Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận môn Triết học: Vận dụng lý luận về hình thái KTXH vào quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.61 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................1
LỜI GIỚI THIỆU..................................................................................................2
PHẦN A: GIỚI THIỆU.........................................................................................3
I. Khái niệm về hình thái Kinh tế - Xã hội.......................................................3
II. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................3
III. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.........................................4
PHẦN B: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI...........4
I. Học thuyết về hình thái KT-XH. Nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử................................................................................................................4
1. Những cơ sở xuất phát để xây dựng lý luận hình thái KT-XH.................4
2. Hình thái KT-XH.......................................................................................6
3. Sự phát triển của các hình thái KT-XH.....................................................9
II. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển tất yếu của cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay................................................................11
1. Hình thái KT-XH của Mác trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay..........................................................................................11
2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ...................................12
3. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta......................................................16
PHẦN C: KẾT LUẬN.........................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................20
CHÚ THÍCH.......................................................................................................21

1


LỜI GIỚI THIỆU
Triết học Mác - Lênin có thể nói là một môn học rất khó để có thể hiểu được
cặn kẽ, rõ ràng về nó. Do vậy việc làm bài “Tiểu luận Triết học” cũng hẳn không nằm
ngoài mục đích giúp cho sinh viên có thể hiểu sâu, rộng hơn về môn học này. Muốn
vậy mỗi người phải tự tìm tòi, tra khảo các tài liệu, sách báo để phục vụ cho công việc


của mình. Đề tài “Vận dụng lý luận về hình thái KT-XH vào quá trình phát triển
của Việt Nam ngày nay” hẳn rất bổ ích và cần thiết vì từ xưa con người đã muốn tìm
hiểu về chính mình, về thế giới xung quanh mà vấn đề đặt ra hết sức bức xúc là Kinh
tế - Xã hội (gọi tắt là KT-XH) nó bao trùm lên tất cả, nó gắn liền với mỗi người mà ở
đây hình thái KT-XH của Mác là một bước đột phá, là nền tảng lý luận của Chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Việc nghiên cứu nó như thế nào để vận dụng vào thực tiễn nước ta,
làm rõ quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là hết sức cần thiết.
Từ những nhận thức trên tôi đã chọn đề tài này để làm bài tiểu luận của mình.
Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài, mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn còn
nhiều thiếu sót. Tôi rất mong có được sự góp ý của thầy để bài làm có thể hoàn thiện
hơn.

2


PHẦN A: GIỚI THIỆU
I. Khái niệm về hình thái Kinh tế - Xã hội.
Hình thái KT-XH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng phù hợp được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Ngoài những mối quan hệ cơ bản trên đây hình thái KT-XH còn có những quan
hệ về dân tộc, giai đoạn lịch sử và các quan hệ khác. Các quan hệ trên đây tuy có vai
trò độc lập nhất định nhưng cũng bị chi phối bởi những điều kiện vật chất kinh tế cụ
thể và những quan hệ cơ bản khác của xã hội.
II. Tính cấp thiết của đề tài.
Học thuyết của Mác về hình thái KT-XH ra đời là một cuộc cách mạnh trong
toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội, là cơ sở phương pháp luận của sự phát triển khoa
học về quá trình vận động và phát triển xã hội. Nhờ có lý luận hình thái KT-XH này

lần đầu tiên trong lịch sử Mác đã chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như
vậy, lý luận hình thái KT-XH giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa
học về sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định.
Do đặc điểm về lịch sử về những quan hệ và thời gian, không phải quốc gia nào
cũng phải trải qua tất cả các hình thái KT-XH theo một sơ đồ chung. Lịch sử cho thấy
có những nước đã bỏ qua một hình thái KT-XH nào đó trong tiến trình phát triển của
mình. Vận dụng điều này vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta hiện nay chúng ta có cơ sở
khoa học để chứng minh rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản
chủ nghĩa ở nước ta - cả trong điều kiện hiện nay - vẫn là tất yếu và hoàn toàn có khả
năng thực hiện được.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Vận dụng Lý luận về Hình thái KT-XH
giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” là rất thực tiễn và cấp bách
cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.

