1
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN....................................... 8
1.1. Sáng tạo và năng lực sáng tạo ................................................................... 8
1.1.1. Tìm hiểu những đặc điểm về NLST của HS trong học tập..................... 8
1.1.2. Những biểu hiện NLST và các yếu tố cần thiết .................................... 12
1.2. Cơ sở lí luận về dạy học sáng tạo............................................................. 15
1.2.1. Dạy học sáng tạo trong dạy học vật lí ................................................... 15
1.2.2. Cơ sở tâm lí học về dạy học sáng tạo.................................................... 16
1.2.3. Cơ sở lí luận dạy học về dạy học sáng tạo............................................ 17
1.2.4. Các biện pháp dạy học sáng tạo trong môn vật lí ở trường phổ thơng 17
1.3. Vai trị của bài tập trong dạy học sáng tạo.............................................. 21
1.4. Thực trạng việc xây dựng và sử dụng BTST .......................................... 22
1.4.1. Nhận thức của GV về BTST và việc sử dụng BTST trong DHVL ...... 22
1.4.2. Nguyên nhân thực trạng ........................................................................ 23
1.4.3. Kết luận ................................................................................................. 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................. 24
CHƯƠNG 2: CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG BTST VÀ HỆ............. 25
2.1. Đề xuất các nguyên tắc xây dựng BTST.................................................. 25
2.1.1. Quan niệm BTST của Radumovxki ...................................................... 25
2.1.2. Quan niệm về STKH- KT theo lí thuyết TRIZ ..................................... 25
2.1.3. Đề xuất các nguyên tắc xây dựng BTST chương “Động học” ............. 42
2.1.4. Đề xuất các tiêu chí của biểu hiện NLST.............................................. 51
2
2.2. Xây dựng hệ thống BTST trong dạy học chương “Động học”................ 55
2.2.1. Các mục tiêu dạy học chương “Động học chất điểm” vật lí 10 NC ..... 55
2.2.2. Xây dựng hệ thống BTST trong dạy học chương “Động học”............. 78
2.2.3. Sử dụng BTST trong dạy học chương “Động học” .............................. 81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................ 109
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ............................................. 110
3.1. Mục đích TNSP...................................................................................... 110
3.2. Đối tượng TNSP..................................................................................... 110
3.3. Tiến hành TNSP ..................................................................................... 110
1.4. Kết quả TNSP ....................................................................................... 112
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3............................................................................ 121
KẾT LUẬN .................................................................................................. 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 124
PHỤ LỤC
3
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn:
- PGS.TS Tạ Tri Phương - người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và
động viên khuyến khích để tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
- Quý thầy cơ trong tổ phương pháp giảng dạy, khoa vật lí và Phòng
Sau Đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tác
giả hoàn thành khóa học và luận văn thạc sĩ.
- Ban giám hiệu và các thầy cơ trong tổ vật lí trường THPT Tam
Dương đã tạo điều kiện và góp ý chân thành cho tác giả trong khi làm luận văn
này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Huy Hoàng
LỜI CAM ĐOAN
4
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Huy Hoàng
5
MỞ ĐẦU
2. Lý do chọn đề tài
1.1. Hiện nay chúng ta đang sống trong thế kỷ của sự bùng nổ kiến thức
nhân loại, bùng nổ về khoa học- công nghệ, là thế kỷ mà “người ta coi sự
sáng tạo là yếu tố đặc trưng của con người”.
Trong thế kỷ này, một trong những yếu tố quan trọng để thành công về
kinh tế và dần trở thành yếu tố duy nhất chính là nguồn nhân lực năng động,
sáng tạo, có khả năng độc lập giải quyết vấn đề và gia quyết định. Nhiệm vụ
đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thời đại đặt trọng trách lên vai
ngành giáo dục và đào tạo. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, ở các trường học, ngoài
việc trang bị kiến thức, kỹ năng và phương pháp chuyên môn, việc rèn luyện
tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) ngày
càng trở lên cấp thiết và quan trọng.
Trước đây sáng tạo được xem như một yếu tố thần bí, bẩm sinh, thiên
phú thì hiện nay khoa học về sáng tạo đã đúc kết nhiều thành tựu giúp mỗi
người bình thường đưa ra và thực hiện ý tưởng mới, có ích. Trên thế giới có
nhiều trường đại học và các công ty dạy và học tư duy sáng tạo như một mơn
học riêng với mục đích đào tạo ra những người biết sáng tạo một cách có hiệu
quả.
Ở các trường học nước ta, phương pháp luận sáng tạo chưa được chú ý
đúng mức trong quá trình giáo dục và đào tạo. Việc rèn luyện tư duy sáng tạo
cho HS không được quan tâm chú ý nhiều và được thực hiện gián tiếp thông
qua việc học các môn học. Ở mơn vật lí, một trong những hoạt động giúp rèn
luyện tư duy và phát triển năng lực sáng tạo cho HS là hoạt động giải BT. Tuy
nhiên phương pháp suy nghĩ chủ yếu vẫn là phương pháp thử và sai, thiếu
định hướng, thiếu phương pháp khoa học gây ra sự lãng phí lớn và kém hiệu
quả. Hơn nữa hệ thống bài tập vật lí trong chương trình hầu hết là những bài
6
toán đã được phát biểu đúng, với những dữ kiện cho sẵn đủ gợi ý cho HS sử
dụng một vài cơng thức hay định luật nào đó. Các bài tập như thế chỉ mang
tính luyện tập giúp HS tái hiện các kiến thức và phương pháp đã biết, không
phải là bài tập thực tế trong cuộc sống đa dạng mà các em có thể gặp. Do đó
việc giải bài tập như thế chưa rèn luyện và khơi gợi được tư duy sáng tạo cho
HS, chưa làm được HS hứng thú trong học tập và thấy được ích lợi của việc
học tập vật lí trong đời sống.
