Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG HIỆP ước QUỐC tế BASEL II vào QUẢN TRỊ rủi RO hệ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.22 KB, 37 trang )

MỤC LỤC


Năm 2008, Việt Nam gia nhập WTO hòa cùng tiến trình hội nhập quốc tế.
Ngành kinh tế Việt Nam cũng đẩy mạnh xu hướng toàn cầu hóa. Hoạt động kinh
tế nói chung và ngành ngân hàng riêng cũng có sự thuận lợi và hơn nữa khó khăn
khi phải mở cửa gần như hoàn toàn. Do nhu cầu tất yếu đó, một hệ thống ngân
hàng thương mại tốt là hệ thống có thể chủ động bắt kịp nhịp độ và sẵn sàng cùng
tiến trình hội nhập tháo bỏ những khó khăn và biến thách thức thành cơ hội cho
ngành. Muốn hệ thống ngân hàng có thể bắt kịp nhanh, nâng cao khả năng kinh
doanh, năng lực cạnh tranh thì cần phải áp dụng nhiều hơn nữa những điều ước
quốc tế. Từ đó có thể vừa nắm rõ luật quốc tế, làm cơ sở so sánh, đánh giá và nâng
tầm giữa ngân hàng Việt Nam cùng với các ngân hàng quốc tế ở mỗi quốc gia
khác nhau.
Đối với ngành ngân hàng, một trong những hiệp ước quốc tế được nhà quản
trị ngân hàng quan tâm đó là Hiệp ước quốc tế về an toàn vón trong hoạt động
ngân hàng, gọi chung là Hiệp ước Basel. Ra đời từ năm 1988 được nhiều quốc gia
trên Thế Giới áp dụng để làm cơ sở chuẩn mực đánh giá hoạt động và giám sát
hoạt động hệ thống ngân hàng của nước mình. Hiên nay, hiệp ước đã có 3 phiên
bản được cập nhật, tính đổi mới để phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại.
Hiện tại ở Việt Nam, vào thời gian đầu vẫn còn nhiều khó khăn trong việc
áp dụng hệ thống Basel trong quản trị giám sát ngân hàng, nên hệ thống chỉ áp
dụng những nguyên tắc đơn giản trong Hiệp ước Basel I và II. Do nhu cầu tất yếu
trong tương lai, hơn hết ở Việt Nam ngày càng nhiều ngân hàng quốc tế, thì việc
tuân theo chuẩn mực quốc tế cũng là điều tất nhiên. Từ những nguyên nhân trên,
cho thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu, giải pháp của những khó khăn, thách
thức trong việc áp dụng Basel II, trên cơ sở nghiên cứu đó đưa ra giải pháp hướng
dẫn để xây dựng lộ trình phù hợp với đặc điểm ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài: “Thực trạng ứng dụng hiệp ước quốc tế Basel II
vào quản trị rủi ro hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”
Nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:


 Phần 1: Tổng quan về Basel trong quản trị rủi ro
 Phần 2: Vận dụng Basel vào hệ thống ngân hàng thương mại Việt

Nam
2


 Phần 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Basel II vào hệ

thống ngân hàng thương mại Việt Nam
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài thực hiện nghiên cứu tổng quan về Hiệp ước vốn Basel bao gồm
chuẩn mực, quy định, nguyên tắc và đặc biệt nghiên cứu kỹ Basel II. Những tác
động của Basel II đến hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện tại.
Từ việc tìm hiểu nội dụng Basel II, đề tài tập trung vào thực trạng áp dụng
Basel II tại các ngân hàng thương mại và hiệu quả hoạt động, áp dụng của Basel
II. Để từ đó tìm ra những khó khăn, thách thức cho hệ thống ngân hàng Việt Nam
khi áp dụng Basel II.
Trên cơ sở đó, đề tài cố gắng xây dựng lộ trình ứngdụng Basel II vào hệ
thống quản trị rủi ro của các NHTM tại Việt Nam và đồng thời đề xuất những
giải pháp cho cả ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại Việt Nam nâng
cao khả năng ứng dụng Basel II trongviệc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trên thực tế, hiệp ước Basel II có rất nhiều quy tắc và chuẩn mực liên quan
đến quy trình giám sát hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các chuẩn mực giám sát
hoạt động của các tập đoàn tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, trong điều kiện
nghiên cứu của mình, đề tài chỉ giới hạn thực hiện nghiên cứu sâu các chuẩn mực
mang tính định lượng liên quan đến an toàn vốn nhằm giúp hệ thống ngân hàng
đối phó với rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường (Pillar 1 –
Minumum Capital Requirements). Chuẩn mực về quy trình giám sát hoạt động

của hệ thống ngân hàng
(Pillar 2 – Supervisory Review Process) và chuẩn mực về các quy tắc thị trường
(Pillar 3 – Market Discipline) đề tài chỉ dừng lại ở nêu nội dung chính.

3


PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ BASEL TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO
I.

TỔNG QUAN CHUNG BASEL
Ủy ban Basel vốn không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết

luận của Ủy ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám
sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố
những tiêu chuẩn và hướng dẫn cho công tác giám sát ngân hàng trên toàn thế
giới; đồng thời, giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất với kỳ vọng rằng các tổ
chức tài chính riêng lẻ sẽ áp dụng tiêu chuẩn đó theo hướng phù hợp nhất cho hệ
thống quốc gia. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng và tiếp cận các
tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các
nước thành viên.
Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành
rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến các vấn đề giám sát ngân hàng. Năm 1988,
BCBS đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn với tên gọi là Hiệp ước vốn
Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này cung cấp khung đo
lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ
biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác
có các ngân hàng hoạt động trên phạm vi quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa
đổi với rất nhiều điểm mới nhưng vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Ủy ban Basel đã đề

xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở
kế thừa Basel I; (ii) xem xét và giám sát quá trình đánh giá nội bộ cũng như tình
trạng thiếu - đủ vốn của các tổ chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả các thông tin
đã được công bố để lành mạnh hóa kỷ luật thị trường. Đến ngày 26/6/2004, bản
Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 lại một lần nữa
khiến BCBS nhận ra những "lỗ hổng" của Basel II dù từng được coi là một cơ chế
quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh
vực tài chính. Một số thiếu sót cơ bản của Basel II là thiếu yêu cầu về phí vốn
4


thanh khoản, quá tin cậy vào cơ quan xếp hạng tín dụng và bản chất có tính chu kỳ
của nó.
Ngay lập tức, hai năm sau, BCBS đã đạt được thỏa thuận nhằm khép các ngân
hàng vào những tiêu chuẩn ngặt nghèo hơn bằng hiệp ước Basel III. Với những
kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, Basel III được xem là
nền tảng để thiết lập trật tự thế giới tài chính mới.
II.
BASEL II
II.1 Hiệp ước vốn Basel II