3


III. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài “Vận dụng lý luận về hình thái KT-XH vào quá trình
phát triển của Việt Nam ngày nay” giúp chúng ta thêm phần hiểu rõ về hình thái
KT-XH của Mác và áp dụng lý luận này vào thực tiễn ở nước ta hiện nay.

2. Ý nghĩa
Việc nắm vững bản chất khoa học của lý luận về hình thái KT-XH sẽ thể hiện
được chính xác những vấn đề còn yếu nhất của đời sống KT-XH. Mà muốn thực hiện
tốt một điều gì thì phải hiểu được bản chất của nó, do vậy đối với cách mạng chủ nghĩa
xã hội mà ở đây ta nói đến là nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
thì việc nghiên cứu kĩ về hình thái KT-XH để áp dụng nó thật linh động vào thực tiễn
ở nước ta là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.

PHẦN B: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
I. Học thuyết về hình thái KT-XH. Nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
1. Những cơ sở xuất phát để xây dựng lý luận hình thái KT-XH
Khi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử C.Mác và F.Ăngen đã đưa ra luận
chứng khoa học sâu sắc. Đó là: “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại là sự
tồn tại của những cá nhân con người đang sống”[1]. Xã hội dưới bất kì một hình
thức nào cũng là sự liên hệ và tác động qua lại giữa người với người. Ngay từ khi mới
ra đời, con người đã có nhu cầu tìm hiểu về chính mình và về thế giới xung quanh. Các
nhà tư tưởng đã từng tiếp cận vấn đề con người dưới nhiều hình thức, nhiều góc độ
khác nhau và có nhiều đóng góp quý báu: Phát hiện ra nhiều thuộc tính, phẩm chất,
năng lực phong phú, kì diệu của con người về mọi mặt sinh học, xã hội cũng như tâm
lý, ý thức. Trên cơ sở đó, họ có đề xuất những con đường, biện pháp hướng con người
đến cuộc sống tốt đẹp. Nhưng do những hạn chế lịch sử, nên những nhà tư tưởng trước
đây chưa có cái nhìn đầy đủ về tồn tại của con người cũng như về lịch sử xã hội loài
người, do vậy, họ đã mắc một sai lầm lớn. Để khắc phục điều này triết học Mác đã có
những phát hiện mới, những đóng góp mới. Lần đầu tiên Mác vạch ra phương thức tồn

4


tại của con người, xuất phát từ cuộc sống của con người hiện thực. Mác đưa ra một
trong những luận điểm được coi là quan trọng nhất trong quan điểm duy vật về lịch sử
của ông: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội” [2]. Theo C.Mác con người tồn tại trong xã hội với tư cách là
sản phẩm của xã hội, hơn nữa con người không phải là sản phẩm của xã hội nói chung
mà bao giờ cũng là sản phẩm của một hình thái xã hội nhất định.
Mặt khác, Mác nhận thấy phương thức tồn tại của con người chính là hoạt động
của họ. Các quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người
hoạt động trong suốt lịch sử của mình là nhu cầu và lợi ích. F.Ăngen đã viết: “... đã

phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người nghĩa là tìm ra sự thực đơn
giản... là trước hết con người cần phải ăn mặc, ở uống trước khi có thể lo đến
chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo...”[3]. Như vậy, nhu cầu tồn
tại của con người hình thành một cách khách quan và có nhiều thang bậc mà trước đó
là nhu cầu sống (ăn, uống, mặc, ở...) sau đó mới đến nhu cầu khác như giao tiếp và
tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng, nhu cầu phát triển tâm hồn và trí tuệ,... Vì vậy
mà hoạt động lịch sử đầu tiên của con người là sản xuất ra những tư liệu cần thiết để
thỏa mãn những nhu cầu của mình. Với quan niệm đó C.Mác đã đi đến kết luận rằng:
Phương thức sản xuất là cái quyết định toàn bộ đời sống xã hội và nhưng mặt cơ bản
của hoạt động xã hội thể hiện ra với tư cách là những hình thức khác của sản xuất vật
chất. Sản xuất vật chất chính là yếu tố nền tảng vì nó tạo ra những điều kiện vật chất
cho xã hội tồn tại, là động lực phát triển của xã hội, chi phối những yếu tố khác trong
cấu trúc xã hội, là cơ sở của lịch sử loài người, tạo ra những tư liệu sinh hoạt, mà
những tư liệu sinh hoạt này đáp ứng nhu cầu sống của con người, tạo ra những tư liệu
sản xuất mà những tư liệu sản xuất này tạo ra những thời đại lịch sử của loài người.
Cũng như trong quá trình sản xuất vật chất thì con người tự tạo ra và hoàn thiện chính
bản thân mình.
Như vậy, sản xuất vật chất là điều kiện không thể thiếu trong bất kì một xã hội
nào. Tuy nhiên sản xuất chỉ là yếu tố nền tảng của hoạt động sản xuất. Trên cơ sở vật
chất và sản xuất vật chất hay trên cơ sở tồn tại xã hội thì con người đã sản sinh ra ý
thức mà đặc trưng là hệ tư tưởng đạo đức, tôn giáo. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã đặt ra và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội

5


và ý thức xã hội này. C.Mác xác lập nguyên lý có tính chất phương pháp luận để giải
quyết vấn đề này là: “không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ, trái
lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[4].
Xã hội là bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, vận động và phát triển theo quy

luật khách quan. Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lặp đi lặp lại
của các quá trình, hiện tượng của đời sống xã hội, đặc trưng cho khuynh hướng cơ bản
phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
2. Hình thái KT-XH
a) Hình thái KT-XH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến
trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Hình thái KT-XH đặt nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nghiên cứu tất
cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó đã đưa ra bản chất của một xã hội cụ thể, phân
biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy được tính lặp lại, tính liên
tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và sinh hoạt ở
những xã hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù Hình thái KT-XH cho phép nghiên
cứu xã hội cả về mặt loại hình và về mặt lịch sử. Xem xét đời sống xã hội ở một giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định, coi như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định
đang vận động trong khuôn khổ của chính hình thái ấy.
b) Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành Hình thái KT-XH.
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những cái nhìn
riêng lẻ, xã hội là một chỉnh thể toàn diện có cơ cấu phức tạp. Trong đó có những mặt
cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt
đó có vai trò nhất định và tác động lên những mặt khác tạo nên sự vận động của xã
hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng khái niệm hình thái KT-XH.
* Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất, kỹ thuật của mỗi hình thái KT-XH. Sự
hình thành và phát triển của mỗi hình thái KT-XH xét đến cùng là do lực lượng sản

6


xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái KT-XH nối tiếp nhau

từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người. Lực
lượng sản xuất bao gồm:
+ Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
+ Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao
động. Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào trong sản xuất
như là đất canh tác, nước... ngoài ra, còn có đối tượng không có sẵn trong tự nhiên mà
con người sáng tạo ra. Tư liệu lao động là những vật thể mà con người dùng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt nhằm phục vụ cho
nhu cầu của con người. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối
tượng lao động khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và
kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và sử dụng nó để thực hiện sản
xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu nhưng nếu tách khỏi người lao
động thì cũng không phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất
của xã hội. Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hấp dẫn của toàn thể nhân loại là công
nhân, là người lao động”[5]. Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động
biện chứng. Sự tác động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu
biết, kinh nghiệm của con người. Đồng thời bản thân những phẩm chất của con người,
những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc vào tư liệu sản xuất hiện có,
phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nào.
* Quan hệ sản xuất.
Quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất là những quan hệ cơ bản
ban đầu và quyết định mọi quan hệ xã hội khác, không có những mối quan hệ đó thì
không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Mỗi hình thái KT-XH lại có một kiểu
quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất đó là tiêu chuẩn khách quan để nhận biết xã hội cụ thể này với xã hội
cụ thể khác đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt sau đây:
+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.