1.2. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã khẳng định “Phải đổi mới
phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và phương tiện hiện đại của quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh…”
Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005, điều 28.2 đã ghi:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Để rèn luyện tư duy và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh thông
qua hoạt động giải bài tập được tốt thì nội dung và PPGD trong giai đoạn hiện
nay và trong tương lai phải được đổi mới.
1.3. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời
cơ và thách thức to lớn, để tránh được nguy cơ tụt hậu, việc rèn luyện NLST
cho thế hệ trẻ lại càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Trước hết việc
rèn luyện NLST cho học sinh có thể được tiến hành ngay khi các em còn ngồi
trên ghế nhà trường được thơng qua việc thực hiện các q trình sư phạm,
việc dạy học các mơn học khác nhau trong đó có mơn vật lí theo nội dung và
phương pháp dạy học được đổi mới và phù hợp với thời đại.
7
Việc hình thành kiến thức vật lí ở mức độ hiện đại cho học sinh là cơ sở để
học sinh nhận thức được thế giới vật chất, đồng thời phát triển năng lực trí tuệ
và nhân cách của họ. Việc hình thành kiến thức vật lí khơng chỉ trang bị cho
học sinh những tri thức cần thiết cho cuộc sống mà còn phát triển tư duy, rèn
luyện năng lực tự giải quyết vấn đề.
Việc giảng dạy bài tập vật lí trong nhà trường không chỉ giúp học sinh
hiểu được một cách sâu sắc và đầy đủ những kiến thức quy định trong chương
trình mà cịn giúp các em vận dụng những kiến thức đó để giải quyết những
nhiệm vụ của học tập và những vấn đề mà thực tiễn đã đặt ra. Muốn đạt được
điều đó, phải thường xuyên rèn luyện cho học sinh những kỹ năng, kỹ xảo
vận dụng kiến thức vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng vận dụng kiến thức
trong bài tập và trong thực tiễn đời sống chính là thước đo mức độ sâu sắc và
vững vàng của những kiến thức mà học sinh đã thu nhận được. Bài tập vật lí
với chức năng là một phương pháp dạy học có một vị trí đặc biệt trong dạy
học vật lí ở trường phổ thơng.
Trước hết, vật lí là một mơn khoa học giúp học sinh nắm được qui luật
vận động của thế giới vật chất và bài tập vật lí giúp học sinh hiểu rõ những
qui luật ấy, biết phân tích và vận dụng những qui luật ấy vào thực tiễn. Trong
nhiều trường hợp mặt dù người giáo viên có trình bày tài liệu một cách mạch
lạc, hợp lơgic, phát biểu định luật chính xác, làm thí nghiệm đúng u cầu,
qui tắc và có kết quả chính xác thì đó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để học
sinh hiểu và nắm sâu sắc kiến thức. Chỉ thông qua việc giải các bài tập vật lí
dưới hình thức này hay hình thức khác nhằm tạo điều kiện cho học sinh vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì kiến thức đó
mới trở nên sâu sắc và hồn thiện. Trong quá trình giải quyết các tình huống
cụ thể do các bài tập vật lí đặt ra, học sinh phải sử dụng các thao tác tư duy
như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa…để giải
8
quyết vấn đề, do đó tư duy của học sinh có điều kiện để phát triển. Vì vậy có
thể nói bài tập vật lí là một phương tiện rất tốt để phát triển tư duy, óc tưởng
tượng, khả năng độc lập trong suy nghĩ và hành động, tính kiên trì trong việc
khắc phục những khó khăn trong cuộc sống của học sinh. Ngày nay trong
thực tiễn dạy học vật lí, người ta ngày càng chú ý tăng cường các bài tập vật lí
vì chúng đóng vai trị quan trọng trong dạy học và giáo dục học sinh đặc biệt
trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục kĩ thuật tổng hợp. Giải các BTVL
được xem như mục đích, là phương pháp dạy học, là một phần hữu cơ của
quá trình dạy học vật lí vì nó khơng chỉ có tác dụng giúp cho HS phát triển tư
duy vật lí và thói quen vận dụng kiến thức vật lí vào thực tế mà cịn có tác
dụng tích cực trong việc hình thành kiến thức mới và làm phong phú các khái
niệm vật lí.
1.4. Đã có một số đề tài khoa học nghiên cứu về bài tập sáng tạo như
luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập sáng tạo
trong dạy học phần cơ học lớp 10 THPT” của tác giả Vũ Thị Minh (2011),
luận văn thạc sĩ: “Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập sáng tạo phần cơ học
lớp 10 THPT dựa trên một số nguyên tắc của TRIZ nhằm bồi dưỡng tư duy
sáng tạo cho học sinh” của tác giả Huỳnh Ngọc Nguyên (2010), luận văn thạc
sĩ: “Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh thông qua việc dạy giải một số
bài tập đề tài ‘các định luật bảo toàn’ SGK vật lí 10 THPT” của tác giả Đồn
Văn Khoa (2011). Tuy nhiên, trong các đề tài khoa học nghiên cứu về bài tập
sáng tạo chưa có các tiêu chí cho khái niệm “BTST”, việc lựa chọn bài tập
sáng tạo mang tính mị mẫm, ngẫu nhiên.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Xây dựng và sử
dụng bài tập sáng tạo trong dạy học chương “Động học chất điểm” vật lí 10
THPT chương trình Nâng cao.
