Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Luận văn Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.59 KB, 117 trang )

mục lục

mở đầu
Chơng 1:

một số vấn đề lý luận chung về đối tợng

Tra
ng
1
6

chứng minh trong tố tụng hình sự

1.
1.
1.
2.
1.
3.

Chứng minh trong tố tụng hình sự
Đối tợng chứng minh trong vụ án hình sự
Phạm vi - giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự. Vấn đề
xác định đối tợng chứng minh trong vụ án hình sự cụ thể
Chơng 2:

luật tố tụng hình sự về đối tợng chứng minh

6
19


47
56

ở việt nam và một số nớc

2.
1.
2.
2.
2.
3.

Những quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tợng chứng minh
Những quy định của luật tố tụng hình sự một số nớc trên thế
giới về đối tợng chứng minh
So sánh những quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam
với những quy định của luật tố tụng hình sự một số nớc trên
thế giới về đối tợng chứng minh
Chơng 3:

thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến

56
65
75
85

hành tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến
đối tợng chứng minh và một số giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động đó


3.
1.
3.
2.

Thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự Việt Nam liên quan đến đối tợng chứng minh
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối

1

85
100


tîng chøng minh
KÕt luËn
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o

2

109
112


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định đúng đối tợng
chứng minh và chứng minh đầy đủ nó không những đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án đợc đúng đắn mà còn rút ngắn đợc thời gian, giảm chi phí, góp
phần nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên,
thực tiễn cho thấy do không xác định đối tợng chứng minh của từng vụ án một
cách chính xác nên dẫn đến việc Toà án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho
Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc dẫn đến việc giải quyết
vụ án sai sót, không phù hợp với quy định của pháp luật, làm oan ngời vô tội,
bỏ lọt tội phạm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nh: quy định
của pháp luật TTHS về đối tợng chứng minh còn có những điểm bất cập, trình
độ nhận thức cha cao, ý thức chấp hành pháp luật cha nghiêm của ngời tiến
THTT nên việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực
tiễn về đối tợng chứng minh trong TTHS, đánh giá thực trạng quy định của
luật TTHS Việt Nam về đối tợng chứng minh và thực tiễn hoạt động của các
cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tợng chứng minh để từ đó
đề ra giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng nó trong giải quyết vụ án hình sự là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và
mang tính cấp thiết, góp phần nâng cao chất lợng giải quyết vụ án hình sự.
Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài i tng chng minh trong t tng
hỡnh s cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Về Đối tợng chứng minh trong TTHS trong một số giáo trình luật
TTHS của một số trờng đại học cũng nh một số khoá luận cử nhân luật đề cập
đến dới góc độ là một vấn đề của quá trình chứng minh, hoặc do yêu cầu, mục

3


đích của việc nghiên cứu không tập trung chính vào đối tợng chứng minh hay
việc đề cập đến đối tợng chứng minh mới chỉ dừng ở việc phục vụ cho học tập

cơ bản để hiểu về vấn đề nên việc nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ nhất
định, mang tính khái quát sơ bộ về vấn đề. Chẳng hặn nh: trong Giáo trình
luật TTHS Việt Nam của Trờng Đại học Luật Hà Nội năm 2000, ở Chơng III Chứng cứ có đề cập đến: khái niệm đối tợng chứng minh và phân loại đối tợng
chứng minh. Trong khoá luận tốt nghiệp Cử nhân luật học về đề tài: Chứng
minh trong tố tụng hình sự Việt Namcủa tác giả Phạm Thế Lực - K41B Khoa Luật - Đại học QGHN, có đề cập đến: những vấn đề cần phải chứng
minh trong TTHS Việt Nam. Trong khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật học về
đề tài: Đối tợng chứng minh và phơng tiện chứng minh trong vụ án giết ngờicủa tác giả Nguyễn Văn Hoan - K41C - Khoa luật - ĐHQG Hà Nội, có đề
cập đến: đối tợng chứng minh trong vụ án hình sự - trong đó gồm các vấn đề:
khái niệm, nội dung và phân loại đối tợng chứng minh - Nhng việc nghiên cứu
cha thật sâu sắc và toàn diện. Trong luận án Tiến sỹ Luật học về đề tài Thu
thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam
hiện nay của tác giả Đỗ Văn Đơng - bảo vệ năm 2000, có đề cập đến: đối tợng chứng minh - nhng đây không phải là đối tợng nghiên cứu chính của luận
án, nên tác giả cũng chỉ giải quyết vấn đề một cách khái quát chung và làm rõ
mối quan hệ của nó với các vấn đề khác trong luận án để từ đó nhằm phục vụ
cho việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề chính của luận án Nh vậy, có thể
nói rằng cha có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về
đối tợng chứng minh trong TTHS với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên
biệt về vấn đề. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đối tợng chứng minh trong
TTHS là cần thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu
của luận văn
- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn

4


đề lý luận và thực tiễn về đối tợng chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS nớc ta về
đối tợng chứng minh có so sánh với quy định của luật TTHS một số nớc trên
thế giới về vấn đề này, đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT

hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tợng chứng minh, tìm ra những điểm
còn tồn tại, bất cập từ đó bớc đầu đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện về mặt lập pháp có liên quan đến đối tợng chứng minh và nâng cao hiệu
quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao chất lợng giải quyết
vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt đợc mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu
luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tợng chứng
minh trong TTHS;
Nghiên cứu và so sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam và
luật TTHS của một số nớc trên thế giới về đối tợng chứng minh;
Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở
Việt Nam liên quan đến đối tợng chứng minh;
Đa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của luật TTHS Việt
Nam về đối tợng chứng minh và giải pháp nâng cao hiệu quả
thực tiễn áp dụng những quy định đó của các cơ quan THTT
hình sự ở Việt Nam.
- Đối tợng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về đối tợng chứng minh trong TTHS. Nghiên cứu, so sánh những quy định của luật
TTHS Việt Nam và luật TTHS một số nớc trên thế giới về đối tợng chứng
minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt
Nam liên quan đến đối tợng chứng minh.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về đối tợng chứng minh trong TTHS

5


một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả các giai đoạn tố tụng: điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay, chủ yếu
tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở chừng
mực nhất định có liên quan đến khoa học luật hình sự, tội phạm học và khoa

học điều tra hình sự. Nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam, BLTTHS
Liên bang Nga, BLTTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, BLTTHS Cộng hoà
Pháp về đối tợng chứng minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của các Cơ quan
THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tợng chứng minh trong khoảng thời
gian 5 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa
học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình
sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS
thực định và hoạt động chứng minh, giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan
THTT cũng nh các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hớng dẫn
về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự.
- Phơng pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh phơng pháp: hệ thống, lôgic, phân tích,
tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng
hình sự, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về đối tợng
chứng minh trong TTHS.

