Bài viết số 5 lớp 12
Dưới đây là 3 đề cơ bản trong SGK
Đề 1: Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết:
"Văn chương [...] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại
chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại ko đáng thờ là loại chuyên chú ở con
người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.
Đề 2: Buy_phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: " Phong cách chính là
người". Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Đề 3: Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La
Bơ-ruy-e:" Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình
cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó
nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra".
Đề 1:
Bài tham khảo 1:
Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn
chương mà ngay ở thế kỉ XiX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã
từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không
đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú
ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của công thiên hạ, ý
kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì đuợc chứkhông nên chê mắng”.
Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào
cho đúng.
Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được
người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải
là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của
câu nói “Văn chương chuyên chú ởvăn chương”, “văn chương chuyên chú ở
con người” là như thế nào?
“Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò
câu đẽo chữ, tìm những chữthật kêu, những điển tích cổ bí ẩn...nói chung đấy là
loại văn chương thuần tuý, là “văn” kkhông cần biết nội dung, về tư tưởng, là
loại văn chương thuần túy về hình thức.
“Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc
sống của con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người hơn”
(Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa
một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu”
(Lỗ Tấn).
Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là : Văn chương có giá trị khi lấy đề
tài cảm hứng từ con người và vì con người.
Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói “Văn chương có loại đáng thờ và loại không
đáng thờ”. Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì
tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại “không đáng thờ” không
đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về con người, về
nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần
những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉnhư những đoá
hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan
niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:
“Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?”
(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu).
Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng
thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến trời” , chỉ là
một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng,
múôn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn
bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở
lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài
cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ
Cao cho đó là “đồ con trẻ” là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn
rỗng toếch và giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi
văn chương của anh là kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng
tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, đểđuổi bắt nghệ thuật khi nghệ
thuật của anh ở ngoài kia,ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động: Anh có biết
rằng :
Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi
Còn một nửa do mùa thu làm lấy
(Chế Lan Viên)
Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ
chăng? “Văn chương phải có quan hệ với đời” (Ngô Thi Sĩ ) và “ Cuộc đời là
nơi đi tới cũng là điểm khởi đầu của văn chương” (Tố Hữu). Nếu L. Tônxtôi vĩ
đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì cũng chính là kết quả của những
lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu “đóng cửa phòng văn
hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình nó có ra đời không? Nếu không gắn bó,
đau đời Nguyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không?
Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính
chứ không phải văn chương “hũ nút” mà người ta có thể “kính nhi viễn chí”.
Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học
trò rằng “Từ đạt nhi dĩ hí” (nghĩa là : văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi)
điều quan trọng là cái “tâm” của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong
cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện
thực Việt Nam vào giai đọn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo,
ngòi bút hướng vào con người.
Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập
vào con người, vào nhân loại , là “lương tâm của mọi thời đại” (Balzac). “Văn
phải chở đạo”, phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng
bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là “văn đáng thờ”.
Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng:
“Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở
thành người có văn chuơng ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn
chương rồi thấy đươc nghĩa lí trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết
có văn chuơng mà thôi”.
Nói đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến cái giá trị của
văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn
chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở
trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại.
Văn chương phải hướng đến Chân - Thiện- Mĩ phải khơi ở lòng người những
tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có ai đã
không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một
anh Chí ao ước một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy
đựơc thế giới tâm hồn của A.Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu
cao quý của một “thằng gù” cực kì xấu xí như Quazimôđô dành cho Extiranđa
chưa? Đọc số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo ai mà không nghe
dâng lên một tí gì của xốn xanh, của một niềm thương yêu tủi hận như muốn
nghẹn ngào...Và ta khẳng định rằng : Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động
lòng người mói là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì,
làm xiếc ngôn từ để người ta xem như một trò giải trí, “đọc rồi quên ngay sau
lúc đọc” đấy chỉ là “thợ” đàn với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà
thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối sống
sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đưòng khoa bảng, theo yêu cầu của họ, ông
ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc
“Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước.
Chim ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn.
Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vấn.
Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá”.
Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của
Tồn Chất thâm thuý hay thay.
Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật
của Thạch Lam - Thế hệ hậu bối của “Thần Siêu” – thì có lẽ nhà văn trẻ này
phát biểu toàn diện hơn : “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem
đến cho người đọc sự thoát li hay sựquên, trái lại,văn chương là một thứ khi
giới thanh cao và đắc lực mà chúgn ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế
giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc đựơc thêm trong sạch và
phong phú hơn”
Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài
(Truyện Kiều)
Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ “tài”. Nhưng nếu coi văn học
là một cái cây thì chữ “tài” chỉ là lá cành mà chữ “tâm” kia mới là gốc là ngọn.
Cho nên nếu “văn chương” mà chỉ đơn thuần “chuyên chú ở con người” mà
không “chuyên chú ở văn chương” thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là
một bộ môn nghệ thuật nữa chăng?
Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã khẳng
định : “Văn học là nhân loại”, ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương
và con người cũng như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành
rằng người ta nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đề tốt
thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn ! Cho nên nếu cái đẹp đích thực thì có chăng là ở
thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính ( nghĩa là văn chương
của cái đẹp ) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn
chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể
có một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái
đẹp văn chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường
nhất. Thực ra, văn chương chuyên chúở văn chương và “văn chương chuyên
chú ở con người” là hai mặt của một tờ giấy trắng. “Văn chương chuyên chú ở
con người” nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp, và ngược lại. Đỗ Phủ đã
từng viết “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” ngôn ngữ phải làm cho người ta kính
phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác
phẩm có giá trị thì không bao giờlà một tác phẩm thô vụng về ý thức: Khi anh
nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái
tâm vĩ đại thì ắt hản anh không phải là một con người tầm thường, mà anh biết
làm thế nào để nhân laọi này hiểu anh, hiểu cái “tâm” của anh - Nguyễn Du để
lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại
một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng
thì nội dung truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người.
Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa “văn chương chuyên
chú ở văn chương” và “văn chương chuyên chú ở con người”.Nhưng nếu có
một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn “Đây cái này là tốt gỗ” và
đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá trị của một cái hào
nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ đại bạn sẽ chọn bên
nào?
Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người
thì dễ có giá trị hơn, nhưng “văn chương chuyên chú ở văn chương” thì chưa
hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc “đọc rồi quên ngay sau khi đọc”.
Cái “tâm” là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu
dửng dưng trước đồng loại đến sốphận con người thì cũng khó làm nên một
ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà
còn lại cái “nhân” rộng lớn, cái “tình” muôn thuở.
Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì “chất” ở bên trong vẫn là yếu tố quyết định. Chữ
“tâm” là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã có ghi những
hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm thơnhưng lại là
những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nàh thơ trọn đời cũng không
viết được một câi thơcó giá trị nào dù rất kiên tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn
từ.
Bài tham khảo số 2:
Từ xa xưa, văn chương đã xuất hiện và phát triển song song với lịch sử xã hội
loài người. Trong kho tàng văn học nhân loại, có biết bao nhiêu kiệt tác mà giá
trị đã vượt qua giới hạn không gian, thời gian để trở thành bất hủ. Ấy thế nhưng
rất nhiều thế hệ cầm bút vẫn không nguôi trăn trở về ý nghĩa và giá trị đích
thực của văn chương.
Đầu thế kỉ XX, trên văn đàn nước ta diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt giữa
các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về văn chương, tiêu biểu là hai
trường phái: Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh. Tuy nhiên, từ
cuối thế kỉ XIX, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định: Văn chương… có
loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên
chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Nhận định
đúng đắn này rất gần gũi với quan điểm: Mục đích tối thượng của văn học là
phục vụ con người, phục vụ nhân sinh.
Thế nào là loại văn chương chỉ chuyên chủ ở văn chương? Đó là loại văn
chương chỉ chú trọng về mặt nghệ thuật, coi nghệ thuật là trên hết, thậm chí tôn
sùng nghệ thuật như một tôn giáo kì bí. Người cầm bút chỉ lo trau chuốt cho vẻ
đẹp hình thức của tác phẩm chứ không quan tâm tới nội dung tư tưởng có liên
quan đến vận mệnh con người và trách nhiệm của nhà văn, nhà thơ đối với xã
hội hay không.