7


+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất.
+ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ
mối quan hệ sản xuất nào cũng phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu
trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu
xã hội. Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế thực hiện giữa người với
người trong xã hội.
- Kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương
ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc thù riêng, có quy luật riêng nhưng
không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên
cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng đều liên hệ như nhau trên cơ sở hạ tầng của nó. Trái lại, mỗi bộ phận như
một tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng con các yếu tố
khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo... thì ở xa cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp
với nó.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
hình thái KT-XH nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm những quan
hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước là mầm mống của xã
hội sau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do
kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột
giai cấp bắt nguồn ngay từ trong cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối

kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính đối kháng phản ánh tính đối kháng của
cơ sở hạ tầng, biểu hiện ở sự xung đột, quan hệ tư tưởng và ở đấu tranh tư tưởng của

8


các giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng xã
hội có quyền lực mạnh nhất là Nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho
chế độ xã hội về mặt chính trị pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai
cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống của xã hội. Giai cấp thống trị nào
thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng cùng những
thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến
xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất đặc
trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội.
Phạm trù hình thái KT-XH là mô hình lý luận về xã hội và như mọi mô hình, nó
không bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tượng đời sống xã hội. Vì vậy, hiện
thực xã hội và sơ đồ lý thuyết vầ xã hội không đồng nhất với nhau. Trong thực tế các
sự kiện lịch sử mang tính chất không lặp lại, hết sức phong phú, các yếu tố tinh thần và
vật chất, kinh tế và chính trị thường xuyên tác động qua lại, xâm phạm, chuyển hoá lẫn
nhau. Hình thái KT-XH chỉ phản ánh mặt bản chất những mối liên hệ bên trong, tất
yếu, lặp lại của các hiện tượng ấy. Từ tính đa dạng cụ thể, lịch sử bỏ qua những chi tiết
cá biệt, dựng lại cấu trúc ổn định và lôgic phát triển của quá trình lịch sử. Bất kỳ trong
giới tự nhiên hay trong xã hội đều không có và không thể có hiện tượng “thuần tuý”.
Đó chính là điều mà phép biện chứng của C.Mác đã nêu lên.
Hình thái KT-XH đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất phát để
nghiên cứu xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, không đi vào cái chi tiết,
vượt qua khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra cái bản chất
ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cai lôgic bên trong của tính nhiều vẻ
của lịch sử.
3. Sự phát triển của các hình thái KT-XH.

Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều quá trình nối tiếp nhau từ thấp
đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái KT-XH. Sự vận động thay thế
nối tiếp nhau của các hình thái KT-XH trong lịch sử đều do tác động của các quy luật
khách quan. Đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. C.Mác viết: “Tôi coi sự phát
triển của những hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên”[6]. Quá trình
phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng

9


sản xuất. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định một cách
khách quan của quan hệ sản xuất và như vậy quyết định quá trình vận động và phát
triển của hình thái KT-XH như một quá trình tự nhiên. Trong các quy luật khách quan
chi phối sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH thì quy luật về sự phù hợp
về quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết
định. Một mặt của những phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố đảm bảo
tính kế thừa trong sự phát triển, tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển
từ thấp đến cao.
Mặt khác, phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sản xuất phát
triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời đã được xoá bỏ và thay thế bằng
những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và dẫn đến hình thái KT-XH mới cao hơn
giai đoạn đầu. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của hình thái KT-XH được giải
thích trước hết bằng sự tác động của các quy luật. Trong quá trình tiến triển của các
hình thái KT-XH, hình thái mới không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong
khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ lại bảo tồn và kế thừa và đổi mới những yếu tố của
nó vừa đảm bảo tính liên tục, vừa tạo ra bước phát triển. Do đó tạo ra tình trạng chồng
chất đan xen những yếu tố của hình thái KT-XH khác, của nhiều thời kỳ lịch sử khác.
Lênin đã chỉ rõ: “Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ chủ nghĩa tư
bản nào là thuần tuý cả vì chủ nghĩa tư bản luôn luôn có lẫn những yếu tố phong
kiến, tiểu thị dân và cả những cái khác nữa”[7].