6


- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS Việt Nam về đối
tợng chứng minh. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan

THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tợng chứng minh, tìm ra những
nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tợng chứng minh và
nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của luật TTHS về đối tợng chứng
minh.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có
thể đợc khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ quan
THTT hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi
BLTTHS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến đối tợng chứng
minh để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan THTT có thể khai thác vận dụng
những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lợng, hiệu quả hoạt
động của mình trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự.
7.Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu còn tham
khảo, Luận văn gồm 3 chơng với 8 mục.

7


Chơng 1
Một số vấn đề lý luận chung về đối t ợng chứng
minh trong tố tụng hình sự

1.1- Chứng minh trong tố tụng hình sự

Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của con ngời. Hoạt
động chứng minh của con ngời đợc tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thì hoạt động chứng minh có

những nét khác nhau. Tuy nhiên, hoạt động chứng minh có đặc điểm chung là
việc chủ thể sử dụng những phơng tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan,
khẳng định tính đúng đắn của một vấn đề nào đó để tìm ra chân lý.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn nh: giai
đoạn khởi tố; giai đoạn điều tra và truy tố; giai đoạn xét xử ở mỗi giai đoạn
có nhiệm vụ và định hớng khác nhau nhng đều hớng tới mục đích giải quyết
vụ án khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan
THTT thực hiện. Quá trình này đợc bắt đầu từ việc cơ quan có thẩm quyền
nhận đợc tin báo, tố giác về các sự kiện phạm tội (hoặc sự kiện có dấu hiệu
của tội phạm) đã xảy ra trong đời sống xã hội, chính vì vậy, để giải quyết vụ
án hình sự thì vấn đề mang tính tất yếu và đợc pháp luật TTHS quy định là:
các cơ quan THTT phải tiến hành chứng minh để làm rõ và khôi phục lại toàn
bộ sự thật khách quan của vụ án và làm sáng tỏ những vấn đề khác có liên
quan đến vụ án.
Quá trình chứng minh khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án
chính là quá trình nhận thức chân lý khách quan về vụ án. Cơ sở lý luận của
hoạt động nhận thức này chính là lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin.
Lý luận nhận thức Mác - Lênin khẳng định rằng: nhận thức là sự phản ánh
biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển
không ngừng từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tợng đến
bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm đợc bản chất quy luật của

8


sự việc và hiện tợng. Trong thế giới khách quan, không có cái gì là con ngời
không thể nhận thức đợc, mà chỉ có những cái con ngời cha nhận thức đợc nhng dần dần cũng sẽ nhận thức đợc.
Nh vậy, theo nguyên lý của lý luận nhận thức thì không có sự vật, hiện
tợng gì mà con ngời không nhận thức đợc, vì thế không thể có tội phạm không
bị phát hiện, chỉ có điều chúng ta có vận dụng một cách khách quan quy luật

nhận thức trong quá trình chứng minh làm rõ vụ án hay không. Trong thực tế
tuy rằng không phải mọi tội phạm đều đợc phát hiện khám phá, nhng điều đó
không có ý nghĩa rằng vể bản chất của con đờng nhận thức sự thật khách quan
của vụ án là có giới hạn mà ở đây chỉ là do sự hạn chế về khả năng nhận thức
của từng cá nhân và sự khó khăn về điều kiện nhận thức trong từng tr ờng hợp
cụ thể đó.
Nhng quá trình nhận thức sự thật khách quan của vụ án hình sự không
phải là quá trình nhận thức trực tiếp mà là quá trình nhận thức gián tiếp về vụ án.
Bởi vì, khi đó sự việc phạm tội không phải là đang xảy ra một cách hiện hữu để
chúng ta nhận thức, mà trên thực tế sự việc phạm tội đã xảy ra, vì vậy các cơ
quan THTT phải nhận thức khôi phục lại nó thông qua việc phát hiện thu thập và
đánh giá những dấu vết mà nó để lại trong hiện thực khách quan.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì: thế giới thống
nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất luôn vận động và phát triển, mọi sự vật
hiện tợng trong thế giới luôn có mối liên hệ, tác động với nhau, ràng buộc lẫn
nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Phép biện chứng cũng chỉ ra rằng
phản ánh là thuộc tính của chung của mọi đối tợng vật chất, V. I -Lênin viết:
Hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống nh cảm
giác, đặc tính phản ánh[8, tr 104]. Bởi vậy về nguyên tắc, hoạt động của con ngời
nói chung và hành vi phạm tội nói riêng bao giờ cũng để lại dấu vết trong thế
giới khách quan. Những dấu vết của hành vi phạm tội có thể đợc thể hiện dới
dạng vật chất hoặc đợc phản ánh ghi nhận trong trí nhớ của con ngời. Vì vậy,
thông qua việc thu thập những dấu vết này một cách có hệ thống trong quá