Trong tháng 6/1999, Ủy ban đã đưa ra đề nghị cho khuôn khổ an toàn vốn mới
để thay thế Hiệp ước 1988. Điều này dẫn đến việc phát hành của vốn sửa đổi vào
tháng 6/2004. Gọi chung là "Basel II", các khuôn khổ mới được đưa ra cải thiện
yêu cầu về vốn phản ánh rủi ro tiềm ẩn và giải quyết tốt hơn các đổi mới tài chính
đã xảy ra trong những năm gần đây. Sau khi phát hành tháng 6/2004, trong đó tập
trung chủ yếu vào các cuốn sách ngân hàng, Ủy ban hướng sự chú ý đến cuốn sách
kinh doanh. Trong hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế Uỷ ban Chứng khoán
(IOSCO), các cơ quan quốc tế về quản lý chứng khoán, Ủy ban công bố vào tháng

5/2005, một tài liệu thống nhất về cách giao dịch của các ngân hàng dưới các
khuôn khổ mới. Để dễ dàng tham khảo, văn bản mới này được tích hợp với các
văn bản tháng 6 năm 2004 trong một tài liệu toàn diện phát hành vào tháng 6 năm
2006: Basel II: hội tụ quốc tế của vốn đo lường và vốn tiêu chuẩn: một khuôn khổ
sửa đổi. Trong khi điều này không phải là một khái niệm mới cho cộng đồng giám
sát, các rủi ro thị trường Sửa đổi năm 1996 liên quan đến một yêu cầu tương tự,
Basel II mở rộng phạm vi chấp thuận như vậy, đòi hỏi một mức độ cao hơn của sự
hợp tác giữa các giám sát.
Hợp tác quốc tế về thanh tra và giám sát ngân hàng, Uỷ ban Basel ngày nay đã
trở thành cơ quan xây dựng và phát triển các chuẩn mực ngân hàng được quốc tế
công nhận. Uỷ ban Basel đã ban hành các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín
dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Tháng 7
năm 2004, Uỷ ban Basel cho ra đời ấn phẩm mang tên “Hiệp ước quốc tế về tiêu
5


chuẩn vốn và đo lường rủi ro” hay còn gọi là Hiệp ước Basel II. Hiệp ước Basel II
hướng tới thực hiện ba mục tiêu:
– Đảm bảo phương pháp tính mức vốn an toàn của ngân hàng.
– Đo lường tách bạch rủi ro hoạt động và rủi ro tín dụng
– Tăng cường quản trị toàn cầu hoá tài chính ngân hàng thống nhất giữa các
quốc gia.
II.2 Ba trụ cột của Basel II

Với ba mục tiêu trên, nội dung chính của Basel II đựơc tóm tắt trong 3 trụ cột:
– Trụ cột thứ nhất: Xoay quanh rủi ro tín dụng, yêu cầu vốn tối thiểu, đưa ra yêu
cầu mức vốn tối thiểu và phương pháp đánh giá rủi ro.
– Trụ cột thứ hai: Quy định về giám sát hoạt động ngân hàng.
– Trụ cột thứ ba: Yêu cầu về việc công bố thông tin hoạt động ngân hàng cho các
đối tượng liên quan.

Trong đó , nội dung cơ bản của Basel II là đưa ra các phương pháp và
nguyên tắc về quản lý rủi ro tín dụng, kiểm soátnợ xấu, bao gồm:
– Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp: Yêu cầu xem xét đánh giá rủi ro tín
dụng phải là chiến lược xuyên suốt trong hoạt động ngân hàng (mức độ chấp nhận
rủi ro, tỷ lệ nợ xấu…), trên cơ sở đó phát triển các chính sách nhằm phát hiện, theo
dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, đối với từng khoản cấp tín dụng cụ
thể và nâng lên tầm soát rủi ro của cả danh mục đầu tư.
– Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh: Các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu
chí cấp tín dụng lành mạnh (xác định thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng
tiềm năng, điều kiện cấp tín dụng…) nhằm xây dựng các hạn mức tín dụng phù
hợp cho từng loại khách hàng trên cơ sở các thông tin định lượng, định tính, kết
6


quả xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng. Ngân hàng phải có quy trình rõ
ràng trong đề xuất tín dụng, phê duyệt và sửa đổi tín dụng, có sự phân tách nhiệm
vụ rạch ròi giữa các bộ phận có liên quan đến công tác tín dụng. Việc cấp tín dụng
cần tuân thủ nguyên tắc cẩn trọng trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên.
– Duy trì quá trình quản lý và theo dõi tín dụng phù hợp: Tuỳ theo quy mô của
từng ngân hàng để xây dựng hệ thống quản lý phù hợp, kịp thời nắm bắt các thông
tin từ phía khách hàng như tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh,
mức độ thực hiện các cam kết… để sớm phát hiện các dấu hiệu bất thường, kiểm
soát tốt các khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cũng cần có các biện pháp quản lý và
khắc phục các khoản nợ xấu. Vì thế, chính sách quản lý rủi ro tín dụng của ngân
hàng phải chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Uỷ ban Basel cũng khuyến khích các ngân hàng xây dựng và hoàn thiện hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ, tạo tiền đề cho việc phân loại, đánh giá khách hàng dựa
trên nhiều tiêu chí; phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng ứng với từng đối tượng
khách hàng để có biện pháp quản lý phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân
hàng.