Loại văn chương ấy thường chuộng hình thức xưa cũ cầu kì hoặc thiên về vẻ
đẹp hào nhoáng, bóng bẩy của ngôn từ; còn nội dung thì xa rời, thoát li hiện
thực… Những sáng tác như thế đều không chịu nổi thử thách nghiêm ngặt của
thời gian và dư luận. Bài thơ vịnh Mùa thu sau đây của tác giả Ngô Chỉ Lan thế
kỉ XV toàn là hình ảnh tượng trưng, ước lệ vay mượn từ thơ Đường, thơ Tống,
như: gió vàng, bông nhạn, giống ngọc, rừng phong:
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lồ tổ bôn trời bóng nhạn thưa,
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
Nguyễn Gia Thiều, tác giả của Cung oán ngâm khúc đã lạm dụng điển tích,
điển cố trong văn chương, sử sách Trung Hoa khiến nhiều câu thơ trở nên cầu
kì, khó hiểu:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng vương.
hoặc:
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quản thu phong đứng rũ tà huy.
Cho đến khi trào lưu Thơ mới xuất hiện và phát triển, làm chủ thi đàn Việt Nam
vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ XX thì không ít thi sĩ vẫn quan
niệm rằng văn chương chỉ là văn chương. Thế Lữ lúc đầu khẳng định mình chỉ
tôn sùng Cái Đẹp:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp cỏ muôn hình, muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca
Vẻ đẹp u trầm, đắm đuối hay ngây thơ
Cũng như vẻ đẹp cao siêu, hùng tráng,
Của non nước, của thi văn, tư tưởng…
(Cây đàn muôn điệu)
Trong bài thơ trên, Thế Lữ cho rằng thi nhân, nghệ sĩ là những khách tình si
ham mô Cái Đẹp. Thiên chức duy nhất và cao cả nhất của nghệ sĩ là đi tìm Cái
Đẹp, phụng sự Cái Đẹp chứ không bận tâm đến những vấn đề thiết thực của
con người và xã hội, đến trách nhiệm công dân của bản thân họ. Thi sĩ muốn
được sống trên cõi tiên để xa lánh cuộc đời trần tục và coi đó là biểu hiện của
thái độ thoát li thực tại. Thơ văn ấy tuy đẹp, tuy hay nhưng nó xa lạ với dân tộc
đang phải sống đói khổ, tủi nhục dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến.
Cực đoan hơn nữa, một vài nhà thơ, nhà văn theo quan niệm văn chương chỉ
chuyên chú ở văn chương đã phủ nhận nội dung tư tưởng và giá trị nhân sinh
trong tác phẩm. Họ cho rằng sáng tác nghệ thuật không nên đề cập tới các vấn
đề liên quan tới chính trị, tư tưởng, đạo đức… và có như thế mới xứng đáng
được gọi là văn chương. Hoặc khẳng định thơ không cần phải có nội dung, ý
nghĩa cụ thể mà thơ là nghệ thuật của âm thanh, hình ảnh; thậm chí chỉ là ảo
thuật của ngôn từ mà thôi.
Sang giai đoạn cuối của trào lưu lãng mạn, các trường phái thơ bí hiểm, thơ
loạn, thơ điên… là biểu hiện cụ thể của quan niệm sai lệch nêu trên. Không ít
những sáng tác loại này đã bị dư luận phê bình, chỉ trích.
Còn thế nào là văn chương chuyên chú ở con người? Đó là loại văn chương
quan tâm trước hết đến số phận con người và cuộc sống, luôn hướng tới mục
đích phục vụ con người. Các nhà văn, nhà thơ theo quan điểm này cho rằng giá
trị của văn chương không phải chỉ ở chỗ dùng từ ngữ hay, hình ảnh đẹp, điển
tích điển cố cầu kì, nội dung dẫn dắt người đọc xa rời thực tế hoặc có ảo tưởng
về cuộc sống trước mắt…, mà là ở chỗ nó có ích cho cuộc đời nhiều hay ít, gần
hay xa. Đây chính là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Các tác phẩm thuộc
trào lưu hiện thực và cách mạng, kể cả một số tác phẩm thuộc trào lưu lãng
mạn có nội dung tích cực cũng được viết theo quan điểm đúng đắn này.