9


trình THTT sẽ đa đến sự nhận thức đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại đợc
toàn bộ diễn biến của sự việc phạm tội. Quá trình thu thập những dấu vết của
tội phạm và những thông tin có liên quan đến vụ án (thu thập chứng cứ) để

nhận thức khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án - chính là quá trình
chứng minh trong TTHS.
Hoạt động chứng minh trong TTHS do những chủ thể nhất định tiến
hành bằng việc phát hiện, thu thập chứng cứ từ các nguồn khác nhau và sử
dụng chứng cứ từ những nguồn này làm phơng tiện chứng minh làm rõ các
vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Những vấn đề về chủ thể chứng
minh, chứng cứ, các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng
nh trình tự thủ tục trong quá trình chứng minh đều đợc pháp luật quy định.
Tuy nhiên, trong lịch sử hoạt động t pháp, ở những giai đoạn lịch sử nhất định
tuỳ thuộc vào trình tự tố tụng đợc tiến hành theo các kiểu khác nhau hoặc do
quan điểm, cơ sở phơng pháp luận dựa trên cơ sở các học thuyết khác nhau
nên pháp luật ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, ở các nớc khác nhau quy định
về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh, chứng cứ, những vấn đề cần phải chứng
minh trong vụ án hình sự có sự khác nhau.
1.1.1. Chủ thể chứng minh trong tố tụng hình sự
Chứng minh là hoạt động nhận thức chân lý khách quan của con ngời
nên ở phơng diện chung nhất con ngời là chủ thể của hoạt động chứng minh.
Nhng hoạt động chứng minh đợc tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội, mà trong từng lĩnh vực chứng minh khác nhau có một phạm vi những
cá nhân con ngời cụ thể nhất định tham gia vào hoạt động chứng minh đó - tức
là hoạt động chứng minh trong mỗi lĩnh vực khác nhau thì có những chủ thể
cụ thể khác nhau tiến hành hoạt động chứng minh đó.
Hoạt động chứng minh trong TTHS là hoạt động có mục đích làm
sáng tỏ nội dung của vụ án và những tình tiết có liên quan đến vụ án, nên
những những ngời tham gia vào hoạt động này là những chủ thể chứng minh

10


trong TTHS. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ hoặc tuỳ thuộc vào

quyền và lợi ích v.v của các chủ thể có sự khác nhau nên mức độ tham gia
cũng nh giai đoạn tham gia vào hoạt động chứng minh của từng chủ thể có sự
khác nhau.
Thông thờng thì chủ thể chứng minh trong TTHS chủ yếu là các cơ
quan THTT và ngời THTT. Theo luật TTHS Việt Nam thì đó là các cơ quan
THTT và ngời THTT nh: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; Thủ trởng,
Phó Thủ trởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trởng, Phó viện trởng
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán
nhóm chủ thể này giữ vai trò chính trong hoạt động chứng minh toàn bộ nội
dung của vụ án và những tình tiết có liên quan đến nội dung của vụ án và kết
quả chứng minh của họ mang tính pháp lý cao. Tuy nhiên do chức năng,
nhiệm vụ của từng chủ thể có sự khác nhau nên giai đoạn tham gia chứng
minh cũng nh phạm vi, mức độ chứng minh của họ cũng có sự khác nhau nhất
định.
Theo luật TTHS Việt Nam thì các cơ quan Bộ đội Biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, Lực lợng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân cũng đợc giao tiến hành một số hoạt động điều
tra khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu TNHS trong
lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lợng cảnh sát biển có thẩm quyền: đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong
những trờng hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch ngời phạm tội rõ
ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra vụ án và
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mơi ngày
kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhng phức
tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu
và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày
kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; trong Công an nhân dân, Quân đội

11



nhân dân, các cơ quan khác khi đợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra
trong khi làm nhiệm vụ của mình nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm
thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu và
chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Nh vậy những cơ quan này cũng là chủ
thể chứng minh trong TTHS, nhng phạm vi tham gia cũng nh mức độ tham gia
chứng minh của các cơ quan này chỉ ở một giới hạn và chừng mực nhất định
mà không giống nh các cơ quan THTT.
Ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là những chủ thể
chứng minh trong TTHS. Mục đích tham gia chứng minh của họ là để bảo vệ
quyền lợi của mình nên phạm vi tham gia và mức độ chứng minh của họ chủ
yếu nhằm chứng minh họ không có tội hoặc chứng minh các tình tiết giảm
nhẹ TNHS và giảm nhẹ mức bồi thờng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Ngời bị hại, nguyên đơn dân sự, ngời có quyền lợi liên quan là chủ thể
tham gia chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Sự tham gia của họ
thờng tập trung vào những việc họ bị tội phạm gây thiệt hại, mức độ thiệt hại
để từ đó đa ra yêu cầu bồi thờng.
Bị đơn dân sự, ngời có nghĩa vụ liên quan cũng là chủ thể tham gia
chứng minh nhằm bác yêu cầu của nguyên đơn, ngời có quyền lợi liên quan
nhằm giảm trách nhiệm, nghĩa vụ của họ.
Ngời bào chữa, ngời bảo vệ quyền lợi của đơng sự tham gia chứng
minh những tình tiết liên quan đến việc bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi cho đơng sự tức là chứng minh những tình tiết
có lợi cho bị can, bị cáo hoặc đơng sự.
Tuy ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngời có quyền lợi và nghĩ vụ liên quanlà những
chủ thể có quyền tham gia chứng minh nhng không phải là vụ án nào cũng có
tất cả những ngời tham gia mà tuỳ theo từng vụ án cụ thể có thể chỉ có một số