Tuy nhiên, vạch ra con đương tổng quát của sự phát triển lịch sử điều đó không
có nghĩa là đã giải thích đựơc rõ ràng sự phát triển xã hội trong mọi thời điểm lịch sử ở
mỗi nước của quá trình lịch sử cụ thể vô cùng phong phú có hàng loạt những yếu tố
làm cho tiến trình chung trong sự phát triển trong sự phát triển của xã hội loài người có
những biểu hiện đa dạng phong phú ở những nước, dân tộc khác nhau. Không thể xem
xét quá trình lịch sử như một con đường thẳng, nhân tố quyết định trong quá trình lịch
sử xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Những nhân tố kinh tế không phải
là nhân tố duy nhất quyết định mà những nhân tố khác của kiến trúc thượng tầng đếu
có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Vì vậy để hiểu được lịch sử thì cần thiết phải tính
đến các nhân tố cơ bản có tham gia trong sự tác động lẫn nhau của chúng.

10


Tiến trình lịch sử của một dân tộc của một quốc gia cụ thể thường xuyên bị yếu
tố bên trong và bên ngoài khác chi phối như hoàn cảnh địa lý, truyền thống văn hoá,
tâm lý dân tộc, quan hệ giao lưu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố đó đều có thể
góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một dân tộc nhất định. Tính trọng
chiến tranh hay hoà bình của một dân tộc cũng có thể làm gián đoạn, phá vỡ tiến trình
phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề phát triển của lịch sử một dân tộc.
II. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển tất yếu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1. Hình thái KT-XH của Mác trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa không có nghĩa là gạt bỏ tất cả những quan hệ sở hữu cá thể, tư nhân, chỉ còn lại
chế độ công hữu và tập thể, trái lại, tất cả những gì thuộc về sở hữu tư nhân góp phần
vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ phận tự nhiên của quá trình kinh
tế xây dựng chủ nghĩa xã hội, khuyến khích mọi hình thức kinh tế để phát triển sản
xuất và nâng cao cuộc sống của nhân dân. Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố

cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò
quan trọng. Những quan hệ này có thể góp phần củng cố quan hệ sản xuất cũng có thể
làm biến dạng quan hệ sở hữu. Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa những năm qua do
không hạn chế đầy đủ vấn đề này chúng ta đã mắc phải khuyết điểm là tuyệt đối hóa
quan hệ sở hữu, coi nhẹ các quan hệ khác dẫn đến việc cải tạo quan hệ sản xuất không
đồng bộ nên quan hệ sản xuất “mới” chỉ là hình thức.
Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động
và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác- Lênin là ở tư
tưởng giải phóng con người khỏi chế độ làm thuê, khỏi chế độ tư hữu dựa trên cơ sở
người bóc lột người. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân
ta đương nhiên lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta
mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong

11


trào yêu nước của nhân dân ta. Tư tưởng đó đã trở thành một di sản tinh thần quý báu
của Đảng, của nhân dân ta.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân do
đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ
thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo tích cực, chủ động của
mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá, phục
vụ ngày càng tốt hơn cuộc sống của nhân dân.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như một
mục đích tự thân mà vì phục vụ con người thực hiện cho được lợi ích và quyền lực của
nhân dân lao động.
2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ.
a) Nhận thức về chủ nghĩa xã hội

“Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không
phải là một ý tưởng mà hiện thực phải tuân theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là
một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay, những điều kiện của phong
trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”. Dựa vào sự phát triển những
mâu thuẫn của xã hội tư sản trong giai đoạn đầu phát triển của nó, dựa vào triển vọng
của phong trào công nhân, C.Mác và F.Ăngen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của
xã hội loài người trong tương lai tất yếu phải tiến đến hình thái KT-XH cộng sản chủ
nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái ấy.
Lênin cũng chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền
móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về
mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”[8]. Cũng như các hình
thái KT-XH khác, hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa trải qua giai đoạn phát triển từ
thấp đến cao, trong đó có hai giai đoạn cơ bản: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Đó là hai giai đoạn kế tiếp nhau trong cùng một hình thái KT-XH; sự khác nhau
cơ bản của hai giai đoạn nói trên là trình độ phát triển KT-XH và trước hết là trình độ

12


phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác coi hai giai đoạn đó là những nấc thang
trưởng thành về kinh tế của hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa.
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở
từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này thường xuyên được củng cố, hoàn thiện
bảo đảm luôn luôn thích ứng với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền sản xuất xã hội với tốc độ cao ngày càng hiện đại nhằm tạo ra
ngày càng nhiều của cải cho xã hội, bảo đảm thỏa mãn ngày càng đầy đủ những nhu
cầu vật chất và văn hoá cho nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn
dân.

- Bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động, sáng tạo và được
hưởng thù lao theo nguyên tắc: “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
+ Khối liên minh công – nông – trí thức ngày càng được củng cố, tăng cường,
quyền bình đẳng nam – nữ được thực hiện, những người già được xã hội quan tâm
chăm sóc, tương lai của tuổi trẻ được bảo đảm.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố hoàn thiện, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy.
+ Bảo đảm sự phát triển toàn diện của con người làm cho mọi người ngày càng
được phát huy đầy đủ tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng xã hội mới,lối
sống mới.
+ Hệ tư tưởng Mác - Lênin giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần trong
toàn xã hội, đời sống văn hoá tinh thần trong xã hội ngày càng phong phú lành mạnh.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước, ủng hộ nhân dân các
nước trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng cơ bản nói trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mặc
dù trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào
thoái trào nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Loài người vốn ở trong quá trình
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng

13


10 Nga vĩ đại. Con đường mà nhân loại đang đi chính là con đường thắng lợi của hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử đã chứng minh, không phải bất kì nước nào cũng phải tuần tự trải qua
các hình thái KT-XH đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái KT-XH nào
đó do những yếu tố bên trong quyết định, xong đồng thời còn tùy thuộc ở sự tác động
của từng nhân tố bên ngoài. Ở nước ta cũng đã có những tiền đề và điều kiện cho phép
chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu làm cho đất nước ngày càng phồn vinh.
b) Về thời kỳ quá độ.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là những
nhân tố của xã hội mới và tân tiến của xã hội cũ đan xen lẫn nhau và đấu tranh với
nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, tư tưởng… trong xã
hội. Cái biện chứng nhất của thời kỳ quá độ là sự quá độ về chính trị. Ở đó nhà nước
chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện.
+ Về nền kinh tế: là nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh những thành phần
kinh tế của xã hội chủ nghĩa còn có những thành phần kinh tế khác, trong đó có cả
thành phần kinh tế tư bản.
+ Về mặt xã hội: trong thời kỳ này còn cơ sở khác biệt cơ bản, giữa thành thị
và nông thôn, giữa các miền của đất nước, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
+ Về văn hoá, tư tưởng: bên cạnh nền văn hoá mới và hệ tư tưởng mới còn tồn
tại rõ tàn tích của nền văn hoá cũ, hệ tư tưởng cũ, lạc hậu (thậm chí còn phản động),
lối sống cũ…
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh quyết liệt
về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, giữa một bên là liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và với các tầng lớp nhân dân lao động khác đã giành được
chính quyền, nhà nước và ra sức phát động đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
với một bên là các giai cấp bóc lột, các thế lực phản động mới bị lật đổ nhưng chưa
hoàn toàn bị xóa bỏ, vẫn còn nuôi hy vọng quay lại cái “Thiên đàng” đã mất.

14


c) Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta chỉ rõ: “Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã
hội vẫn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”[9].
Lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu KT-XH của xã hội ta chưa

đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó tồn đọng nhiều tàn
dư quan hệ tư tưởng, ý thức xã hội, tâm lý do xã hội thực dân, phong kiến cũ để lại.
Đây là những khó khăn, trở ngại lớn trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã
hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại, phù hợp với những chuẩn mực và giá trị
của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Điều cần chú ý là có thể bỏ qua chế độ tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nhưng không thể bỏ qua những việc chuẩn bị những tiêu đề cần thiết, nhất là tiêu đề
kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng
phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm đến tính lịch sử tự nhiên của
sự phát triển. Do đó, cần có sự phát triển nhất định, coi nhân tố tư bản chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan.
Đáng tiếc trong nhiều năm qua chúng ta đã áp dụng một cách máy móc, có
những quan niệm sai lầm về chủ nghã xã hội, chúng ta đã bỏ qua tất cả những gì thuộc
về chủ nghĩa tư bản. Điều này vi phạm nghiêm trọng về lý luận sự phát triển của Mác.
Chúng ta đã phủ nhận chủ nghĩa tư bản một cách sạch trơn, không tiếp thu những yếu
tố tích cực của nó vào sự phát triển của đất nước. Chúng ta vì nôn nóng muốn có ngay
chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn đã tiến hành cải tạo ồ ạt nhằm xoá bỏ chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa bằng
bất cứ giá nào.
Đứng trước thực tế từ đầu những năm 80 trở lại đây, khủng hoảng KT-XH nảy
sinh và ngày càng trở nên trầm trọng. Để thực hiện tốt công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng ta đã khẳng định rằng phải kiên trì nghiên cứu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo
những nguyên lý, lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin mà trước hết là lý luận hình thái
KT-XH vào việc đề ra các chủ trương, chính sách, các giải pháp xây dựng đất
nước.Việc đề ra những giải pháp đúng đắn vào điều kiện cụ thể của nước ta là một vấn
đề hết sức khó khăn.

