ý kiến của mình. Có nh vậy mới khuyến khích sự tìm tòi chân lý...
Nh vậy, ngoài những nhu cầu rất thông thờng của một con ngời
các nhà khoa học còn có thêm một số nhu cầu riêng rất đặc thù đối với
nghề nghiệp của họ. Họ là những con ngời có nhiều phẩm chất đặc biệt,
đó là thông minh, tài năng, bất toại, ham hiểu biết, thích cống hiến và ớc
muốn vơn lên tự hoàn thiện mình và hoàn thiện xã hội. Nếu nh các nhu
cầu của họ đợc đáp ứng tốt thì sẽ tạo ra những động lực to lớn trong
NCKH và tạo ra nhiều thành tựu tốt đẹp cho xã hội. Ngợc lại nếu nh các
nhà khoa học bị phân tán bởi các tác động tiêu cực thì sẽ không thể đạt
đợc những kết quả xứng đáng với đầu t của nhà nớc. Vì vậy các cơ
quan quản lý khoa học phải cố gắng xây dựng cơ chế quản lý thích hợp để
tạo động lực lớn trong NCKH trên cơ sở đáp ứng đợc những nhu cầu
chính đáng của các nhà khoa học.
4. Cơ chế tạo động lực trong NCKH
18


Nh trên đã trình bày cơ chế quản lý khoa học là những quy định về
mối quan hệ giữa các khâu, các bộ phận các thành tố trong hệ thống quản
lý khoa học đợc đặt ra để vận hành hệ thống nhằm đạt đợc các mục tiêu
đề ra. Trong cơ chế quản lý khoa học có cơ chế tạo động lực trong NCKH
là cơ chế giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích của các nhà khoa học để
họ có điều kiện và ham muốn dành nhiều thời gian sức lực, trí tuệ để

khám phá ra các tri thức khoa học mới. ở đây chúng ta hiểu lợi ích là sự
ngầm định khách quan mà các nhà khoa học nhận đợc giá trị vật chất và
tinh thần xứng đáng với tài năng và sự cống hiến của họ. Sự ngầm định
khách quan này phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
- Tài năng của các nhà khoa học. Tài năng này trớc hết đợc đo
bằng những kết quả học tập của họ để đạt các học vị nh cử nhân, thạc sỹ,
tiến sỹ và những kết quả phấn đấu của họ nh học hàm giáo s, phó giáo
s, nhà khoa học u tú, nhà khoa học nhân dân, viện sỹ, hoặc các nhà
khoa học đợc nhận các giải thởng lớn nh giải thởng Cô-va-lep-xkai-a,
giải thởng Hồ Chí Minh,
- Các cống hiến của các nhà khoa học trong NCKH. Các cống hiến
này đợc thể hiện bằng các công trình khoa học mà họ đã công bố nh
các bài báo đợc đăng, các cuốn sách đợc viết, các phát minh sáng chế
khoa học, những phát hiện khoa học, những hớng nghiên cứu mới Các
cống hiến này trớc hết đã đợc thừa nhận và có giá trị hữu ích cao.
- Công lao của họ trong lĩnh vực đào tạo các thế hệ khoa học mới.
Đó là những nhà khoa học tham gia giảng dạy và đào tạo. Họ có những
cuốn giáo trình, giáo khoa, tập bài giảng có giá trị đào tạo và họ đào tạo
đợc nhiều thế hệ học trò có khả năng tiếp thu và vận dụng tri thức các
lĩnh vực đào tạo vào thực tiễn cuộc sống để nâng cao chất lợng các hoạt
động xã hội. Nhà khoa học không chỉ là phát hiện ra tri thức mới mà họ
còn phải biết truyền tri thức đó cho ngời học và tạo cho họ mong muốn

19


học tập và vận dụng tri thức đó vào cuộc sống. Vì vậy kết quả đào tạo các
thế hệ sau càng đợc coi là những cống hiến to lớn của các nhà khoa học.
- Công lao của các nhà khoa học đối với sự nghiệp nâng cao dân trí
cho toàn xã hội. Phát hiện tri thức khoa học và phổ cập tri thức đó đến

nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của các nhà khoa học. Với chức năng đó
nhà khoa học đã góp phần to lớn vào sự nghiệp nâng cao dân trí, nâng cao
sự hiểu biết của toàn dân. Bác Hồ đã từng nói một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu. Vì vậy nâng cao dân trí là giải pháp quan trọng để giải quyết các
vấn đề xã hội. Trong sự nghiệp nâng cao dân trí các nhà khoa học đóng
góp một phần quan trọng. Vì vậy phải đánh giá cho đúng những kết quả
hoạt động của họ trong lĩnh vực này.
- Đóng góp của các các nhà khoa học trong sự nghiệp cách tân đất
nớc và chống các tệ nạn xã hội. Khoa học là hớng tới cái mới, sáng tạo
những giá trị chân, thiện, mỹ cho xã hội. Nh vậy hoạt động khoa học
cũng đồng nghĩa với việc xóa bỏ cái cũ đã lạc hậu, đã lỗi thời, cái phản
động, cái tiêu cực và những thói xấu trong xã hội. Nhà khoa học phải là
chiến sỹ tiên phong trong các hoạt động cách tân đất nớc. Đóng góp của
nó là bảo vệ và phát triển những cái mới tốt đẹp hơn và xóa bỏ cái cũ đã
lạc hậu. Vì vậy cũng phải đánh giá những đóng góp của họ trong vực này
Nhà quản lý phải căn cứ vào tài năng và cống hiến của các nhà khoa
học để tìm những giá trị vật chất và tinh thần tơng ứng để thù lao cho họ.
Đó là việc giải quyết hợp lý lợi ích của họ. Khi các quan hệ lợi ích đợc
giải quyết hài hoà thì các động lực NCKH đợc tạo ra và phát huy cao độ.
Vì vậy chúng ta có thể khẳng định cơ chế tạo động lực trong NCKH là sự
giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích. ở đây cũng cần phải lu ý là đối
với các nhà khoa học thì lợi ích ở đây bao hàm cả lợi ích kinh tế và các lợi
ích tinh thần khác. Trong nhiều trờng hợp lợi ích tinh thần còn quan
trọng hơn. Nếu nh không có cơ chế để giải quyết hài hòa các lợi ích kinh
tế và tinh thần sẽ gây ra các xung đột trong hoạt động khoa học. Xung đột
trong giới khoa học cũng có thể trải qua bốn giai đoạn.
20