9
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để đưa ra các nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập sáng
tạo. Trên cơ sở các nguyên tắc đó tiến hành xây dựng và sử dụng BTST dùng
để dạy học chương “Động học chất điểm” vật lí 10 THPT chương trình Nâng
cao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động dạy học chương “ Động học chất
điểm” vật lí lớp 10 THPT chương trình Nâng cao.
- Phạm vi nghiên cứu: Hệ thống bài tập chương “ Động học chất điểm”
vật lí 10 THPT chương trình Nâng cao.
4. Giả thuyết khoa học
Việc đưa ra được các nguyên tắc để xây dựng BTST, việc sử dụng các
BTST có mục đích, phù hợp với quy luật nhận thức sáng tạo sẽ tạo ra khả
năng cao trong việc rèn luyện NLST cho HS trong học tập vật lí.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa, phân tích những tài liệu liên quan đến “sáng tạo”, “dạy
học sáng tạo”, “BTVL”.
- Phân tích nội dung, mục tiêu dạy học chương “Động học chất điểm”.
- Đề xuất nguyên tắc xây dựng “ BTST” chương “Động học chất
điểm” và tiến hành xây dựng một hệ thống BTST phục vụ cho việc dạy học
chương “Động học chất điểm”.
- Đề xuất các tiêu chí để đánh giá được các biểu hiện của “ NLST”.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá hệ thống BTST đã xây dựng.
- Điều tra thực trạng giải bài tập chương “Động học chất điểm”.
10
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, đề tài sử dụng các phương pháp
chủ yếu sau:
6.1. Phương pháp lí luận được sử dụng để xác lập các quan điểm của
chỉ đạo cơ bản của nghiên cứu.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Điều tra giáo dục, sử dụng phương pháp này để khảo sát tình hình dạy
học vật lí nói chung, dạy học bài tập vật lí nói riêng ở một THPT trong huyện
Tam Dương- Vĩnh Phúc thơng qua hình thức phiếu hỏi giáo viên và học sinh.
- Quan sát sư phạm: phương pháp này được sử dụng trong quá trình dự
giờ giáo viên.
- Tọa đàm với giáo viên về phương pháp dạy học vật lí nói chung, dạy
học bài tập vật lí nói riêng.
- Thực nghiệm sư phạm: sử dụng phương pháp này để kiểm nghiệm
tính khoa học, khả thi, hiệu quả của hệ thống bài tập vật lí được xây dựng.
6.3. Sử dụng thống kê tốn học để xử lí số liệu điều tra thực tế và thực
nghiệm sư phạm.
7. Những đóng góp của nghiên cứu
7.1. Đóng góp về mặt lí luận
- Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề liên quan đến khái
niệm “ sáng tạo” và “ dạy học sáng tạo”.
- Đề xuất các nguyên tắc xây dựng bài tập sáng tạo vào chương “Động
học chất điểm” vật lí 10 THPT chương trình Nâng cao.
7.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Khả năng sử dụng hệ thống bài tập sáng tạo vào dạy học.
11
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của rèn luyện năng lực sáng tạo
cho học sinh trong dạy học vật lí.
Chương 2: Các nguyên tắc xây dựng BTST và hệ thống bài tập sáng
tạo trong dạy học chương “Động học chất điểm” vật lí lớp 10 THPT chương
trình Nâng cao.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA RÈN LUYỆN NĂNG LỰC
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
1.2. Sáng tạo và năng lực sáng tạo.
1.1.1. Tìm hiểu những đặc điểm về NLST của HS trong học tập.
1.1.1.1. Khái niệm về năng lực sáng tạo.
* Khái niệm về năng lực:
Theo tâm lí học, “năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá
nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo
việc hồn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy” [24, tr.87]
Vậy, năng lực là những thuộc tính tâm lí riêng của cá nhân, nhờ những
thuộc tính này mà con người hồn thành tốt đẹp một loại hoạt động nào đó
mặc dù phải bỏ ra ít sức lao động nhưng vẫn đạt kết quả cao.
Sự hình thành và phát triển năng lực của con người chịu sự tác động
của nhiều yếu tố trong đó có yếu tố sinh học, yếu tố hoạt động của chủ thể và
yếu tố giao lưu xã hội. Con người sinh ra chưa có năng lực, chưa có nhân
cách. Năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động tích
cực như rèn luyện, học tập, giáo dục,…của con người.
Năng lực của HS- xét cho cùng là mục đích cuối cùng của việc dạy học.
Do đó những yêu cầu về phát triển năng lực HS cần được đặt đúng chỗ của
chúng trong mục đích dạy học.
Năng lực gắn liền với kĩ năng, kĩ xảo trong lĩnh vực hoạt động tương
ứng. Song kĩ năng, kĩ xảo liên quan đến sự phân biệt đến mức thành thạo, tự
động hóa, máy móc, còn năng lực chứa đựng yếu tố mới mẻ, linh hoạt trong
hoạt động, trong việc giải quyết trong nhiều tình huống trong một lĩnh vực
rộng lớn hơn.
13
* Khái niệm về sáng tạo:
“Sáng tạo là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh
thần hay vật chất có tính cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị giúp giải quyết
một khó khăn, bế tắc nhất định” (Bách khoa tồn thư Liên Xô, Tập 42, tr.54)
Trong từ điển Tiếng Việt [17, tr.847] thì “sáng tạo là tìm ra cái mới,
cách giải quyết mới, khơng bị gị bó, phụ thuộc vào cái đã có”
Theo từ điển triết học, “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người
tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng tạo
được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kỹ thuật, tổ chức quân
sự. Có thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh
thần.