15



3. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
a) Mục tiêu
Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta quá độ lên CNXH trong tình trạng còn lạc
hậu về kinh tế, những tàn dư của của chế độ xã hội cũ còn nhiều, trải qua mấy chục
năm chiến tranh, CNXH thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, các
thế lực thù địch luôn luôn tìm cách bao vây phá hoại sự nghiệp của Việt Nam. Đó là
những khó khăn lớn nhưng cũng có những thuận lợi: chính quyền nhà nước ngày càng
được củng cố, đất nước đi vào giai đoạn hòa bình xã hội, nhân dân có lòng yêu nước
truyền thống, cần cù trong lao động, sáng tạo, một số cơ sở vật chất kỹ thuật xây dựng
hiện đại đang phát huy hiệu quả của nó, cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ cùng
với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ đẩy mạnh sự phát triển
của đất nước.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “xây dựng được
về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị,
tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Trong giai đoạn hiện nay, sau khi kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ, chúng ta bắt đầu bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
mục tiêu tổng quát là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, từ nay đến
năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
b) Phương hướng.
Coi trọng vai trò và bản chất của nhà nước, thể hiện đầy đủ quyền và nguyện
vọng của nhân dân. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và
vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của


16


nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Thực hiện những biến đổi có tính công nghiệp hoá trên cả 3 lĩnh vực: Lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trong đó phát triển lực
lượng sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho sự ra
đời của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất trong
điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra dồn dập, mạnh mẽ, đòi
hỏi chúng ta phải có quan niệm mới về công nghiệp hóa, không phải là ưu tiên xây
dựng cơ sở vật chất với những ngành công nghiệp truyền thống theo đường công
nghiệp hoá cổ điển mà là lựa chọn những ngành công nghiệp thích hợp, xây dựng kết
cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin tạo tiềm năng nhanh chóng ứng
dụng công nghệ mới. Bên cạnh đó phải phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân.
Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Chế độ
công hữu phải là kết quả hợp quy luật của quá trình xã hội hóa thực sự chứ không thể
tạo ra bằng biện pháp hành chính, cưỡng ép. Chuyển từ quan hệ hiện vật sang quan hệ
hàng hoá - tiền tệ trở lại đúng quy luật phát triển tự nhiên của kinh tế: Thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu.
Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Phát huy nhân
tố con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực để xây dựng một xã hội văn
minh, giải phóng cá nhân để giải phóng xã hội, kết hợp sức mạnh cá nhân với sức
mạnh cộng đồng là động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó việc luôn đổi mới, kiện toàn bộ máy Nhà nước là việc làm không

kém phần quan trọng:
+ Chống quan liêu, chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy Nhà nước.
+ Phân biệt rõ chức năng, quyền hạn của các cấp, các ngành.