- Giai đoạn ngấm ngầm. Đó là các nhà khoa học thấy mình bị đối

xử không công bằng nhng họ ngại nói ra và sợ bị hiểu nhầm hoặc mất uy
tín. Đây là giai đoạn kéo dài nhất và gây sự phản cảm trong NKCH và hạn
chế động lực NCKH.
- Giai đoạn công khai. Đó là lúc các nhà khoa học đã rất bất bình về
sự bất công bằng đối với mình và đòi hỏi phải thay đổi cách đối xử đó.
Giai đoạn công khai thờng xuất hiện những lời chỉ trách phê bình hoặc
lên án những đối tợng liên quan đến sự bất bình đẳng đó. Khi các nhà
khoa học đã công khai những sự bất bình của mình tức là họ đã phải chủ
động sự bất bình này kéo dài. Nếu không đợc giải quyết tốt sẽ dẫn đến
những hậu quả rất xấu.
Giai đoạn bùng phát. Đó là lúc các nhà khoa học đấu tranh quyết
liệt đòi giải quyết hợp lý các quan hệ lợi ích. Các chủ thể đấu tranh với
nhau, phủ nhận lẫn nhau và tìm cách triệt tiêu lẫn nhau. Giai đoạn này đã
có thể làm tê liệt hầu hết các hoạt động sáng tạo. Các nhà khoa học chỉ
còn quan tâm đến vấn đề lợi ích, các hoạt động sáng tạo bị ngừng trệ.
- Giai đoạn tan rã hoặc hòa giải. Khi mâu thuẫn đạt đến đỉnh điểm
sẽ xuất hiện hai khả năng: Khả năng thứ nhất là hóa giải các mâu thuẫn.
Hệ thống quản lý tự thay đổi để thích hợp với điều kiện mới. Các quyền
lợi chính đáng của các nhà khoa học đợc giải quyết và họ quay trở lại với
công việc hàng ngày. Khả năng thứ hai là hệ thống quản lý bị phá vỡ do
không hóa giải đợc mâu thuẫn. Sẽ có sự thay đổi rất lớn trong cơ cấu tổ
chức. Sự cân bằng bị phá vỡ và hệ thống quản lý mất khả năng kiểm soát
và dẫn đến tan rã. Đây là điều không ai mong muốn xong vẫn phải chấp
nhận do các bên không thể thỏa mãn đợc các giải pháp giải quyết các
xung đột...
Bốn giai đoạn xung đột nêu trên đều có thể xảy ra và có thể giải
quyết trong hệ thống quản lý khoa học. Thờng thờng giai đoạn một xuất

21



hiện và kéo dài và sau đó đợc hóa giải. Nếu giai đoạn hai xẩy ra thì
thờng kéo tới giai đoạn ba.
Các nhà quản lý thờng rất lo ngại khi các xung đột trong tập thể
NCKH bùng phát. Trong trờng hợp đó sự can thiệp của tổ chức đóng một
vai trò quan trọng.
Nh vậy cơ chế tạo động lực trong NCKH là cơ chế giải quyết hài
hòa quan hệ giữa cống hiến và hởng thụ; giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa
quyền hạn và trách nhiệm, giữa danh với thực; giữa cho và lấy của các nhà
khoa học. Nếu nh những cá nhân và tổ chức làm chức năng quản lý khoa
học xây dựng đợc một hệ thống các quy định, quy chế nhằm giải quyết
hài hòa các quan hệ lợi ích thì sẽ tạo ra và phát huy các động lực NCKH.
Ngợc lại nếu nh không có cơ chế rõ để giải quyết hài hòa các quan hệ
lợi ích sẽ tạo ra các xung đột làm triệt tiêu các động lực NCKH. Khi các
động lực NCKH đã bị triệt tiêu thì chỉ còn lại những mu mô và thủ đoạn
để tìm kiếm lợi ích cá nhân, cục bộ nhân danh những giá trị cao cả của
khoa học. Các sản phẩm khoa học ở đây không hớng tới việc phục vụ sự
phát triển của xã hội mà chỉ là phơng tiện để các nhà khoa học vụ lợi.
Nhà bác học A.Anh-Stanh đã từng nói khoa học mà vụ lợi thì không phải
là khoa học chân chính. Mặt khác cơ chế tạo động lực trong NCKH
không chỉ nhằm giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong nghiên cứu
khoa học mà còn có những biện pháp để giáo dục, động viên các nhà khoa
học hớng tới những giá trị chân, thiện, mỹ cao cả, hớng tới những mục
tiêu chung của đất nớc, hớng tới những những giá trị thiêng liêng của
khoa học để nỗ lực phấn đấu trong công việc hàng ngày Nhà khoa học
không chỉ lao động vì lợi ích của riêng mình và còn vì lợi ích của đất
nớc. Trong một số trờng hợp có thể hy sinh lợi ích riêng, vì lợi ích
chung.
5. Một số phơng pháp cơ bản vận dụng vào hoạt động quản lý
để phát huy cơ chế tạo động lực trong NCKH

22


×