Theo Phan Dũng [6], “sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kỳ cái gì có đồng
thời tính mới và tính ích lợi”
+ “Tính mới” là sự khác biệt của đối tượng cho trước so với đối tượng
tiền thân của nó (đối tượng cùng loại ra đời trước đó về mặt thời gian).
+ “Tính ích lợi” được tạo ra nhờ tính mới và rất đa dạng. Tính ích lợi
chỉ thể hiện ra khi đối tượng cho trước “làm việc” theo đúng chức năng và
trong phạm vi áp dụng của nó.
Theo định nghĩa này thì kết quả sáng tạo phải có đồng thời tính mới và
tính ích lợi, nếu chỉ có tính mới hoặc chỉ có tính ích lợi thì khơng được coi là
sáng tạo.
Nhìn từ các góc độ khác nhau, sáng tạo của con người được xem xét ở
nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau và nó có các mức độ cao, thấp khác
nhau. Nếu xuất phát từ nhu cầu cá nhân và nhằm thỏa mãn các nhu cầu cá
nhân thì người ta có thể chia sáng tạo của con người thành hai loại:
+ Sáng tạo nhằm nhận thức (biết, hiểu, giải thích…) hiện thực khách
quan cũng như chính bản thân mình; loại này thuộc khái niệm phát minh.
14
+ Sáng tạo nhằm biến đổi (cải tạo….) hiện thực khách quan cũng như
chính bản thân mình; loại này thuộc khái niệm sáng chế, có mức sáng tạo rất
nhiều và được bảo hộ độc quyền.
Sáng tạo thường được hiểu là đề ra những ý tưởng mới, độc đáo, hữu
ích phù hợp với hoàn cảnh. Người ta thường nghĩ, sáng tạo là khả năng chỉ có
ở các nhà khoa học. Nhưng thực ra trong mọi lĩnh vực hoạt động và mọi
người đều có khả năng sáng tạo.
Sáng tạo và ln mong muốn sáng tạo là nhu cầu của con người. Sáng
tạo là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người, tạo ra sự
phát triển toàn diện của xã hội, tạo ra sự thay đổi từ lĩnh vực này sang lĩnh
vực khác. Có thể nói ai cũng đều đã từng sáng tạo trong cuộc đời mình. Trong
nhà trường, sáng tạo của học sinh hầu hết còn hẹp, chỉ mới và ích lợi đối với
bản thân học sinh mà thơi. Do vậy, dạy học nói chung và dạy học vật lí nói
riêng phải giúp học sinh rèn luyện sáng tạo để hướng tới mục tiêu cao hơn là
đào tạo những người có khả năng sáng tạo ra những cơng trình có tính mới và
tính ích lợi ở mức nhân loại.
* Khái niệm NLST:
NLST là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh thần, tìm
ra cái mới, giải pháp mới, cơng cụ mới, vận dụng thành cơng những hiểu biết
đã có vào hồn cảnh mới.
Đối với HS, NLST trong học tập chính là năng lực biết giải quyết vấn
đề học tập để tìm ra cái mới ở một mức độ nào đó thể hiện được khuynh
hướng, năng lực, kinh nghiệm của cá nhân học sinh. HS sáng tạo cái mới đối
với chúng nhưng thường khơng có giá trị xã hội. Để có sáng tạo, chủ thể phải
ở trong tình huống có vấn đề, tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhận thức hoặc
hành động và kết quả là đề ra được phương hướng giải quyết không giống
15
bình thường mà có tính mới mẻ đối với HS (nếu chủ thể là HS) hoặc có tính
mới mẻ đối với loài người (như thể là nhà nghiên cứu).
Như vậy có thể nói rằng: đối với HS, NLST trong học tập là năng lực
tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, năng lực phát hiện ra điều chưa biết, chưa
có và tạo ra cái chưa biết, chưa có khơng bị gị bó phụ thuộc vào cái đã có.
Năng lực nói chung và NLST nói riêng khơng phải chỉ do bẩm sinh mà
được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động của chủ thể. Bởi vậy,
muốn hình thành năng lực học tập sáng tạo, phải chuẩn bị cho học sinh những
điều kiện cần thiết để họ có thể thực hiện thành công với một số kết quả mới
mẻ nhất định hoạt động đó.
1.1.1.2. Những đặc điểm của q trình sáng tạo của HS trong học tập
Để xác định những con đường cụ thể hơn nữa cho việc thực hiện các
điều kiện cần thiết nhằm rèn luyện NLST của HS trong học tập nói chung,
trong học tập VL nói riêng, ta cần phải xét tới một vài đặc điểm tâm lí của
q trình sáng tạo.
Một trong những đặc điểm quan trọng của hoạt động sáng tạo là vấn đề
tính mới mẻ. Trong thực tế, nếu chỉ coi là có tính sáng tạo những hoạt động
nào mà kết quả của nó là những sản phẩm mới một cách khách quan thì coi
như khơng tổ chức được loại hoạt động đó trong q trình dạy học. Tuy
nhiên, theo quan điểm tâm lí học, sản phẩm mới mẻ có tính chất chủ quan
đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động dạy học sáng tạo.
Tính chủ quan của cái mới được xem như dấu hiệu đặc trưng của quá
trình sáng tạo, cho ta khả năng định hướng hoạt động sáng tạo của HS. Cái
mới và cái chưa biết của HS có thể và cần phải là cái đã biết đối với GV,
nhưng cũng có thể là cái mà GV chưa biết. Chẳng hạn: lời giải độc đáo của
một BT. Tuy nhiên đó là điều kiện cần thiết nhưng chưa đầy đủ. Đặc trưng
tâm lí quan trọng của sáng tạo có bản chất hai mặt: chủ quan và khách quan.