17


+ Đưa ra một hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ và có tính khả thi cao.
+ Có chính sách và quy mô đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ có năng lực, phù
hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước.
PHẦN C: KẾT LUẬN
Triết học Mác trong đó có học thuyết về hình thái KT-XH ra đời là sự thay đổi
về chất so với các tư tưởng triết học trước đây chưa kể đến lần đầu tiên có sự kết hợp
giữa duy vật và biện chứng, sự việc được xem xét trên cơ sở khách quan và toàn diện.
Chủ nghĩa Mác là giải phóng công nhân lao động khỏi sự bóc lột, tất nhiên chủ nghĩa
Mác không phải là dấu chấm cuối cùng của triết học. Ngay trong bản thân triết học
Mác cũng mang tính mở, tức là bổ sung, hoàn thiện dần theo các quá trình lịch sử. Tuy
nhiên triết học Mác được xây dựng trên một nền tảng lấy khách quan, toàn diện làm cơ
sở vì vậy triết học Mác trong đó có lý luận hình thái KT-XH có giá trị không chỉ trong
một thời điểm lịch sử phát triển nhất định, phục vụ cho một giai cấp nhất định.
Tóm lại, lý luận hình thái KT-XH là một trong những thành tựu khoa học mà
C.Mác đã đề ra cho nhân loại. Lý luận đó đã chỉ ra: Xã hội là một hệ thống mà trong
đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất và các quan hệ sản xuất tạo thành một kết cấu KT-XH nhất định mà trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị cũng như các hình thái ý thức
xã hội tương ứng. Đồng thời lý luận cũng chỉ ra rằng sự vận động và phát triển của các
hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên. Thông qua cách mạng xã hội, các
hình thái KT-XH thay thế nhau từ thấp đến cao. Tuy nhiên sự vận động và phát triển
của các hình thái KT-XH vừa bị chi phối của các quy luật chung, vừa bị tác động bởi
điều kiện lịch sử cụ thể.

Ngày nay xã hội loài người đã có những phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều so
với thời C.Mác nhưng sự phát triển đó vẫn dựa trên cơ sở lý luận hình thái KT-XH,
điều đó chứng tỏ rằng lý luận hình thái KT-XH vẫn giữ nguyên giá trị của nó trong
mọi giai đoạn. Tuy nhiên lý luận hình thái KT-XH không có tham vọng giải thích
được tất cả các hiện tượng của đời sống xã hội mà nó đòi hỏi được bổ sung bằng
những phương pháp tiếp cận khoa học khác nhưng đồng thời với những phương pháp
tiếp cận mới về xã hội, không phải vì thế mà lý luận hình thái KT-XH trở lên lỗi thời.

18


Lý luận về hình thái KT-XH đã chỉ ra con đường đi đến chủ nghĩa xã hội là một
tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn và từ đó đưa ra
những giải pháp cho công cuộc xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển tới một đỉnh
cao mới.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi
to lớn và sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội đứng ttrước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế
giới đang trải qua những bước quanh co, song chúng ta vẫn kiên định, giữ vững lập
trường, quan điểm, tư tưởng. áp dụng linh hoạt và có sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
mà cụ thể ở đây là lý luận hình thái KT-XH của C.Mác vào thực tiễn nhằm xây dựng
xã hội chủ nghĩa mà xã hội đó:
+ Do nhân dân lao động làm chủ.
+ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất là chủ yếu.
+ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc v.v...
Như vậy, có thể chắc chắn để khẳng định rằng: Hình thái KT-XH vẫn còn giữ
nguyên giá trị khoa học và tính thời đại của nó. Nó thực sự là phương pháp luận khoa
học để phân tích thời đại hiện nay nói chung và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam nói riêng.


19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

V.I.Lênin toàn tập. T4 + T26. NXB tiến bộ Maxcơva, 1982.

-

C.Mác và F.Ăngen tuyển tập T1 + T2 +T4. NXB Sự thật Hà Nội 1980.

- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
NXB Sự thật Hà Nội,1991.
- Tập II, giáo trình Triết học Mác-LêNin.
- Tập I, giáo trình Kinh tế Chính trị.
- Các báo và tạp chí:
Tạp chí Triết học:

Số 03, 04, 05, 06 năm 1999

Tạp chí Triết học:

Số 03/1996

Nghiên cứu lý luận: Số 05/1999
- />
20



CHÚ THÍCH
- [1], [2], [3], [4], [6]: C.Mác và F.Ăngen tuyển tập T1 + T2 +T4. NXB Sự thật
Hà Nội 1980.
- [5], [7], [8]: V.I.Lênin toàn tập. T4 + T26. NXB tiến bộ Maxcơva, 1982.
- [9]: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
NXB Sự thật Hà Nội,1991.

21



×