12


ngời tham gia, cũng có thể có vụ án không có ngời nào trong số những ngời
này tham gia chứng minh vì đó là quyền của họ. Mặt khác sự chứng minh của
họ đôi khi vì những lý do cá nhân mà không thể hiện tính khách quan cao.
Theo luật TTHS thờng thì kết quả chứng minh của những ngời này cha có giá
trị pháp lý chính thức mà vẫn phải thông qua sự đánh giá, kết luận của các cơ
quan THTT.
Ngoài ra, trong TTHS còn có sự tham gia của ngời làm chứng, ngời
phiên dịch và đôi khi còn có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội, cá
nhân khác. Sự tham gia của những ngời này nhằm cung cấp những tài liệu,
chứng cứ phục vụ cho quá trình chứng minh. Những ngời này không phải chủ
thể chứng minh bởi vì họ không có mục đích trực tiếp nhằm chứng minh nội
dung vụ án và các tình tiết liên quan đến vụ án. Họ cũng chỉ tham gia tố tụng
khi đợc các cơ quan THTT yêu cầu.
1.1.2. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự
Nh chúng ta đã biết có rất nhiều chủ thể chứng minh trong TTHS. Nhng trong số những chủ thể đó, có những chủ thể thì việc tham gia chứng minh
là quyền của họ nên họ có thể thực hiện quyền đó hoặc không thực hiện quyền
đó. Ngợc lại có những chủ thể luật TTHS quy định họ có nghĩa vụ phải chứng
minh - tức là họ bắt buộc phải tham gia vào hoạt động chứng minh. Tuy nhiên,
tuỳ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, tuỳ thuộc vào trình tự tố tụng đợc tiến
hành theo các kiểu khác nhau hoặc cơ sở, phơng pháp luận dựa trên các học
thuyết khác nhau nên luật TTHS ở các nớc khác nhau, ở các giai đoạn lịch sử
khác nhau quy định về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh có sự khác nhau.
Với hình thức tố tụng kiểu tố cáo, Luật La Mã quy định nghĩa vụ
chứng minh thuộc về ngời tố cáo. Ngoài việc tố cáo, ngời tố cáo còn đa ra
những chứng cứ liên quan đến việc tố cáo ấy, vì vậy lời tố cáo của một ngời
nào đó về tội phạm vừa là căn cứ xuất hiện trình tự để giải quyết vụ án, vừa là
căn cứ buộc tội đối với ngời bị tố cáo. Khi hình thức tố tụng kiểu thấm vấn ra


13


đời thay thế hình thức tố tụng kiểu tố các thì Biện lý xuất hiện. Biện lý là ngời
đại diện cho quyền lực nhà Vua có trách nhiệm điều tra, thu thập chứng cứ và
duy trì sự buộc tội trớc toà án. Hình thức tố tụng kiểu thẩm vấn phát triển
mạnh ở Pháp vào thế kỷ XIV, ở Đức thế kỷ XVI. Khoảng đầu thế kỷ XVIII ở
nớc Nga xuất hiện Cơ quan công tố, cơ quan này chịu trách nhiệm chứng
minh hầu hết các vụ án hình sự, chỉ trừ một phạm vi rất nhỏ những vụ án t tố
mà ở đó ngời bị hại có nghĩa vụ chứng minh tính có căn cứ của sự việc mà họ
tố cáo. Ngày nay trong luật TTHS của các nớc t bản, nghĩa vụ chứng minh là
do Cơ quan điều tra, Cơ quan công tố thực hiện, có nớc còn do Thẩm phán
thực hiện nh ở Italia. Tuy nhiên ở các nớc t bản Luật s cũng có quyền thu thập
chứng cứ, trách nhiệm của Luật s là tìm kiếm, thu thập những bằng chứng
ngoại phạm, những chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can và
chuẩn bị thẩm tra nhân chứng trớc toà.
Trong hệ thống pháp luật XHCN, luật TTHS quy định nghĩa vụ chứng
minh thuộc về các cơ quan THTT, cụ thể, tại Điều 11 BLTTHS năm 1988 và
Điều 10 BLTTHS năm 2003 của nớc ta quy định: Trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Việc quy định nghĩa vụ chứng
minh thuộc về các cơ quan THTT, bởi lẽ: quan hệ pháp luật hình sự có nội
dung là mối quan hệ giữa nhà nớc và ngời phạm tội, nhà nớc với t cách là chủ
thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quy định hành vi nào là tội phạm,
đồng thời buộc ngời có hành vi phạm tội phải gánh chịu những hậu quả pháp
lý bất lợi bằng bản án, Quyết định của Toà án hoặc các Quyết định của cơ
quan có thẩm quyền. Để truy cứu trách nhiệm hình sự một ngời, nhà nớc phải
có những chứng cứ chứng minh hành vi của họ là phạm tội, nếu không đủ
chứng cứ thì không thể buộc tội và truy cứu TNHS họ. Vì vậy, để có chứng cứ

chứng minh hành vi của ngời nào đó là tội phạm, nhà nớc thành lập ra các cơ
quan chuyên trách làm nhiệm vụ chứng minh tội phạm. ở nớc ta, các cơ quan
đó là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Bị can, bị cáo có quyền đa ra

14


những chứng cứ chứng minh mình vô tội hoặc có quyền đa ra các tình tiết
giảm nhẹ TNHS đối với họ, nhng đây không phải là nghĩa vụ của họ.
Để làm sáng tỏ vụ án hình sự, ngoài nghĩa vụ chứng minh của các cơ
quan THTT, thì đòi hỏi có sự tham gia tích cực của những ngời tham gia tố
tụng và các chủ thể khác. Tuy nhiên sự tham gia của các chủ thể này không
phải là họ có trách nhiệm chứng minh vụ án mà là họ có trách nhiệm cung cấp
những tài liệu, thông tin liên quan đến vụ án và cơ quan THTT có thể sử dụng
những tài liệu, thông tin này làm chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự.
1.1.3. Đối tợng chứng minh trong tố tụng hình sự
ở phơng diện chung nhất thì toàn bộ thực tiễn khách quan là đối tợng
của nhận thức nhằm tìm ra những quy luật của thế giới tự nhiên, xã hội và t
duy. Nhng ở giai đoạn lịch sử cụ thể thì đối tợng của nhận thức lại có phạm vi
nhất định. Mặt khác, tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng lĩnh vực hoạt
động nhận thức cụ thể mà trong mỗi lĩnh vực của hoạt động nhận thức lại có
đối tợng nhận thức riêng. Hoạt động chứng minh trong TTHS chính là quá
trình nhận thức làm sáng tỏ nội dung của vụ án và các tình tiết có liên quan
đến vụ án. Suy cho cùng mục đích của hoạt động chứng minh trong TTHS là
để phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phục vụ cho việc
đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi vậy, đối tợng chứng minh trong TTHS là
tổng hợp những vấn đề cha biết nhng các cơ quan THTT cần phải biết để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm và
những vấn đề này đợc luật TTHS quy định các cơ quan THTT phải chứng
minh làm rõ.

Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội phạm không giống
nhau nên đối tợng chứng minh ở mỗi vụ án có những phạm vi và yêu cầu khác
khác nhau. Tuy vậy, tội phạm đều có những đặc điểm, quy luật chung giống
nhau và đợc khái quát thành những vấn đề chung nhất mà những vấn đề này đơc luật TTHS quy định một cách trực tiếp cụ thể hoặc quy định một cách gián

15


tiếp và thờng phải chứng minh trong bất kỳ vụ án nào.Chẳng hạn luật TTHS
Việt Nam quy định phải chứng minh: có hành vi phạm tội xảy ra hay không,
thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hàng vi phạm tội; ai là ngời
thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng
lực TNHS hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào tính chất, hoàn cảnh của từng vụ án cụ thể
mà có thể có những vấn đề không cần phải chứng minh vì nó rõ ràng là đã
không xảy ra trong vụ án đó. Ví dụ: trong vụ án mà ngời phạm tội mới có
hành vi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm
trọng thì bị phát hiện, xử lý. Nh vậy, trong vụ án này rõ ràng là hậu quả của
tội phạm cha xảy ra nên không phải chứng minh nó.
Mặt khác, trong luật TTHS còn quy định phải chứng minh các tình tiết
khác có liên quan đến vụ án, mà những tình tiết này có thể chỉ phải chứng
minh trong vụ án cụ thể nào đó chứ không phải chứng ming trong bất kỳ vụ án
nào. Hoặc có những tình tiết, vấn đề chỉ phải chứng minh khi phát sinh những
hoạt động tố tụng có liên quan. Chẳng hạn nh: những tình tiết là căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam chỉ phải chứng minh nó khi các cơ quan THTT áp
dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo.
Đối tợng chứng minh trong TTHS - là nội dung chính của Luận văn
nên những vấn đề liên quan đến nó sẽ tiếp tục đợc làm rõ ở một số mục tiếp
theo của Luận văn.

1.1.4. Qúa trình chứng minh
Trong TTHS, chứng minh đợc hiểu là việc sử dụng các chứng cứ để làm
sáng tỏ bản chất và các tình tiết của vụ án. Trong quá trình chứng minh vụ án hình
sự bao gồm các bớc sau: phát hiện, thu thập, kiểm tra, và đánh giá chứng cứ.
Phát hiện chứng cứ là tìm ra những sự vật, hiện tợng, tài liệu có mang

16


dấu vết, thông tin liên quan đến vụ án hình sự. Việc phát hiện chứng cứ đợc
tiến hành bằng nhiều biện pháp do luật TTHS quy định nh: Khám nghiệm hiện
trờng, xác minh sự việc
Thu thập chứng cứ là việc ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của
các cơ quan THTT làm cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh. Việc thu
thập chứng cứ do những chủ thể đợc luật TTHS quy định tiến hành bằng
những biện pháp cũng do luật TTHS quy định.
Kiểm tra chứng cứ là việc xem xét xác định tính xác thực, tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ. Chỉ những tài liệu đã đợc
kiểm tra và có các đặc điểm của chứng cứ thì mới đợc coi là chứng cứ để sử
dụng chứng minh vụ án. Việc tiến hành kiểm tra chứng cứ đợc tiến hành bằng
các biện pháp nh: phân tích từng thuộc tính của chứng cứ xem các thuộc tính
đó có phù hợp với thực tế khách quan hay không, có bảo đảm giá trị chứng
minh hay không; so sánh giữa các chứng cứ đã thu thập đợc với nhau xem có
phù hợp không, nếu có mâu thuẫn thì do đâu, từ đó tìm các chứng cứ mới để
làm sáng tỏ những chứng cứ đã thu thập đợc.
Đánh giá chứng cứ là hoạt động phân tích nhằm xác định giá trị chứng
minh của chứng cứ đối với những vấn đề cần làm rõ trong vụ án hình sự. Khi
đánh giá chứng cứ cần phải dựa trên cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật TTHS, ý
thức pháp luật và niềm tin nội tâm của ngời đánh giá để xác định giá trị, ý nghĩa
của chứng cứ trong mối liên hệ với những vấn đề cần phải chứng minh, xem

chứng cứ này có giá trị chứng minh vấn đề gì trong vụ án, và tổng hợp các
chứng cứ đã đủ cơ sở làm rõ và kết luận về vụ án cha, nếu cha đủ chứng cứ để kết
luận về vụ án thì cần phải tiếp tục thu thập thêm chứng cứ.
Nh vậy: Chứng minh trong TTHS là quá trình các cơ quan THTT, ngời
THTT trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật TTHS tiến hành phát
hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và sử dụng các chứng cứ này làm
phơng tiện, căn cứ để xác định, làm rõ tất cả những vấn đề liên quan đến vụ

17


án hình sự mà những vấn đề này luật quy định các cơ quan THTT cần phải
biết khi giải quyết vụ án hình sự.
1.1.5. Chứng cứ trong tố tụng hình sự
Trong TTHS chứng cứ đợc dùng làm căn cứ chứng minh. Bởi vậy, để
đảm bảo cho những vấn đề đợc chứng minh là đúng đắn phù hợp với sự thật
khách quan thì đòi hỏi không những hoạt động chứng minh phải dựa trên
những cở, phơng pháp luận khoa học mà còn đòi hỏi những quy định của pháp
luật về chứng cứ nh: chứng cứ là gì, cái gì đợc coi là chứng cứ cũng phải
bảo đảm tính khoa học.Nhng nghiên cứu trong lịch sử pháp lý cho thấy đã
từng có các quan điểm khác nhau về chứng cứ trong TTHS nh:
Quan điểm thần học, tôn giáo xuất phát từ phơng pháp luận duy tâm
cho rằng Đấng tối cao, Thần linh, Chúa trời đã tạo ra thế giới, tạo ra
con ngời, tạo ra tội phạm thì cũng là ngời phán xét tội phạm. Theo quan điểm
này, ngời bị tình nghi phạm tội phải chịu những thử thách vô lý, dã man nh:
Nhúng tay vào nớc sôi trong khoảng thời gian nhất định hoặc đập đầu vào
đá... nếu tay họ không bị bỏng hoặc đầu không bị chảy máu thì họ đợc coi là
vô tội, còn ngợc lại thì họ bị coi là thủ phạm. Hoặc quan toà tổ chức cho ngời
bị tố cáo và ngời tố cáo quyết đấu, chiến thắng đợc coi là chứng cứ có giá trị
nhất và ngời chiến thắng đợc Toà án tuyên không có tội hoặc lời xám hối của