7


KẾT LUẬN PHẦN 1
Từ nội dung cơ bản của Basel II ta có thể nắm rõ được phần nào các yếu tố nguyên
tắc có thể áp dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Và hơn nữa, đối
với những trụ cột cụ thể sẽ có đặt ra nhiều thách thức cho ngành ngân hàng Việt
Nam. Vì mục tiêu cạnh tranh cũng như nâng cao năng lực để cùng hòa nhập sâu
rộng với Thế Giới và ngân hàng nước ngoài nói riêng,

8


PHẦN 2: VẬN DỤNG BASEL VÀO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
I.

THỰC TRẠNG CÁC NHTM HIỆN NAY SAU TÁI CẤU TRÚC

Sau khi gia nhập WTO năm 2008, ngoài những thành tựu đạt được thì cũng
còn nhiều thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với tình hình trên, hệ
thống ngân hàng đã có kế hoạch cho giai đoạn mới, phát triển hơn và nhiều khó
khăn hơn. Hệ thống ngân hàng được xem là phát triển không chỉ thể hiện ở quy
mô, doanh số huy động và cho vay tăng lên, thị phần mở rộng; mà còn phải thể
hiện ở năng lực quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp và tính chịu trách nhiệm cao
của Ban lãnh đạo ngân hàng. Việc đẩy mạnh các biện pháp xử lý hậu tái cấu trúc
nhằm nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị rủi ro, tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp tiếp cận được vốn và các dịch vụ ngân hàng với giá/phí hợp lý… là
những vấn đề trọng yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.
1.1 Những kết quả đạt được

1.1.1 Số lượng ngân hàng và quy mô vốn

Tính đến hết năm 2008, trong hệ thống các TCTD ViệtNam có 4 NHTM
NN, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 39 NHTM CP, 47 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 14 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính
và 998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Đồng thời, thực hiện cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ WTO, bắt đầu từ ngày 1/4/2007, các
ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam, tạo thêm một
loại hình ngân hàng mới trong hệ thống.
Sau quá trình phát triển nóng về số lượng ngân hàng và các loại hình dịch
vụ, năm 2012 Chính phủ đã phê duyệt đề án số 254 về tái cấu trúc các tổ chức tín
dụng (tổ chức tín dụng) mà trọng tâm là các ngân hàng thương mại (NHTM). Sau
gần 3 năm thực hiện, một số các NHTM yếu kém đã được sáp nhập với nhau, hoặc
sáp nhập vào các NHTM lớn; một số NHTM hoạt động yếu kém, nợ khách hàng
lớn hơn nhiều lần vốn chủ sở hữu, NHNN đã mua với giá 0 VND và nhận nợ thay,
chuyển sang mô hình Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên, sau đó giao
cho Vietcombank và Vietinbank quản lý, điều hành. Đối với một số chi nhánh
NHTM nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động yếu kém, NHNN đã yêu cầu
9


ngân hàng mẹ phải xử lý hoặc cho phép ngân hàng nước ngoài mua lại. Đơn cử
như, ngân hàng liên doanh Việt Thái, hoạt động kém hiệu quả, không đảm bảo giá
trị thực của vốn điều lệ theo quy định, NHNN đã cho phép Ngân hàng Siam Thái
tiếp nhận, sau đó chuyển thành chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đến nay, tại thị
trường Việt Nam đã có 06 NHTM 100% vốn nước ngoài hoạt động gồm: ANZVL,
Hong Leong, HSBC, Shinhan Vietnam, Standard Chartered, Public Bank Berhad.
Riêng Citibank đã nhận được thư chấp thuận về nguyên tắc của NHNN vào ngày
09/7/2015 và sẽ thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Đồng thời với quá
trình tự sáp nhập của các ngân hàng, NHNN tiếp tục hoàn thiện một số văn bản

pháp lý để xử lý vấn đề sở hữu chéo, rà soát mạng lưới hoạt động của ngân hàng,
mở rộng mạng lưới gắn với việc tăng vốn điều lệ thực chất và hiệu quả kinh doanh
của các chi nhánh/phòng giao dịch hiện có của từng ngân hàng. Trong 6 tháng đầu
năm 2015, nhóm ngân hàng yếu kém đã được xử lý nhưng không xảy ra hiện
tượng rút tiền gửi đột biến, quyền lợi của khách hàng vay và gửi tiền tại các ngân
hàng bị sáp nhập, hoặc mua lại được đảm bảo, uy tín một số ngân hàng sau tái cấu
trúc được cải thiện, không có xáo trộn trên thị trường tài chính.

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN, www.sbv.gov.vn
Với quy định về mức vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo lộ trình, một
số ngân hàng đã có sự bứt phá thông qua huy động vốn của các cổ đông, trong đó
có các cổ đông chiến lược trong và ngoài nước. Một số ngân hàng đã có tỷ lệ góp
10


vốn của nhà đầu tư chiến lược lên đến 30%3. Đến nay, vốn điều lệ của một số ngân
hàng đã tăng khá, phản ánh thực lực của mỗi ngân hàng và là căn cứ để mở rộng
hoạt động huy động vốn, cho vay cũng như phát triển các dịch vụ ngân hàng đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Khi vốn điều lệ tăng, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của từng ngân hàng cũng như
cả hệ thống được cải thiện. Năm 2010, hệ số an toàn vốn bình quân của các
NHTM Việt Nam là 10,98%, năm 2012 là 13,75%, sau đó giảm tương ứng xuống
13,25% năm 2013 và 12,75% năm 2014, nguyên nhân cơ bản là do vốn điều lệ
không tăng, trong khi tổng tài sản tăng rất nhanh, một số khoản cho vay, đầu tư
trước đây không tính vào tổng dư nợ, thì nay NHNN yêu cầu bắt buộc các ngân
hàng phải tính cả các khoản tín dụng dưới dạng ủy thác đầu tư, bảo lãnh, trái phiếu
doanh nghiệp…