16
Tính chủ quan xét theo quan điểm của người nhận thức mà trong đầu
đang diễn ra quá trình sáng tạo, thể hiện là: các sản phẩm sáng tạo cịn mang
tính chủ quan. Tính khách quan xét theo quan điểm của người nghiên cứu q
trình sáng tạo đó với tư cách là tác động qua lại của 3 thành tố: tự nhiên, ý
thức con người và các hình thức phản ánh của tự nhiên vào ý thức con người.
Có thể nói quá trình sáng tạo bao gồm những đặc trưng cơ bản
sau:
Tính mới mẻ của sản phẩm, tính bất ngờ của phỏng đốn, tính ngẫu
nhiên của phát kiến, những cái làm cho q trình sáng tạo có tính chất khơng
nhận biết được, khơng điều khiển được đều có tính chất tương đối. Bởi vậy
đặc điểm quan trọng của quá trình sáng tạo trong học tập nói chung và học tập
VL nói riêng là tính mới mẻ chủ quan của sản phẩm, tính bất ngờ chủ quan
phỏng đốn, tính ngẫu nhiên chủ quan của phát kiến.
NLST chỉ được phát triển qua hành động thực tế: trong chiếm lĩnh kiến
thức VL, vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng VL, làm thí nghiệm và
giải các BTVL trong các tình huống khác nhau. Tính tích cực sáng tạo và tốc
độ diễn ra của q trình sáng tạo là những thơng số có liên quan với nhau. HS
càng được chuẩn bị cho việc hoàn thành sự khám phá chủ quan tốt bao nhiêu
thì hoạt động sáng tạo của các em đó càng tích cực bấy nhiêu và quá trình
sáng tạo càng nhanh hơn bấy nhiêu.
1.1.2. Những biểu hiện NLST và các yếu tố cần thiết cho việc bồi dưỡng
NLST trong học tập của HS
1.1.2.1. Những biểu hiện NLST của HS trong học tập
Theo chúng tơi có thể nêu lên những biểu hiện NLST của HS trong học
tập như sau:
17
1. Năng lực tự truyền tải tri thức và kĩ năng từ những lĩnh vực quen biết
sang tình huống mới, vận dụng kiến thức đã học trong điều kiện hoàn
cảnh mới.
2. Năng lực nhận biết vấn đề mới trong điều kiện quen biết (tự đặt câu hỏi
mới cho mình và cho mọi người về bản chất các điều kiện, tình huống,
sự vật). Năng lực nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết.
3. Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Thực chất
là: bao quát nhanh chóng, đơi khi ngay lập tức, các bộ phận, các yếu tố
của đối tượng trong mối tương quan giữa chúng với nhau.
4. Năng lực biết đề xuất giải pháp khác nhau khi phải xử lí một tình
huống. Khả năng huy động các kiến thức cần thiết để đưa ra các giả
thuyết hay các dự đoán khác nhau khi phải lí giải một hiện tượng.
5. Năng lực xác nhận bằng lí thuyết và thực hành các giả thuyết (hoặc phủ
nhận nó). Năng lực biết đề xuất các phương án TN hoặc thiết kế các sơ
đồ TN để kiểm tra giả thuyết hay hệ quả suy ra từ lí thuyết, hoặc để đo
một đại lượng vật lí nào đó với hiệu quả cao nhất có thể được trong
những điều kiện đã cho.
6. Năng lực nhìn nhận một vấn đề dưới những góc độ khác nhau, xem xét
đối tượng ở những khía cạnh khác nhau, đơi khi mâu thuẫn nhau. Năng
lực tìm ra các giải pháp lạ. Chẳng hạn: đối với BTVL, có nhiều cách
nhìn đối với việc tìm kiếm lời giải, năng lực kết hợp nhiều phương
pháp giải BT để tìm một phương pháp mới, độc đáo.
1.1.2.2. Các yếu tố cần thiết cho việc bồi dưỡng NLST của HS trong học
tập
Nếu ở nhà trường HS được tập luyện làm những việc có tính chất sáng
tạo thì sau này trong cơng tác sản xuất và hoạt động xã hội họ mới có thói
quen suy nghĩ linh hoạt, nhạy cảm. Trước hết phải nói tới một yếu tố quan
18
trọng để nảy sinh sáng tạo và hứng thú. Cho nên ngay từ trên ghế nhà trường
muốn rèn luyện cho HS tính sáng tạo thì trước tiên GV giảng dạy, ra BT sao
cho HS hứng thú học tập. Hứng thú gây ra sáng tạo và sáng tạo lại thúc đẩy
hứng thú mới, HS cần có hứng thú nhận thức cao, cần có sự khao khát nhận
thức cái mới và vận dụng cái mới vào thực tế như áp dụng kiến thức để làm
các BT vận dụng, khái quat hóa các BT vận dụng để làm các dạng BT mới.
Yếu tố thứ hai cần thiết để sáng tạo là phải có kiến thức cơ bản, vững
chắc. Một quá trình sáng tạo bất kì đều bắt đầu từ sự tái hiện những cái đã
biết. Tâm lí học hiện đại khơng phủ nhận những vai trị của trí nhớ. Dĩ nhiên,
chỉ ghi nhớ đơn thuần, không biết suy nghĩ vận dụng sáng tạo thì đó là kiến
thức chết, vơ dụng. Người HS phải vận dụng tri thức đã biết vào tình huống
mới vào giải thích hiện tượng VL, giải các BTVL trong các trường hợp khác
nhau.