Văn chương chân chính phải phục vụ con người, phải phản ánh được đời sống
vật chất, tinh thần của con người với những niềm vui, nỗi đau muôn thuở. Nhà
thơ Tố Hữu khẳng định: Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc
đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi
xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học.
Cách đây hơn một trăm năm, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng đã
nêu rõ chức năng của văn học và trách nhiệm xã hội của người cầm bút:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Đạo ở đày là nhân nghĩa, là yêu nước, thương dân. Văn chương là con thuyền
chở đạo (đạo lí làm người) và ngòi bút là vũ khí sắc bén để trừ gian, diệt ác,
cứu đời, cứu người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển và nâng cao ý nghĩa của quan
niệm tích cực ấy trong bài cảm tưởng đọc Thiên gia thi:
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Theo Bác thì văn chương phải là vũ khí chiến đấu để cải tạo, xây dựng xã hội
và văn nghệ sĩ là người chiến sĩ đứng trong hàng ngũ cách mạng, cống hiến, hi
sinh để bào vệ chủ quyền độc lập tự do của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.
Loại văn chương đáng thờ mà danh sĩ Nguyễn Văn Siêu nhắc tới chính là văn
chương viết về con người, phục vụ con người. Ý kiến này của ông rút ra từ hiện
thực nền văn học nước nhà nên hoàn toàn xác đáng.
Nhưng nếu văn chương chỉ chuyên chú ở con người mà coi nhẹ hình thức nghệ
thuật thì liệu tác phẩm cỏ thể cuốn hút được người đọc, có thể đứng vững trước
thời gian hay không? Có ý kiến cho rằng: Văn học không chỉ phải chân thực,
sâu sắc, nhân đạo mà còn phải hay, phải đẹp. Vậy hai ý kiến này có mâu thuẫn
với nhau chăng?
Như trên đã nói, con người là trung tâm của cuộc sống mà văn chương lại là
tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nếu văn chương không đề cập tới con người
thì nó sẽ không có giá trị; Mặt khác, giá trị nội dung và nghệ thuật của văn
chương luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Nội dung chi phối và lựa chọn hình
thức thể hiện. Do vậy mà không có nội dung thì cũng không thể có hình thức.
Xét cho cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là ở chỗ nó đã thể
hiện nội dung tác phẩm như thế nào? Văn chương sáng tạo ra Cái Đẹp mà Cái
Đẹp lại chính là sự sống. Không có Cái Đẹp thuần túy, trừu tượng chẳng liên
quan gì đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Phản ánh con người chính là cách
thức duy nhất để văn chương đến với Chân, Thiện, Mĩ của cuộc đời.
Một tác phẩm có giá trị lâu dài nghĩa là phải vừa hay, vừa đẹp. Nhà văn sáng
tạo ra nó phải thực sự có tài năng và tâm huyết. Cái tâm chính là tấm lòng là
tình người, tình đời của người cầm bút. Cái tâm mới là gốc rễ bền vững làm
nên mọi giá trị thực sự của văn chương chân chính.
Lòng thương yêu, cảm phục người nông dân yêu nước giúp nhà thơ Nguyễn
Đình Chiểu dựng nên một tượng đài hùng tráng về người nghĩa sĩ nông dân
trong lịch sử văn học Việt Nam. Sự đau xót chân thành trước số phận bi thảm
của con người lương thiện; thái độ bất bình, căm phẫn xã hội phong kiến thối
nát, bất công là cơ sở để thi hào Nguyễn Du viết nên một Truyện Kiều bất hủ.
Nhà văn Nam Cao lạnh lùng, tỉnh táo phân tích cội nguồn mọi điều xấu, điều ác
đều xuất phát từ giai cấp thống trị đương thời. Đạo tục đen tối của xã hội đã
tước đoạt quyền sống, quyền làm người và chà đạp lên danh dự, nhân phẩm.