11



Tuy nhiên, nếu tính đúng, tính đủ các loại rủi ro hoạt động, rủi ro thị
trường… và xác định chính xác vốn tự có thực (loại bỏ vốn ảo do sở hữu chéo)
của một số NHTM theo yêu cầu của Basel II, thì hệ số CAR của các NHTM thấp
hơn so với số liệu công bố trên. Điều này cho thấy sự phát triển chưa bền vững của
hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Có ba loại tài sản chính chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các NHTM, đó là: (i)
Cho vay và ứng trước cho khách hàng; (ii) Tiền gửi, cho vay các tổ chức tín dụng
khác; (iii) Chứng khoán đầu tư, sự tăng trưởng số dư tiền gửi của khách hàng càng
cao (thị trường 1), thì sự phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng (thị trường 2)
trong các hoạt động cho vay sẽ thấp và ngược lại. Ở Việt Nam, khoản mục cho
vay có tỷ trọng lớn nhất, rủi ro nảy sinh ở khoản mục này cũng là nhiều nhất. Giai
đoạn 2007 - 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân khoảng 35%/năm, nhưng
giai đoạn 2012 - 2014 chỉ khoảng 10 - 11%/năm. Xét quan hệ giữa tăng trưởng tín
dụng và tăng trưởng kinh tế cho thấy giai đoạn 2007 - 2010, tăng trưởng tín dụng
thường gấp 5 - 6 lần tốc độ tăng GDP, đó là điều không hợp lý, thể hiện hiệu quả

12


đồng vốn thấp, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng vốn. Từ năm 2012 đến
nay, tăng trưởng tín dụng thường cao hơn 2 lần tốc độ tăng GDP.

Việc sử dụng nhiều biện pháp xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu mới phát sinh
là việc làm cấp thiết cho sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, NHNN, sự nỗ lực xử lý nợ xấu của từng
NHTM, tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ 17% năm 2012 xuống 3,8% vào ngày
31/12/2014. Một số NHTM luôn có tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp dưới 2%/năm như
BIDV, Vietcombank, Vietinbank... Hai trong số ba ngân hàng này được đánh giá

là tuân thủ tương đối chặt chẽ các quy định về phân loại tài sản có hiện hành và
hướng đến chuẩn mực quốc tế. Từ năm 2014 đến nay, với môi trường kinh tế vĩ
mô ổn định hơn, thanh khoản được đảm bảo, tiền gửi của dân cư… vẫn tăng mặc
dù lãi suất huy động đã giảm mạnh. Chất lượng nợ của hệ thống ngân hàng bước
đầu được cải thiện, áp lực về suy giảm năng lực tài chính cũng giảm, tín dụng cho
nền kinh tế có xu hướng tăng. 6 tháng đầu năm 2015, tín dụng tăng trưởng 7,83%
so với cuối năm 2014, tăng 18,98% so với cùng kỳ. Vừa qua, Thống đốc NHNN

13


đã chấp thuận cho 18 NHTM điều chỉnh tăng trưởng tín dụng, một số NHTM nhỏ
được điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng 35%/năm.
1.1.2

Năng lực quản trị ngân hàng

Các NHTM Việt Nam đã tuân thủ cơ cấu tổ chức, bộ máy điều hành theo
quy định của Luật Các tổ chức tín dụng nhằm nâng cao trình độ quản trị doanh
nghiệp trong ngân hàng, thực hiện quản trị rủi ro trong toàn hệ thống cũng như
trong các nghiệp vụ ngân hàng. Năm 2014, NHNN đã chọn 10 NHTM đầu tiên
triển khai thí điểm phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo tiêu chuẩn Basel 2, giai
đoạn từ 2015 đến 2018. Đến 2018, cả 10 ngân hàng 5 sẽ hoàn thành và sau đó sẽ
mở rộng áp dụng Basel 2 đối với các NHTM khác. Đối với nhóm các NHTM phải
sáp nhập đang từng bước sắp xếp lại bộ máy tổ chức, quản trị, điều hành, Ban
kiểm soát… nhanh chóng đi vào hoạt động song hành với giải quyết những yếu
kém nội tại. Các ngân hàng chuyển sang dạng trách nhiệm hữu hạn một thành
viên, dưới sự trợ giúp của một NHTM có yếu tố Nhà nước, đã cử cán bộ sang nắm
giữ một số vị trí trung cao cấp, xây dựng lại đề án cơ cấu ngân hàng, rà soát kỹ
tổng tài sản, các khoản nợ xấu, các khoản nợ đến hạn phải trả khách hàng… Trên

cơ sở nguồn vốn hỗ trợ từ NHNN để chi trả kịp thời cho khách hàng, nên không có
tình trạng mất thanh khoản cục bộ xảy ra. Hầu hết các NHTM đã thành lập một số
Ủy ban theo thông lệ như: Ủy ban chính sách, Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban nhân
sự, lương thưởng, Ủy ban quản trị tài sản nợ có (ALCO)… để tham mưu, tư vấn
cho hội đồng quản trị.
1.1.3

Hoạt động kinh doanh

Mặc dù, lợi nhuận sau thuế của ngành Ngân hàng từ năm 2012 đến nay đã
giảm, một phần do nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp vay vốn
cũng đối mặt với nhiều thách thức, nhiều doanh nghiệp không trả được nợ vay đến
hạn, dẫn đến danh mục khoản vay bị suy giảm, nợ xấu gia tăng, các ngân hàng
phải trích dự phòng rủi ro nhiều hơn, trong khi chi phí hoạt động và chi phí quản
lý tăng, dẫn đến thu nhập ròng từ lãi giảm. Điều này cũng phản ánh đúng thực
trạng của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng. Các chỉ số hiệu quả kinh doanh
ROE, ROA từ năm 2012 đến 2014 đều thấp hơn giai đoạn 2008 - 2012. Đặc biệt
khối NHTMCP, tại thời điểm 31/12/2012 ROA, ROE lần lượt chỉ đạt 0,22% và
14


1,36%, Năm 2014, khối này có cải thiện chút ít, chỉ số ROA, ROE lần lượt là
0,43% và 4,01%. Nhưng đi sâu phân tích chỉ tiêu này ở một số ngân hàng có giá
trị vốn hóa lớn thì tỷ lệ này vẫn ở mức cao trong giai đoạn 2012 - 2014, đặc biệt 3
NHTM cổ phần có yếu tố Nhà nước chi phối. Đơn cử như, Vietinbank, tại thời
điểm 2012, chỉ số ROA, ROE là 1,7% và 19,9%; năm 2013 là 1,4% và 13,7%;
năm 2014 là 1,2% và 10,4%. Chỉ số ROA, ROE của NHTM cổ phần Quân Đội là
1,97% và 27,5% năm 2012; 1,28% và 16,3% năm 2013; 1,3 và 14,7% năm 2014...
Như vậy, nếu xem xét chỉ số hiệu quả kinh doanh của một số NHTM Việt Nam
còn cao hơn cả các ngân hàng liên doanh và chi nhánh NHTM nước ngoài. Qua

đó, có thể thấy, năng lực cạnh tranh và khả năng chiếm giữ thị phần của một số
NHTM Việt Nam không thua kém các ngân hàng liên doanh và NHTM 100% vốn
nước ngoài tại Việt Nam.