L.X.Vưgôtxki đã phê phán những quan điểm không đúng cho rằng sáng
tạo là mảnh đất riêng của những người có tài năng, thiên tài, cịn con người
bình thường thì tuyệt nhiên khơng có khả năng đó. L.X.Vưgơtxki cho rằng ở
những nơi con người biết phối hợp những cái cũ, tạo ra cái mới đều là sáng
tạo. Vì vậy kiến thức cơ bản vững chắc phải là yếu tố cần thiết cho rèn luyện
NLST.
Yếu tố thứ ba để sáng tạo là: HS cần có tính “Nghi ngờ khoa học”, luôn
đặt câu hỏi: “cách làm này hay phương án giải BT này đã tối ưu hay chưa?”,
“có cịn cách khác khơng?”hay “BT này có thể mở rộng như thế nào?”.
Theo P.L capitxa: “giáo dục khả năng sáng tạo trong con người dựa
trên sự phát triển của tư duy độc lập”. Do đó một yếu tố nữa khơng thể thiếu
của việc rèn luyện NLST của HS là: HS cần phải có khả năng tư duy độc lập.
Đó là khả năng của con người trong việc tự xác định phương hướng
hoạt động của mình trong tình huống mới, tự phát hiện và nêu lên các vấn đề
19
cần giải quyết và thực hiện nó. Như vậy các điều kiện để hoàn thành các phát
kiến càng được chuẩn bị tốt bao nhiêu thì tính chủ động sáng tạo càng được
nâng cao bấy nhiêu.
1.2. Cơ sở lí luận về dạy học sáng tạo
1.2.1. Dạy học sáng tạo trong dạy học vật lí
Trong giới hạn đề tài này, dạy học sáng tạo được hiểu là dạy học nhằm
bồi dưỡng TDST cho học sinh.
Theo lí thuyết vùng phát triển gần của Vưgơtsxki thì có thể dạy được,
bồi dưỡng được TDST cho HS.
Trong khoa học, nếu phân loại theo sản phẩm sáng tạo, hoạt động
TDST được chia thành phát minh và sáng chế. Áp dụng vào DHVL ở trường
phổ thông được chia thành hai dạng: Dạy học sinh phát minh lại định luật,
thuyết vật lí và dạy HS sáng chế lại các thiết bị kĩ thuật. Việc dạy học những
ứng dụng kĩ thuật của VL ở trường phổ thơng có thể diễn ra theo hai con
đường :
- Con đường thứ nhất là quan sát cấu tạo của đối tượng kĩ thuật có sẵn,
giải thích ngun tắc hoạt động của nó. Đây là bài toán “hộp trắng”: Biết cấu
tạo bên trong của hộp, biết tác động ở đầu vào và kết quả của đầu ra, giải
thích nguyên tắc hoạt động.
- Con đường thứ hai là dựa vào những định luật vật lí, những đặc tính
vật lí của sự vật, hiện tượng, thiết kế một thiết bị nhằm giải thích một yêu cầu
kỹ thuật nào đó. Con đường này thực chất là tìm tịi, phát minh lại một thiết
bị, máy móc dùng trong kĩ thuật, là một bài tập sáng tạo.
Đây là bài toán “hộp đen”. Đã từ lâu, các nhà khoa học đã biết sử dụng
TRIZ để ứng dụng các định luật vật lí vào chế tạo nên các thiết bị, máy móc
có tính năng, tác dụng nhất định đáp ứng những yêu cầu của kĩ thuật và cuộc
20
sống. Chuyển dịch sang DHVL, có thể sử dụng TRIZ vào xây dựng và hướng
dẫn HS giải bài tập sáng tạo.
1.4.2. Cơ sở tâm lí học về dạy học sáng tạo.
Dạy học sáng tạo lấy lí thuyết thích nghi của Piaget và lí thuyết về vùng
phát triển gần của Vưgơtsxki làm cơ sở.
Lí thuyết thích nghi của Piaget chỉ ra rằng những phẩm chất mới của
con người được phát triển từ chính những hoạt động tích cực, tự lực của con
người. Mặt khác, Vưgơtsxki trong lí thuyết về vùng phát triển gần lại cho
rằng: “Dạy học được cho là tốt nhất nếu nó đi trước sự phát triển và kéo theo
sự phát triển”. Lí luận dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải có tác dụng thúc
đẩy sự phát triển trí tuệ của người học”. Thơng qua hoạt động trí tuệ HS phát
triển dần từ thấp đến cao. Trình độ ban đầu của HS tương ứng với “vùng phát
triển hiện tại”. Trình độ này cho phép HS có thể thu được những kiến thức
gần gũi nhất với kiến thức cũ để đạt được trình độ mới cao hơn. Vưgơtsxki
gọi đó là “vùng phát triển gần nhất”. Khi HS đạt được vùng phát triển gần
nhất, nghĩa là các em ở “vùng phát triển hiện tại” nhưng ở trình độ mới cao
hơn. Người giáo viên tiếp tục tổ chức và giúp đỡ HS đưa các em tới “vùng
phát triển gần nhất” mới để sau đó lại trở thành “vùng phát triển hiện tại”. Cứ
tiếp tục như vậy, sự phát triển của HS đi từ nấc thang này đến nấc thang khác
cao hơn. Nếu người thầy biết phát huy tốt vai trò tổ chức điều khiển làm giảm
nhẹ khó khăn cho HS trong q trình nhận thức, biết cách khuyến khích HS
tham gia vào hoạt động nhận thức tích cực trong dạy học thì trí tuệ của học
sinh có thể được phát triển tốt. Mặt khác, đối với học sinh để tự lực phát triển
trí tuệ khơng có cách nào khác là phải tự mình hoạt động, hoạt động một cách
tích cực, tự giác trong sự tương tác với xã hội. DHST có thể giải quyết được
tất cả các vấn đề trên.