các Con chiên về các hành vi tội lỗi của mình trớc bề trên đợc coi là chứng cứ
buộc tội. Từ những điều trên, cho thấy quan điểm duy tâm, tôn giáo về
chứng cứ là sự thể hiện t tởng thần quyền của các nhà nớc thời trung cổ,
nó không mang tính khoa học, trái với quy luật khách quan.
Quan điểm về chứng cứ của trình tự tố tụng kiểu tố cáo coi lời tố cáo
của một ngời nào đó chính là chứng cứ buộc tội đối với ngời bị tố cáo. Nếu
ngời bị tố cáo không có chứng cứ hoặc không có khả năng bác bỏ lời tố cáo
thì họ sẽ bị coi là phạm tội. Lời nhận tội của ngời bị tố cáo đợc coi là chứng
cứ có giá trị nhất, nên quan toà thờng áp dụng cực hình đối với ngời bị tố cáo

18


để họ nhận tội. Vì vậy, chứng cứ của trình tự tố tụng kiểu tố cáo thể hiện sự
đơn giản hoá trong việc chứng minh vụ án hình sự, thờng dẫn đến sự đánh giá
sai lệch, không khách quan của quan toà khi giải quyết vụ án hình sự.
Trong trình tự tố tụng kiểu thẩm vấn lại có quan điểm hình thức về
chứng cứ. Theo đó, hệ thống chứng cứ là một loạt các quy tắc đợc quy định trớc trong luật, có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan THTT khi giải quyết
vụ án hình sự. Cụ thể, những gì là chứng cứ để chứng minh tội phạm và đối
với mỗi loại tội phạm thì cần chứng cứ gì, số lợng bao nhiêu đều đợc quy định
sẵn trong luật. Các cơ quan THTT chỉ cần tìm đủ số lợng và chủng loại chứng
cứ đợc quy định trong luật đối với loại tội phạm đó mà họ không cần phải tìm
thêm chứng cứ nào khác khi kết luật tội phạm, ngợc lại khi không tìm đủ số lợng và chủng loại chứng cứ mà luật đã quy định thì không có căn cứ kết luận
tội phạm. Quan điểm hình thức về chứng cứ tuy hạn chế đợc sự tuỳ tiện của
các cơ quan tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự, nhng nó cũng buộc lộ
nhiều hạn chế nh: hạn chế khả năng thu thập, phân tích, đánh giá chứng cứ
của các cơ quan THTT, không bảo đảm đầy đủ tính khoa học, khách quan
trong quá trình chứng minh vụ án hình sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc làm
oan ngời vô tội. Quan điểm hình thức về chứng cứ phát triển và ảnh hởng đến
hầu hết các BLTTHS của các nớc châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII,

ngày nay nó vẫn còn đợc biểu hiện trong Luật TTHS của một số nớc trong hệ
thống pháp luật Anh - Mỹ.
Quan điểm nhân chủng học về chứng cứ cho rằng, quá trình thu thập
chứng cứ trong việc giải quyết vụ án hình sự là quá trình xác định cấu trúc,
đặc điểm cơ thể và tính cách con ngời. Tuy quá trình này đợc dựa chủ yếu
bằng phơng pháp nhận dạng và giám định pháp y nên về hình thức dờng nh nó
có căn cứ khoa học. Nhng trên thực tiễn cho thấy cấu trúc cơ thể con ngời
không phải là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và do vậy không thể lấy
cấu trúc cơ thể con ngời thông qua giám định pháp y làm chứng cứ để chứng
minhh tội phạm, mà quá trình hình thành hành vi phạm tội cuả con ngời chịu

19


sự tác động của các hiện tợng, hoàn cảnh, môi trờng của xã hội.
Đến giữa Thế kỷ XVIII quan điểm hình thức về chứng cứ bị phản bác,
thay vào đó là quan điểm niềm tin nội tâm tự do của Thẩm phán về chứng cứ.
Theo quan điểm này thì vai trò của Thẩm phán đợc đề cao trong hoạt động
chứng minh tội phạm, đợc toàn quyền quyết định về tội phạm một cách tuỳ
thuộc vào niềm tin nội tâm của mình, không phải đa ra bất kỳ căn cứ nào miễn
là khẳng định đợc sự tin tởng vào sự đúng đắn của các quyết định.
Theo lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì: Con ngời có khả
năng nhận thức các quy luật, hiện tợng của thế giới khách quan, tìm ra chân
lý. Quá trình nhận thức của con ngời từ trực quan sinh động đến t duy trừu tợng, từ cha biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tợng đến bản chất.
Về nguyên tắc, không có sự vật, hiện tợng nào là không thể nhận thức đợc, mà
chỉ có sự vật, hiện tợng cha đợc nhận thức mà thôi. Bởi vậy, mọi tội phạm xảy
ra trên thực tế con ngời đều có thể phát hiện chứng minh đợc. Cũng theo lý
luận duy vật biện chứng thì mọi sự vật đều có thuộc tính phản ánh. Với thuộc
tính phản ánh của sự vật nên mọi hoạt động của con ngời trong đó các hành vi
phạm tội đều để lại dấu vết trong thế giới khách quan. Dấu vết của hành vi