Nguồn: NHNN
1.2 Những vấn đề còn hạn chế
1.2.1 Năng lực quản trị ngân hàng

Một số NHTM nhận thức chưa đầy đủ về quản trị ngân hàng. Các ngân
hàng đều có bộ máy kiểm soát nội bộ, nhưng hoạt động chưa hiệu quả, nên có tình
trạng cán bộ cấp trung và cao cố ý làm sai, hoặc lợi dụng kẽ hở của pháp luật để
kinh doanh kiếm lời (điều này thể hiện rõ ở các ngân hàng có nợ xấu lớn). Một
trong những hạn chế trong quản trị doanh nghiệp của các ngân hàng Việt Nam là
15


tính tuân thủ rất thấp. Hệ thống ngân hàng đã hội nhập khá sâu vào thị trường tài
chính thế giới, nhưng mới chỉ dừng việc tuân thủ ở mức tối thiểu, chưa coi đó là
nhu cầu tự thân, là tất yếu. Ví dụ, hiện nay các ngân hàng đã quan tâm đến việc
công khai một số thông tin, nhưng độ chuẩn xác của thông tin công bố lại không
cao. Chính điều này đã làm giảm, thậm chí mất niềm tin của người dân, các nhà
đầu tư trong và ngoài nước, đối với hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cổ phần
đều có thành viên Hội đồng quản trị độc lập, nhưng vai trò bị hạn chế, quyền lợi
của các cổ đông nhỏ lẻ ở một chừng mực nhất định vẫn chưa được đảm bảo.
Mặc dù đã có 4/5 NHTM nhà nước được cổ phần hóa, nhưng tỷ lệ Nhà
nước nắm giữ vẫn chiếm 80 - 95% (trừ Vietinbank, Nhà nước nắm giữ khoảng
63%), vì thế các quyết định về đầu tư, nhân sự cao cấp, lương… vẫn phải chờ đợi
sự phê chuẩn của NHNN, Chính phủ. Khi Nhà nước giữ 80 - 90% cổ phần,
thì thực chất vẫn đang hoạt động theo kiểu DNNN. Do vậy, tính minh bạch trong
quản trị nội bộ, trách nhiệm giải trình với cổ đông, với xã hội bị hạn chế.

1.2.2

Khả năng tài chính và vốn

Mặc dù, vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam được cải thiện nhiều, song
vẫn còn cách biệt rất lớn so với mức vốn điều lệ của một số NHTM trong khu
vực7. Vốn điều lệ nhỏ bé, các ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc cung ứng vốn
đầu tư, nhất là cho các dự án lớn, hạn chế khả năng chống đỡ các cú sốc tài chính
trong và ngoài nước xảy ra.
Điểm yếu tài chính lớn nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay
chính là nợ xấu. Nợ xấu cũ tạm thời bán cho VAMC để nhận về trái phiếu đặc
biệt, nhưng nợ xấu mới lại nảy sinh và có xu hướng tăng lên. Đây cũng là một lý
do cơ bản gây khó giảm được lãi suất cho vay theo định hướng chỉ đạo của Thống
đốc trong năm 2015. Năm 2014, mặc dù nền kinh tế được phục hồi, một số chính
sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp đã được triển khai khá quyết liệt, thị trường
tài chính đã có chuyển biến tích cực, nhưng số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt
động vẫn cao. Đáng chú ý là, một số doanh nghiệp có quy mô trung bình đã “cầm
cự” được trong giai đoạn khó khăn vừa qua, nhưng đến đầu năm 2015 vẫn phải
16


ngừng hoạt động có thời hạn, hoặc tuyên bố giải thể... Chỉ tính riêng 4 tháng đầu
năm 2015, cả nước có 28.235 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 9,7% về số doanh
nghiệp, tăng 13,3% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước, song số doanh
nghiệp giải thể, gặp khó khăn tạm ngừng hoạt động tháng sau vẫn tăng so với
tháng trước (tháng 4/2015 tăng 34,1% so với tháng 3/2015). Điều này đã tác động
tiêu cực đến khả năng trả nợ ngân hàng, theo đó nợ xấu của ngân hàng vẫn tiềm ẩn
nguy cơ tăng. Một số NHTM nợ xấu lớn hơn vốn điều lệ, thậm chí âm vốn.

Nguồn:

Hoạt động tín dụng tạo ra 80% đến trên 90% thu nhập của ngân hàng.
Nhưng khi tăng trưởng tín dụng cao, hiệu quả đạt được không tương xứng đã và
đang là nguyên nhân đe dọa an toàn hoạt động của các NHTM. Việc kinh doanh
mất hết vốn hoặc nợ xấu lớn hơn nhiều lần vốn điều lệ không chỉ xảy ra ở NHTM
cổ phần Xây dựng, Oceanbank và GPBank mà còn xảy ra ở một vài NHTM lớn
khác. Trường hợp Agribank là một ví dụ. Vài năm gần đây, tỷ lệ nợ xấu của
Agribank luôn lớn hơn tỷ lệ nợ xấu của cả hệ thống, nợ xấu luôn lớn hơn vốn điều
17