Những tác phẩm như Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn, Vợ chồng A Phủ, Vợ
nhặt… và đặc biệt là Chí Phèo của Nam Cao là lời kêu cứu hãy bảo vệ con
người, hãy chặn đứng bàn tay tội ác tha hóa con người.
Mấy trăm năm qua, người đời vẫn rung động sâu xa trước tiếng than xé ruột:
Đau đớn thay phận đàn bà của thi hào Nguyễn Du, vẫn yêu thích cái hay cái
đẹp của Truyện Kiều, bởi đó là tác phẩm chuyên chú ở con người. Phần tích
cực, trong sáng của Thơ mới cũng được coi là tiếng nói trẻ trung, yêu đời tha
thiết, yêu tiếng Việt sâu xa. Thế hệ trẻ sẽ không bao giờ quên thơ Xuân Diệu,
Nguyễn Bính, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… Những tác phẩm như thế
chính là loại văn chương đáng thờ vậy.
Văn chương là nghệ thuật, vì vậy người viết phải chú ý đến tính nghệ thuật của
văn chương, Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát được người đương thời
đánh giá rất cao là : Thần Siêu, thánh Quát. Vì thế, chắc chắn nghệ thuật văn
chương của hai ông phải tài tình, điêu luyện. Nhưng tài nghệ văn chương dù có
tài tình, điêu luyện đến đâu thì cũng phải chuyên chú ở con người thì mới xứng
đáng được đề cao và ca tụng.
Ý kiến trên đây của danh sĩ Nguyễn Văn Siêu tiêu biểu cho quan điểm nghệ
thuật truyền thống của dân tộc ta. Chính với quan điểm văn chương chuyên chú
ở con người mả ông cha ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và
giàu chất nhân văn. Nền văn học ấy là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của văn chương hiện đại.
Bài viết số 6 lớp 12 đề 2: Buy_phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: "
Phong cách chính là người". Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Bài làm
Cần lưu ý những ý chính sau:
- Phong cách chính là nét độc đáo và phần đóng góp riêng của nhà văn cho đời
sống văn học.
- Phong cách bao gồm cả phương diện nội dung và nghệ thuật :
+ Độc đáo về nội dung thể hiện ở quan niệm về cuộc sống và con người từ việc
lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, cách lí giải những vấn đề về cuộc sống và con
người….
+ Độc đáo về nghệ thuật thể hiện ở phương thức biểu hiện, ở việc lựa chọn các
thủ pháp nghệ thuật , tổ chức kết cấu, sử dụng ngôn ngữ….
- Điều thú vị khi đọc tác phẩm văn học là phát hiện được những nét độc đáo
trong phong cách của mỗi nhà văn.
Bài tham khảo
“Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay chỉ làm theo một vài
kiểu mẫu… Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu suy nghĩ, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”, với nhà văn Nam
Cao, ông đòi hỏi ở mỗi người cầm bút một sự sáng tạo riêng cho mình, để lại
cho văn học những gì là của riêng mình. Nhà văn Pháp Buy-phông thì quan
niệm “Phong cách chính là người”. Quan niệm này phải chăng xuất phát từ mối
quan hệ giữa nhà văn với những điều thuộc về riêng nhà văn đó?
Trong câu nói của Buy-phông, “Phong cách” là những nét độc đáo của riêng
mỗi nhà văn thể hiện trong văn học. Đó là “những nguồn chưa ai khơi” nhưng
nhà văn đó đã khơi tìm và hưởng được sự ngọt mát của nó. Cần hiểu rằng,
phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và
nghệ thuật.
Trong nội dung, phong cách nhà văn in đậm trong quan niệm về cuộc sống con
người, việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủđề, cách lí giải vấn đề về cuộc sống
con người… Có thể thấy rõ điều này ở nhiều nhà văn như Nguyễn Tuân, Nam
Cao, Hồ Chí Minh… Nguyễn Tuân thường nhìn mọi sự vật, sự việc dưới góc
độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn tìm thấy sự
tài hoa của những nhà Nho hết thời trong những thú chơi tao nhã của họ: thả
thơ, uống trà, ngâm vịnh… Sau Cách mạng, nhà văn lại say mê với sự tài hoa
của những con người Việt Nam trong lao động, sản xuất… Nam Cao lại khác.