phạm tội có thể đợc thể hiện dới dạng vật chất nh: Dấu vết trên công cụ, phơng
tiện phạm tội, dấu trên để lại trên hiện trờng hoặc đợc phản ánh, ghi nhận
trong trí nhớ của con ngời, có thể là nạn nhân hay nhân chứng. Từ việc thu thập
đầy đủ, có hệ thống các dấu vết này con ngời có thể nhận thức đợc diễn biến
của hành vi phạm tội đã xảy ra. Chính từ việc dựa trên cơ sở lý luận nhận thức
của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, nên khoa học luật TTHS của các nớc đi theo con
đờng XHCN đã xác định chứng cứ là những tài liệu thực tế, là những gì có thật
để chứng minh tính chân lý của vụ án.
Khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1988 cũng nh Khoản 1 Điều 64 BLTTHS
năm 2003 của nớc ta quy định: Chứng cứ là những gì có thật, đợc thu thập
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm

20


sát và Toà án dùng làm căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội,
ngời thực hiện hành vi phạm tội cũng nh những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Theo quy định trên cho thấy chứng cứ có các đặc điểm sau:
1/ Tính khách quan: Tức là những tài liệu, sự vật, hiện tợng là chứng
cứ phải có thật tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con ngời.
2/ Tính liên quan: Tức là những sự vật, hiện tợng có thật, tồn tại khách
quan chỉ đợc coi là chứng cứ khi có liên quan đến vụ án, khi nó chứng minh
cho vấn đề cần biết nhng cha biết trong vụ án hình sự.
3/ Tính hợp pháp: Tức là chứng cứ đợc chứa đựng ở những nguồn và
thu thập bằng biện pháp do luật TTHS quy định.
Theo quy định của luật TTHS Việt Nam thì chứng cứ đợc phản ánh và
chứa đựng trong các nguồn sau: vật chứng; lời khai của ngời làm chứng, ngời
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên

bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
1.2. Đối tợng chứng minh trong vụ án Hình sự

1.2.1. Khái niệm
Trong giải quyết vụ án hình sự, để ra đợc các quyết định hoặc bản án
đúng đắn, khách quan phù hợp với quy định của pháp luật thì về nguyên tắc,
đòi hỏi các cơ quan THTT phải làm sáng tỏ bản chất của vụ án và những vấn
đề có liên quan đến vụ án - Tức là phải làm rõ các vấn đề nh: sự việc phạm tội,
ngời thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, trách nhiệm hình
sự đối với ngời phạm tội, nhân thân ngời phạm tội bởi lẽ, chính những vấn
đề này là cơ sở để xác định tội phạm, xác định trách nhiệm hình sự đối với ngời phạm tội, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cũng nh xác định trách nhiệm

21


bồi thờng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra của ngời phạm tội Việc giải
quyết vụ án hình sự chỉ phát sinh sau khi có tội phạm xảy ra, vì vậy để xác định
đợc bản chất diễn biến của vụ án, các cơ quan THTT phải tiến hành thu thập
chứng cứ và sử dụng chứng cứ để chứng minh làm rõ các vấn đề trong vụ án,
mà các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự này đợc khoa học luật
TTHS gọi là đối tợng chứng minh trong vụ án hình sự.
Nhng trong vụ việc phạm tội có rất nhiều tình tiết, có tình tiết có ý
nghĩa, giá trị làm cơ sở cho việc giải quyết, xử lý đúng đắn vụ án, có những
tình tiết lại hầu nh không có ý nghĩa gì trong việc giải quyết vụ án. Chẳng hạn
nh trong một vụ trộm cắp tài sản - Ngời phạm tội là A đã dùng kìm bẻ gẫy
khuy cửa nhà của gia đình hàng xóm rồi vào nhà lấy trộm chiếc tivi mang về
nhà mình cất giấu. ở đây, các tình tiết nh việc A dùng kìm bẻ gẫy khuy cửa, A
vào nhà hàng xóm lấy trộm ti vi là những tình tiết có ý nghĩa thể hiện hành vi
phạm tội trộm cắp tài sản của A. Còn tình tiết A cầm kìm bẻ khuy cửa bằng
tay phải hay tay trái, khi lấy ti vi A bê hay xách ti vi thì hầu nh không có ý

nghĩa pháp lý gì đối với việc giải quyết vụ án cũng nh không ảnh hởng gì đến
việc kết luận hành vi phạm tội của A và việc xử lý đối với A. Bởi vậy, đối tợng
chứng minh trong vụ án hình sự không phải là tất cả các tình tiết, các vấn đề
của sự việc phạm tội xảy ra trên thực tế, cũng nh không phải tất cả các vấn đề
liên quan đến vụ án mà chỉ cần chứng minh những vấn đề có ý nghĩa để làm
rõ nội dung, bản chất của vụ án. Những vấn đề liên quan đến TNHS của ngời
phạm tội và các vấn đề cần thiết khác liên quan đến vụ án để trên cơ sở đó các
cơ quan THTT ra đợc các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án
và đề ra biện pháp thích hợp để phòng ngừa tội phạm.
Vụ việc phạm tội xảy ra trên thực tế rất đa dạng, chúng có thể khác
nhau về tính chất, mức độ, hoàn cảnh Nh ng mọi tội phạm đều có bản chất
chung và việc giải quyết vụ án cũng nh việc xử lý ngời phạm tội đều có những
nguyên tắc chung, nên chúng ta vẫn có thể rút ra đợc những vấn đề chung nhất