lệ của ngân hàng và việc trích dự phòng rủi ro so với số phải trích luôn ở mức
thấp, trong khi nợ xấu ở nhóm 5 rất lớn (năm 2012, 2013 và 2014 nợ xấu nhóm 5
lần lượt là 69,5%, 74,1% và 67,6%. Là một NHTM nhà nước có tổng tài sản lớn
nhất hệ thống (31/12/2014, tổng tài sản của Agribank là 762.869 tỷ đồng), khi nợ
xấu cao, chất lượng nợ thấp, trích dự phòng rủi ro thấp hơn số phải trích, điều này
nếu không được đánh giá một cách toàn diện và có biện pháp sớm khắc phục… sẽ
tiềm ẩn rủi ro đến sự phát triển của cả hệ thống ngân hàng.
Giải quyết nợ xấu không còn là việc riêng của từng NHTM, của khách hàng
vay, mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Việc thành lập VAMC và đưa
vào hoạt động là một biện pháp giải quyết nợ xấu cho nền kinh tế. Tính đến
30/6/2015, VAMC đã mua được 143.000 tỷ đồng nợ xấu của 39 tổ chức tín dụng,
tương đương khoảng 6,5 tỷ USD. Việc bán nợ cho VAMC giúp các NHTM có
bảng cân đối tài sản “sạch” hơn, có điều kiện giải ngân các khoản vay mới đến
doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu diễn ra rất chậm, sau gần 2 năm hoạt
động, mới chỉ xử lý được một tỷ lệ rất nhỏ.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là nợ xấu tồn đọng từ hàng chục
năm ẩn dưới nhiều dạng, nhưng khi nhận định và đánh giá tình hình nợ xấu lại
chưa đầy đủ. Cụ thể, một lượng nợ xấu lớn của các ngân hàng được ẩn dưới dạng
trái phiếu doanh nghiệp (nhất là DNNN, các tập đoàn, tổng công ty), nghiệp vụ ủy
thác cấp tín dụng; nợ cấp cho các công ty con, công ty liên kết của ngân hàng, nợ

cấp cho doanh nghiệp mà ngân hàng nắm quyền kiểm soát… nhưng lại không
đánh giá, phân loại nợ chính xác. Vì thế cần chỉ đúng bản chất và xử lý tận gốc
vấn đề, thì mới có khả năng khắc phục bất ổn nội tại của từng NHTM. Đây vẫn
là điểm nghẽn lớn trong hoạt động ngân hàng.
Xét riêng tín dụng bất động sản (BĐS), NHNN đã đưa BĐS vào lĩnh vực
hạn chế cho vay vào những năm 2009, 2010, nhưng dư nợ BĐS ở những năm này
rất lớn. Năm 2010 dư nợ BĐS là 235.276 tỷ đồng, trong số này có 60,63% vốn tín
dụng tạo cung BĐS và 39,37% vốn tín dụng tạo cầu BĐS. Dư nợ BĐS có giảm
vào năm 2011, 2012, nhưng lại tăng vào năm 2014, đặc biệt trong 6 tháng đầu năm
18


2015 tăng rất mạnh. Nguồn vốn tín dụng vào thị trường BĐS theo xu hướng tạo
cung nhiều hơn tạo cầu trong một thời gian dài là nguyên nhân dẫn đến mất cân
đối lớn giữa cung và cầu BĐS. Từ năm 2013 đến nay, nhiều gói tín dụng, chính
sách tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS đã được đưa ra nên một phần hàng tồn
kho BĐS đã và đang được được xử lý. Đến 31/12/2014, tồn kho BĐS còn 82.295
tỷ đồng, giảm 24,1% so với đầu năm 2013 và giảm 12,8% so với đầu năm 2014. 6
tháng đầu năm 2015, tăng trưởng tín dụng BĐS vào phân khúc nhà ở thương mại
bình dân, các chung cư, BĐS ven biển... ở mức cao, không ít phân khúc BĐS đã
tăng giá, hoặc có hiện tượng làm giá… làm dấy lên những lo ngại về tình trạng
bong bóng BĐS trong thời gian tới nếu không được kiểm soát chặt chẽ dòng vốn
vào thị trường này.
Một số NHTM Việt Nam đã có quy mô vốn khá lớn, nhưng cơ cấu cổ đông
phức tạp đã gây ra một số quan ngại sâu sắc về hoạt động cho vay, đầu tư cho
những bên liên quan. Việc nắm giữ cổ phần của nhau trong hoạt động ngân hàng
đã vượt tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước, đến mức trầm
trọng, méo mó khó lường; đánh giá và phân loại thiếu chính xác tài sản có rủi
ro,CAR không thực chất, vô hiệu hóa những quy định về giới hạn tín dụng, né
tránh việc giám sát của cơ quan quản lý nhà nước… Việc góp vốn giữa ngân hàng

và doanh nghiệp thông qua mối quan hệ đồng sở hữu ngân hàng đã biến ngân hàng
thành công cụ huy động vốn của xã hội phục vụ cho các dự án xây dựng, BĐS của
các doanh nghiệp này hoặc các doanh nghiệp có liên quan đến doanh nghiệp này.
Chính từ quan hệ góp vốn, vay mượn phức tạp này là một trong những nguyên
nhân phát sinh nợ xấu. Nếu chưa minh bạch được những vấn đề sở hữu vốn tại các
ngân hàng này, thì hậu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn luôn tiềm ẩn
những bất ổn khó lường.
1.2.3

Cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin

Tại các nền kinh tế phát triển, với hạ tầng tài chính - ngân hàng hiệu quả, cạnh
tranh về lãi suất gắn liền với rủi ro, các nhà đầu tư sẽ phải cân nhắc thận trọng
giữa việc đầu tư vào các khoản tiền gửi, các công cụ tài chính có khả năng sinh lời
cao, nhưng rủi ro tiềm ẩn sẽ lớn. Ngược lại, các hoạt động đầu tư có khả năng đem
19


lại lợi ích thấp hơn sẽ được bù đắp với mức rủi ro thấp. Ở Việt Nam, do hạ tầng tài
chính hạn chế, quan hệ giữa rủi ro và lãi suất chưa chặt chẽ, xử lý rủi ro và lợi
nhuận chưa theo qui luật thị trường, các NHTM đặt giá huy động cao không có
nghĩa là nhà đầu tư phải chấp nhận mức rủi ro cao, khi ngân hàng rơi vào tình
trạng kiểm soát đặc biệt, thậm chí bị “đóng cửa”, bởi đằng sau đã có NHNN. Bên
cạnh đó, công tác thanh tra, giám sát còn nhiều bất cập, nên chưa phản ánh chính
xác tình trạng tài chính của ngân hàng. Mặt khác, việc quản lý rủi ro thanh khoản,
rủi ro kỳ hạn tại một số ngân hàng chưa hiệu quả không chỉ bắt nguồn từ những
bất ổn vĩ mô mà còn do các nguyên nhân nội tại của chính các NHTM. Điều này
cũng một phần do chưa có sự quan tâm đúng mức đến dự báo về những thay đổi
của môi trường kinh doanh, một phần do ảnh hưởng từ sự thay đổi khó lường của
cơ chế chính sách, trong khi quản trị nội bộ yếu kém, khiến không ít ngân hàng bị

động trước những thay đổi đột ngột của thị trường, gây ảnh hưởng đến khả năng
quản lý và sử dụng vốn khả dụng của ngân hàng.
II.

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BASEL II TRONG HỆ THỐNG
NHTM VIỆT NAM

Basel là “sản phẩm” của Ủy ban Giám sát các Ngân hàng (the Basel
Committee on Banking Supervisions) với mục tiêu chuẩn hóa các quy định về an
toàn vốn (CAR) trong hoạt động ngân hàng. Năm 2006, Basel II được ban hành
với các chuẩn mực được điều chỉnh sát hơn với thị trường và đảm bảo tính ổn định
trong hoạt động của toàn hệ thống.
Việc triển khai Basel giúp chuẩn hóa, cải thiện và lành mạnh hóa lĩnh vực ngân
hàng thông qua việc áp dụng các chuẩn mực toàn cầu. Basel được xây dựng trên
nguyên tắc cơ bản nhằm đảm bảo các ngân hàng duy trì đủ nguồn vốn bù đắp cho
các khoản lỗ có thể phát sinh từ những rủi ro mà ngân hàng đang nắm giữ. Basel II
- phương pháp tiêu chuẩn được chuẩn hóa và được xem là bước đầu tiến tới
phương pháp đánh giá theo độ nhạy cảm rủi ro.
Ngoài mục tiêu ban đầu tạo nên thước đo chuẩn mực để đo lường sức khỏe của
các định chế tài chính, Basel đã tổng hợp tạo nên các khung quản lý rủi ro theo
thông lệ chung. Theo đó, việc quản lý rủi ro tại các tổ chức tín dụng (TCTD) đã
20


được chuyển hóa từ việc quản lý riêng lẻ các nhóm rủi ro (Cấu trúc Silo – ví dụ:
Tín dụng, Thị trường, Hoạt động, Thanh khoản…) nay đã trở thành một thể thống
nhất với ba trụ cột (3 Pillars) và lượng hóa rủi ro qua khái niệm “tài sản có rủi ro”
(Risk Weighted Assets – RWA). Chuẩn mực Basel là bước chuyển hóa cơ bản đầu
tiên để TCTD có nhận thức cơ bản nhằm thay đổi phương thức điều hành, đưa ra
quyết định kinh doanh tiếp cận từ khía cạnh rủi ro (risk based-approach), phương

thức đang được phổ biến rộng rãi trên thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính
2007.
II.1 Thực trạng hoạt động của NHTM Việt Nam
II.1.1 Tỷ lệ an toàn vốn

Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu (Capital Adequacy Ratio – CAR) là một thước
đo độ an toàn vốn của ngân hàng. Nó được tính theo tỉ lệ phần trăm của
tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân
hàng.
CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] *
100%
Tỉ lệ này thường được dùng để bảo vệ những người gửi tiền trước rủi ro của
ngân hàng và tăng tính ổn định cũng như hiệu quả của hệ thống tài chínhtoàn
cầu. Bằng tỉ lệ này người ta có thể xác định được khả năng của ngân hàng
thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi
ro tín dụng, rủi ro vận hành. Hay nói cách khác, khi ngân hàng đảm bảo được tỉ
lệ này tức là nó đã tự tạo ra một tấm đệm chống lại những cú sốc về tài chính,
vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo vệ những người gửi tiền. Chính vì lý do trên, các
nhà quản lý ngành ngân hàng các nước luôn xác định rõ và giám sát các ngân
hàng phải duy trì một tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, ở Việt Nam tỉ lệ này hiện đang
là 8%, giống như chuẩn mực Basel mà các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp
dụng phổ biến. Khi tính toán tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, người ta xét
đến hai loại vốn: vốn cấp I(vốn nòng cốt) và vốn cấp II(vốn bổ sung), trong đó
vốn cấp I được coi là có độ tin cậy và an toàn cao hơn. Ngoài yêu cầu đảm bảo

21


cho CAR từ 8% trở nên, các ngân hàng còn phải đảm bảo tổng vốn cấp II
không được vượt quá 100% vốn cấp I.

Trước khi Basel II công bố, tại Việt Nam đã tiếp cận những chuẩn mực
quốc tế và ban hành khung pháp lý về đảm bảo an toàn vốn. Theo đó, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN
ngày 25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng (TCTD) với tỷ lệ an toàn vốn (CAR) phải duy trì tối thiểu là 8%.
Sau khi Basel II công bố, NHNN ban hành Quyết định số 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 thay thế Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN nhằm
khắc phục hạn chế của Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN, khi quy định CAR
là tỷ lệ một phần của vốn cấp 1 trên tổng tài sản “Có” điều chỉnh rủi ro (Bảng
1). Tuy vậy, về phương pháp tính theo hướng dẫn của Quyết định
457/2005/QĐ-NHNN chỉ đạt đến mức tiếp cận phần lớn các yêu cầu theo
Basel I.

Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày
20/5/2010 thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN cùng với Nghị định
141/2006/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ, yêu cầu vốn pháp định tối thiểu
của ngân hàng thương mại (NHTM) phải đạt 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010
nhằm đảm bảo an toàn vốn và nâng cao tiềm lực tài chính của các NHTM.
22


Ngoài quy định việc xác định vốn tự có bao gồm, vốn cấp 1 và vốn cấp 2,
NHNN đã hướng dẫn cách xác định CAR riêng lẻ, CAR hợp nhất và nâng CAR tối
thiểu lên 9% nhằm phù hợp với xu hướng các NHTM hoạt động theo mô hình
công ty mẹ-công ty con, góp phần tăng cường quản lý thanh khoản của các TCTD
và phương pháp tính toán CAR đã từng bước tiếp cận Basel II.
Ngày 20/11/2014, NHNN ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN, trong đó
vẫn quy định CAR bao gồm, mức riêng lẻ và hợp nhất, đều phải duy trì ở mức 9%,
quy định vốn cấp 1 phải bị loại trừ cổ phiếu quỹ và các khoản cấp tín dụng để góp
vốn, mua cổ phần tại TCTD khác. Thông tư này khắc phục một số nội dung chưa
phù hợp với điều kiện thực tế cũng như quá trình hội nhập quốc tế, thúc đẩy quá

trình tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các TCTD gắn với tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời, tạo nên các chuẩn mực mới, quy định chặt chẽ và phù hợp hơn
về quản trị ngân hàng, tăng cường tính công khai, minh bạch và nâng cao khả năng
chịu đựng rủi ro của các TCTD trước những cú sốc của thị trường, từng bước thực
hiện các chuẩn mực của Basel II, tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế về quản trị
và giám sát ngân hàng.
Bên cạnh đó, “Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020” theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày
24/5/2006 của Chính phủ cũng đã định hướng “Từng bước tiến tới thực hiện các
nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản theo chuẩn mực vốn mới (Basel II) sau năm 2010”.
Ngoài ra, “Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” của
Chính phủ cũng đã định hướng “Phát triển các hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với
các nguyên tắc, chuẩn mực của Ủy ban Basel”; “Ban hành chuẩn mực an toàn vốn
phù hợp với Basel II; đổi mới, hoàn thiện các quy định an toàn hoạt động của
TCTD”.
Trong lộ trình thực hiện Basel II, NHNN cũng định hướng rõ ràng về việc
triển khai Basel II thông qua việc ban hành Công văn 1601/NHNN-TTGSNH ngày

23


17/3/2014 về việc thực hiện Hiệp ước vốn Basel II; trong đó, 10 NHTM được lựa
chọn thí điểm áp dụng Basel II theo lộ trình từ năm 2015-2018.
Đến cuối năm 2015, 10 ngân hàng thí điểm thực hiện phương pháp quản trị
vốn và rủi ro theo chuẩn Basel II, gồm: BIDV, Vietinbank, Vietcombank,
Techcombank, ACB, VPBank, MB Bank, Maritime Bank, Sacombank, VIB. Dự
kiến đến năm 2018, cả 10 ngân hàng này sẽ hoàn thành việc thí điểm Basel II, sau
đó sẽ mở rộng áp dụng Basel II với các NHTM khác trong cả nước.
Bên cạnh đó, định hướng tăng cường mức độ an toàn vốn và triển khai

Basel II còn được triển khai qua Kế hoạch hành động của NHNN thực hiện Nghị
quyết số 19/NQ-CP ngày 18/03/2014, trong đó lựa chọn một số NHTM đi tiên
phong trong việc triển khai Basel II. Hay như việc hình thành khung pháp lý cho
ứng dụng Basel II cùng với định hướng cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt
động của các TCTD.
Theo Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 27/01/2015 của NHNN cho thấy, về
mặt quản lý nhà nước đã tạo lập cơ chế, chính sách thúc đẩy các NHTM ứng dụng
Basel II theo định hướng và lộ trình cụ thể đã đặt ra.
Thực tiễn cho thấy, mức độ an toàn vốn và việc tuân thủ CAR tối thiểu
được nhiều NHTM Nhà nước quan tâm. Các NHTM thí điểm áp dụng Basel II
theo lộ trình thực hiện từ năm 2015-2018, đã tiến hành bước chuẩn bị về nhân lực,
công nghệ và kế hoạch triển khai. Mục tiêu nhằm hoàn thành việc thí điểm các yêu
cầu về chuẩn mực an toàn vốn theo Basel II.

24


Việc thực hiện yêu cầu về CAR trong thời gian qua, các NHTM đã đạt được
những kết quả nhất định và diễn biến về CAR của các NHTM Nhà nước trong giai
đoạn 2011-2015 có những biến động theo cùng với gia tăng mức độ rủi ro hàng
năm. Trong giai đoạn 2011- 2015, hầu hết các NHTM Nhà nước đều đạt CAR yêu
cầu về tỷ lệ tối thiểu 9%. Tình hình diễn biến về CAR của các NHTM qua các năm
có những đặc điểm:
 CAR của các NHTM Nhà nước luôn đảm bảo quy định về tỷ lệ trong các

năm gần đây: Từ năm 2011 đến 2015, CAR của NHTM Nhà nước được
đảm bảo trên 9%, NHTM Nhà nước có CAR ở mức thấp nhất là 9,0% và
NHTM Nhà nước có CAR ở cao nhất là 19,46%.
 CAR của các NHTM Nhà nước đã cổ phần hóa có xu hướng cải thiện đến
năm 2011 và tiếp tục giữ mức cao hơn 9% đến năm 2014: Các NHTM Nhà

nước (Vietcombank, BIDV) sau khi cổ phần hóa, gia tăng nguồn vốn tự có,
CAR có xu hướng cải thiện và tăng liên tục trong giai đoạn 2005-2011. Đến
các năm 2012-2015, CAR có biến động, song vẫn luôn đảm bảo tỷ lệ trên
9%.
II.1.2

Mức dự phòng rủi ro

Hiện nay, các NHTM Nhà nước đang có mức trích dự phòng rủi ro lớn
nhất. Chẳng hạn, chỉ riêng số trích dự phòng của BIDV, Vietcombank, Vietinbank
trong quý II/2014 lên tới 4.085 tỷ đồng, bằng gần 2/3 tổng mức trích lập của 12
ngân hàng cộng lại. Trong đó, BIDV giữ vị trí quán quân với 2.183 tỷ đồng trích
25


×