Trước Cách mạng, ông đau đáu với đề tài về những người nông dân Việt Nam
nô lệ bị tha hóa về tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam quằn
quại trong nỗi đau vì bị “áo cơm ghì sát đất”…
Về nghệ thuật, phong cách nhà văn cũng được thể hiện đa dạng ở nhiều phương
diện: phương thức biểu hiện, lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết
cấu, tổ chức ngôn ngữ… Điều này cũng rất dễ nhận biết đặc biệt ở những tác
giả lớn. Nhà thơ Tố Hữu thường chọn thể thơ lục bát, giọng điệu tâm tình ngọt
ngào để thể hiện tình cảm tha thiết, chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn
Nam Cao lại rất dễ “bị” nhận ra bởi lối kể chuyện đảo trình tự tuyến tính hiện
đại hay cách liên kết đoạn văn rất tài tình… Mỗi nhà văn lại có những ý tưởng
độc đáo khác nhau trong cách thể hiện tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi
đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ… không gì thích thú là việc phát
hiện ra những nét đặc sắc về phong cách của các tác giả. Những nhà văn, nhà
thơ có tài năng thực sự mới có thể định hình phong cách riêng của mình. Và
giữa phong cách của mỗi tác giả lại có mối quan hệ chặt chẽ tới bản thân cá
tính mỗi nhà văn. Trong văn học, phong cách được thể hiện sinh động như một
thực thể bộc lộ những quan niệm cá nhân về văn học. Trong truyện ngắn của
mình, Nam Cao luôn có vẻ khách quan, hờ hững với nhân vật. Ông gọi họ là
“y”, là “thị”, miêu tả họ với những hình hài xấu xí, thậm chí là ghê rợn (đặc
biệt là những người nông dân). Nhưng đằng sau những trang văn tưởng như
lạnh lùng, khinh thị ấy là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình thương đến nhói
buốt của một tấm lòng đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao
cũng có dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông trong truyện ngắn.
Nhắc đến Nam Cao, những người bạn văn nhớđến một dáng vẻ trầm lặng, ít nói,
nhưng thực chất, ẩn đằng sau dáng vẻ phẳng lặng, im ắng ấy là một tinh
thần sôi nổi, quyết liệt. Chỉ có những tính cách mạnh mẽ mới có thể phát
biểu thế này: “Sống đã rồi hãy viết”!
Phong cách của nhà văn in đậm lên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách
văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối đồng cảm
sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.
Đưa ra một nhận định đúng đắn, Buy-phông định hướng cho những nhà văn
hay những người ôm mộng văn chương phải biết định hình cho mình một
phong cách riêng nổi bật. Đó phải là phong cách của riêng anh để người đọc
nhận ra đó là anh chứ không phải là người khác. Đến lượt mình, mỗi độc giả
cần là một người đọc thông minh biết tìm tòi, suy nghĩ phát hiện nét phong
cách riêng của mỗi nhà văn.
Bài viết số 6 lớp 12 đề 3: Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý
kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e:" Khi một tác phẩm nâng cao tinh
thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần
tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do
một nghệ sĩ viết ra".
Bài tham khảo 1:
Giá trị của một tác phẩm văn học là lí do tồn tại của tác phẩm ấy đồng thời là
cơ sở để khẳng định tài năng và tâm huyết của người sáng tạo ra nó. Những
tiêu chuẩn nào thường được đưa ra để đánh giá giá trị của tác phẩm? Theo quan
niệm của nhà văn người Pháp La Bơ-ruy-e thì “Khi một tác phẩm nâng cao tinh
thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm
một nguyên tắc nào đểđánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một
nghệ sĩ viết ra”. Vậy cần phải hiểu ý kiến này như thế nào?
hãy tham gia diễn đàn Văn học là sản phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ phản ánh
hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của tác giả. Khi đến với độc giả,
ở từng thời kì khác nhau lại có những cách tiếp nhận khác nhau. Nhưng có thể
nói, tất cả đều tựu trung ở những giá trị mà tác phẩm đó mang lại.