21
1.4.3. Cơ sở lí luận dạy học về dạy học sáng tạo.
Dạy học sáng tạo là biểu hiện sự thống nhất giữa chức năng giáo dục,
giáo dưỡng và phát triển. Trong dạy học sáng tạo, học sinh tự chiếm lĩnh
được kiến thức phỏng theo các giai đoạn nghiên cứu của nhà khoa học.
Khảo sát chu trình sáng tạo của V.G.Razumơpxki đã chỉ ra hai giai
đoạn khó khăn địi hỏi sự sáng tạo là giai đoạn từ sự kiện khởi đầu tới xây
dựng mơ hình giả thuyết trừu tượng và giai đoạn chuyển từ một tiên đề lí
thuyết và những quy luật nhất định của hiện tượng sang việc kiểm tra bằng
thực nghiệm. Giai đoạn thứ nhất đòi hỏi sự giải thích hiện tượng, trả lời câu
hỏi “Tại sao”; giai đoạn thứ hai đòi hỏi thực hiện một hiện thực, đáp ứng các
yêu cầu đã cho, đòi hỏi trả lời câu hỏi “Làm thế nào” Đó là cở sở ra đời loại
BT nghiên cứu và BT thiết kế chế tạo trong dạy học.
1.4.4. Các biện pháp dạy học sáng tạo trong mơn vật lí ở trường phổ
thơng
Theo [11] [22], có một số biện pháp sau đây nhằm phát huy NLST của
học sinh trong DHVL:
1.4.4.1. Áp dụng phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề
Như ta đã biết, tư duy chỉ phát triển trong hồn cảnh có vấn đề và sự
sáng tạo chỉ nảy sinh trong khi giải quyết vấn đề đó. Vì vậy, người giáo viên
nên giải học theo phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề. Tùy theo
nội dung kiến thức của bài học, trình độ của HS, điều kiện về thời gian và cơ
sở vật chất nhà trường mà có thể áp dụng dạy học nêu và giải quyết vấn đề
theo các mức độ khác nhau.
- Mức thấp nhất: Trong một bài lên lớp, giáo viên đặt hệ thống câu hỏi
phục vụ trọng tâm, mục đích, yêu cầu của bài giảng;
- Mức độ cao: Giáo viên đặt đề tài nhỏ;
22
+ HS hồn thành ở lớp, phịng thí nghiệm hay ở nhà rồi trình bày trước
tổ hoặc lớp. Có thảo luận, kết luận.
+ Giáo viên gợi ý cho HS tự đặt vấn đề rồi nghiên cứu giải quyết vấn
đề.
Dạy học giải quyết vấn đề có tác dụng to lớn trong việc bồi dưỡng năng
lực TDST cho HS vì:
- Ln đặt HS vào tình huống có vấn đề làm xuất hiện các nhu cầu giải
quyết vấn đề của HS (rèn luyện thói quen tự đặt câu hỏi hay thói quen phát
hiện vấn đề cần giải quyết của người học).
- Rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề.
1.4.4.2. Chuyển hóa phương pháp nhận thức của vật lí học thành phương
pháp dạy học vật lí
Khi người giáo viên biết chuyển hóa phương pháp nhận thức của vật lí
học thành phương pháp dạy học vật lí tức là dạy cho HS nghiên cứu khoa học.
Người GV đặt HS vào vị trí của nhà khoa học và hướng dẫn họ thực
hiện các hoạt động học tập phỏng theo các hoạt động của nhà khoa học, kết
quả HS vừa thu nhận được kiến thức vừa biết được con đường tạo ra kiến
thức đó.
1.4.4.3. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học
Các phương tiện dạy học gồm các thiết bị dạy học, phịng bộ mơn,
phịng thí nghiệm, vườn thí nghiệm, bàn ghế, các phương tiện kĩ thuật.
Giáo án điện tử là phương tiện dạy học hiện đại, sử dụng hiệu quả khá
cao.
Sử dụng các phương tiện dạy học một cách hợp lí khơng những giúp
HS có điều kiện nhận thức thế giới bên ngoài tốt hơn, rèn luyện TDST đồng
thời giảm cường độ lao động của giáo viên. Phương tiện trực quan không
23
những cung cấp cho HS kiến thức bền vững, chính xác, mà còn gây hứng thú
học tập, tăng chú ý đối với bài học.
Khi tiếp xúc với các tình huống xẩy ra trong thực tiễn ở các bài thí
nghiệm thực hành, tư duy của HS luôn được đặt ở trước vấn đề mới buộc họ
phải suy nghĩ, tìm tịi, phát triển năng lực TDST của HS.
1.4.4.4. Rèn luyện trí tưởng tượng, tư duy khơng gian, tư duy lơgic cho
học sinh
Ĩc tưởng tượng, tư duy không gian, tư duy lôgic là ba năng lực rất cần
thiết cho người lao động sáng tạo.
Theo [13], tưởng tượng là xây dựng trong đầu những hình ảnh mới trên
cơ sở các biểu tượng đã có. Tượng tượng phong phú là yếu tố quan trọng nhất
góp phần phát triển TDST cho HS.
Tuy duy không gian phát triển tức là óc tưởng tượng khơng gian phong
phú. Khơng gian ở đây có thể là 3 chiều hoặc vơ số chiều. Nói cách khác, tư
duy khơng gian giúp cho cách nhìn nhận vấn đề theo nhiều cách khác nhau và
tùy từng bài toán, ta chọn cách đi tới kết quả sớm nhất, hiệu quả nhất.