22


mà khi giải quyết bất kỳ vụ án hình sự nào cũng phải chứng minh đó là những
vấn đề thuộc về bản chất của vụ án và những vấn đề liên quan đến việc xác
định TNHS của ngời phạm tội và những vấn đề cần phải chứng minh này đợc
quy định trong luật TTHS. Ngoài ra luật TTHS còn quy định phải chứng minh
những vấn đề liên quan khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự, tuy nhiên không phải vụ án hình sự nào cũng đòi hỏi phải chứng minh
đầy đủ các vấn đề này, mà tuỳ thuộc vào từng vụ án cụ thể sẽ đặt ra yêu cầu
phải chứng minh những vấn đề cụ thể gì có liên quan và để giải quyết đúng
đắn vụ án đó, theo đúng quy định của luật hình sự và luật TTHS
ở đây, cũng cần lu ý rằng những vấn đề luật TTHS quy định bắt buộc
phải chứng minh là giống nhau chung cho các vụ án hình sự, nhng các tình
tiết trong vụ án cụ thể mà các tình tiết này cấu thành vấn đề chứng minh là
khác nhau. Chẳng hạn luật TTHS quy định bắt buộc phải chứng minh: Có

hành vi phạm tội xảy ra hay không...Nhng tình tiết trong hành vi phạm tội ở
mỗi vụ án cụ thể là khác nhau.
Trong TTHS, nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan THTT, ngời THTT là
không những nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan ngời vô tội
mà còn nhằm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Một trong những
nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt Nam là trong quá trình THTT hình sự,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Các cơ quan, tổ chức hữu quan phải
trả lời về việc thực hiện yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà
án. (Điều 27, BLTTHS Việt Nam năm 2003). Nh vậy, trong quá trình THTT
hình sự yêu cầu đặt ra cho các cơ quan THTT là phải tìm ra các nguyên nhân
và điều kiện phạm tội và đề ra các biện pháp, yêu cầu khắc phục. Chính vì
vậy, các cơ quan THTT, ngời THTT phải chứng minh làm rõ nguyên nhân và

23


điều kiện phạm tội - và đây là những vấn đề chứng minh không chỉ góp phần
để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự mà còn phục vụ chủ yếu cho công tác
phòng ngừa tội phạm. Nên theo chúng tôi đối tợng chứng minh trong vụ án
hình sự còn bao gồm cả những vấn đề liên quan đến vụ án và phục vụ cho việc
đề ra các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm.
Theo nguyên tắc pháp chế thì: mọi hoạt động TTHS của cơ quan
THTT, ngời THTT và ngời tham gia tố tụng cũng phải tuân thủ những quy
định của luật TTHS và đơng nhiên đối tợng chứng minh cũng phải đợc luật
TTHS quy định - tức là trong quá trình tố tụng đối với vụ án hình sự cần phải
chứng minh những vấn đề gì đều đợc luật TTHS quy định. Song việc quy định
này có thể là trực tiếp, cụ thể hoặc có thể là quy định gián tiếp.

Qua sự phân tích ở trên, có thể rút ra những đặc điểm của đối tợng
chứng minh trong vụ án hình sự đó là:
- Tất cả các vấn đề của vụ án và liên quan đến vụ án nhng cha biết mà
các cơ quan THTT cần phải biết.
- Những vấn đề cha biết đó đều đợc luật TTHS quy định các cơ quan
THTT phải làm sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ án.
- Những vấn đề luật TTHS quy định cần làm sáng tỏ đó là cơ sở để các
cơ quan THTT giải quyết đúng đắn vụ án và đề ra các biện pháp phòng ngừa
tội phạm.
Theo chúng tôi một khái niệm đầy đủ về đối tợng chứng minh trong TTHS
phải thể hiện đợc đầy đủ các đặc điểm trên. Nhng qua nghiên cứu nội dung khái
niệm về đối tợng chứng minh trong sách và công trình nghiên cứu của một số tác
giả, chúng tôi thấy các khái niệm này cha đợc đầy đủ. Chẳng hạn nh:
- Đối tợng chứng minh là tổng hợp những vấn đề cần phải đợc xác
định làm rõ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.[25, tr 87]

24


Phân tích khái niệm trên, chúng ta thấy về cơ bản khái niệm đã nêu đợc bản chất của đối tợng chứng minh đó là tổng hợp các vấn đề cần phải đợc
xác định làm rõvà đã xác định đợc nội hàm chính, chủ yếu của khái niệm đó là tổng hợp những vấn đề để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Tuy
nhiên, theo chúng tôi ở khái niệm trên nội hàm của nó cha bao hàm hết những
vấn đề phải chứng minh trong TTHS, mà cụ thể ở đây là cha bao hàm đối tợng
chứng minh là những vấn đề liên quan đến vụ án và phục vụ cho việc đề ra các
biện pháp phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, trong khái niệm cũng cha đề cập
đến khía cạnh pháp lý của đối tợng chứng minh - tức là đối tợng chứng minh
phải là những vấn đề đợc luật TTHS quy định cần phải làm rõ. Mà theo chúng
tôi khía cạnh pháp lý của đối tợng chứng minh có ý nghĩa ở chỗ nó bảo đảm
cho sự nhận thức thống nhất, đầy đủ về đối tợng chứng minh của các cơ quan
THTT, từ đó bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động TTHS. Nếu nh

những vấn đề cần chứng minh không đợc luật TTHS quy định thì không tạo đợc căn cứ pháp lý cho các cơ quan THTT xác định về đối tợng chứng minh
một cách thống nhất và chính xác, thậm chí có thể dẫn đến tranh cãi giữa các
cơ quan THTT trong việc xác định những vấn đề gì là cần cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án
- Đối tợng chứng minh trong vụ án hình sự là tổng hợp tất cả những
tình tiết thực tế phản ánh bản chất của sự việc liên quan đến tội phạm và ngời
phạm tội, những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình
sự. [10]
Phân tích khái niệm trên cho thấy khái niệm mới chỉ mang tính liệt kê
những tình tiết là đối tợng chứng minh mà cha nêu đợc bản chất của đối tợng
chứng minh- đó là những vấn đề cha biết nhng cần phải biết. Nội hàm của khái
niệm cũng cha đầy đủ vì cha bao hàm những tình tiết phục vụ cho việc phòng
ngừa tội phạm. Mặt khác khái niệm cũng cha đề cập đến khía canh pháp lý của đối
tợng chứng minh tơng tự nh ở phần trên chúng tôi đã phân tích.

25


×