Bồi dưỡng tư duy không gian giúp cho việc nhìn nhận sự vật, hiện
tượng một cách tổng thể và tồn diện hơn, tránh cách nhìn cục bộ, phiến diện
về một vấn đề, sự vật. Tư duy khơng gian phát triển làm cho các q trình tư
duy trở lên khái quát hơn, toàn diện hơn, sáng tạo hơn.
Một chuỗi suy luận dù có mang tính sáng tạo hay khơng thì đều có suy
luận lơgic, vì vậy, tư duy lơgic mà phát triển thì sẽ thúc đẩy được TDST phát
triển, người có TDST nhất định sẽ có suy luận lôgic tốt.
1.4.4.5. Đưa bài tập sáng tạo về vật lí vào dạy học
Để giải BTST, cần phải có sự nhạy bén trong tư duy, khả năng tưởng
tượng, sự vận dụng kiến thức một cách sáng tạo trong những tình huống mới,
hồn cảnh mới, HS phát hiện ra những cái chưa biết, những điều chưa biết
24
đầy đủ đối với HS. Loại bài tập này yêu cầu HS có khả năng đề xuất, đánh giá
theo ý kiến riêng của HS, vì vậy sẽ bồi dưỡng được năng lực TDST của HS.
1.4.4.6. Bồi dưỡng phương pháp tự học
Qua những sáng tạo được thể hiện từ thời Thomas Edison đến thời Bill
Gates, giới khoa học kĩ thuật ngày càng nhận thấy giữa khả năng sáng tạo và
việc tự học có một mối liên hệ nhân quả. Tạp trí Science et Vie (Pháp) đã
viết: “Ai tự học mạnh nhất, người đó tích lũy được tiềm năng sáng tạo dồi dào
nhất. Ngược lại, ai có nhu cầu sáng tạo nhiều hơn, người ấy càng thơi thúc ý
trí tự học cao hơn”.
Như chúng ta đã biết, tự học thì mới có thể hiểu sâu và nhớ lâu kiến
thức được vì đó là đặc điểm thu nhận thông tin của bộ não đa số con người.
Thật vậy:
- Nếu chỉ nghe thì thu nhận tối đa được 20%
- Nếu chỉ nghe và nhìn thì thu nhận tối đa là 50%
- Nếu nghe, nhìn, thảo luận và tái hiện, vận dụng thì thu nhận tối đa
được 90%
Nếu HS tự lực tìm kiếm được kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của
thầy giáo thì phần trăm thu nhận cịn cao hơn nhiều. GV khơng những dạy
cho HS cách tự học (tự tìm kiếm và xử lí thơng tin) ngay trên lớp mà cịn
hướng dẫn HS cách tự học ở nhà. Học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng.
Tự học là học sinh tự mình nghiền ngẫm, lật đi lật lại vấn đề, hình
thành những thắc mắc, những câu hỏi và cố gắng tự trả lời. Trong q trình tự
học đó, tư duy độc lập, tư duy phê phán và TDST được hình thành nảy nở.
1.4.4.7. Giáo dục tính tích cực và sáng tạo của học sinh
Giáo dục tính tích cực, sáng tạo cho HS tức là:
- Khơi gợi, mở rộng tiềm năng to lớn về học tập của HS bằng cách để
họ tự đào sâu suy nghĩ, tìm tịi, phát huy khả năng của mình, đồng thời nêu
25
gương các nhà khoa học hay HS, SV tiêu biểu trong q trình học tập bộ mơn
sẽ kích thích được tiềm năng sáng tạo và quyết tâm phấn đấu học tập theo
những tấm gương đó.
- Giúp HS ham học, hứng thú học tập, biết cách tự học, khám phá thế
giới.
- Giúp HS rèn luyện để phát triển năng lực TDST, năng lực phát hiện
và giải quyết vấn đề.
1.5. Vai trò của bài tập trong dạy học sáng tạo.
Theo [27] thì BTVL được định nghĩa “trong thực tiễn dạy học, người ta
thường gọi BTVL là một vấn đề không lớn mà trong trường hợp tổng quát nó
được giải quyết nhờ những suy luận lơgic, những phép tốn và thí nghiệm
trên cơ sở các định luật và phương pháp vật lí….thơng thường, trong sách
giáo khoa và tài liệu lí luận và dạy học bộ môn người ta hiểu những BTVL là
những bài tập được lựa chọn một cách phù hợp với mục đích nghiên cứu các
hiện tượng vật lí, hình thành các khái niệm, phát triển tư duy vật lí của HS và
rèn luyện kĩ năng vận dụng các kiến thức của họ vào thực tiễn”.
Trong dạy học ở trường phổ thông BTVL có nhiều tác dụng như:
- Giúp cho việc ơn tập đào sâu, mở rộng kiến thức.
Khi xây dựng kiến thức, học sinh đã nắm được những cái chung, những
khái niệm, những định nghĩa….là những cái trừu tượng. Trong bài tập, HS
phải vận dụng những kiến thức khái quát, trừu tượng đó vào những trường
hợp cụ thể rất đa dạng, nhờ thế mà học sinh nắm được những biểu hiện cụ thể
của chúng trong thực tế.
Ngoài những ứng dụng quan trọng trong kĩ thuật, BTVL sẽ cho HS
thấy những ứng dụng mn hình, mn vẻ trong thực tiễn của những kiến
thức đã học.
- BT có thể là điểm khởi đầu để dẫn dắt đến kiến thức mới.