Đi vào tìm hiểu ý kiến của La Bơ-ruy-e trước hết cần phải hiểu thế nào là một
cuốn sách hay? Đây là một khái niệm cụ thể nhưng cũng được dùng với ý
nghĩa chỉ chung cho tất cả các sáng tác văn học nghệ thuật. Có người lấy sự
sáng tạo của người nghệ sĩ, lấy sự “phát minh về hình thức và khám phá về nội
dung” làm tiêu chí đểđánh giá một tác phẩm hay, hoàn thiện; Có người lại lấy
nội dung thể hiện cuộc sống, con người trong tác phẩm làm cơ sở xem xét tác
phẩm đó như thế nào, có “đáng thờ” hay không?... Còn người nghệ sĩ thực sự,
theo họ, phải là người biết đồng cảm với những khổđau của con người, “tồn tại
ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người
cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường; bênh
vực những con người không còn được ai bênh vực” (Nguyễn Minh Châu), là
người “không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới
này trong con mắt nhà văn phải có hình sắc riêng” (Hoài Thanh)… Cũng như
sự gặp gỡ trong tử tưởng và quan niệm, La Bơ-ruy-e cho rằng khi tác phẩm
“nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quí và can đảm” thì
đó là tác phẩm thực sự, do một nghệ sĩ viết ra. Thực ra cũng không hẳn là
“không cần tìm một nguyên tắc nào” khác vì điều mà La Bơ-ruy-e nêu ra xét
đến cùng cũng chính là những tiêu chuẩn mang tính hệ quả từ những nguyên
tắc đánh giá về văn chương. Mọi tác phẩm đã được coi là có giá trị thì cuối
cùng đều hướng tới đích lớn nhất là con người. Đó là việc nâng cao tư tưởng,
tình cảm, tức đánh giá tác phẩm dựa vào giá trị nhận thức, thẩm mĩ và giáo dục
mà nó mang lại.
Có thể nói, quan niệm của La Bơ-ruy-e là quan niệm đúng đắn được đúc kết từ
thực tế sáng tác. Điều hiển nhiên khi một tác phẩm nghệ thuật đạt được đến
những giá trị như La Bơ-ruy-e nói thì nó thành công, thế có nghĩa là nó là một
tác phẩm, một cuốn sách hay. Và tất nhiên người sáng tạo ra một tác phẩm như
thế phải là người có tài năng và tâm huyết, nghĩa là một nghệ sĩ đích thực với
đúng nghĩa của nó.
“Tác phẩm nâng cao tinh thần của ta lên” vì thông qua chức năng nhận thức,
văn học cung cấp cho con người hiểu biết về thế giới vật chất và tinh thần.
Nắm bắt được quy luật cuộc sống, con người sẽ có thể chủ động hơn trong mọi
trường hợp. Thế giới tinh thần không chỉđược nâng cao mà còn được bồi
dưỡng và làm cho ngày càng trở nên phong phú.
Bên cạnh đó, thông qua bản chất thẩm mĩ của thế giới thể hiện trong tác phẩm
mà văn học giáo dục, bồi dưỡng tình cảm của con người cũng như phát triển
những phẩm chất thẩm mĩ tốt đẹp của họ, làm cho họ ngày càng hoàn thiện hơn.
“Tham gia vào hoạt động văn chương cho dù là sáng tác hay thưởng thức,
người ta đều được “thanh lọc”, ít nhiều sẽ trở nên tốt hơn, nhân ái hơn. Trong
thế giới xô bồ ồn ã hiện nay, khi con người ta luôn bị lôi ra bên ngoài, bị cuốn
vào đám đông và bị nhu cầu vật chất cám dỗ dữ dội thì thi ca, văn chương lại
càng cần thiết” (Nguyễn Văn Hạnh – Ý nghĩa của văn chương).
Văn học dân gian Việt Nam từ xưa đến nay được biết đến như một kho tàng
văn hóa của dân tộc, một đời sống tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng.
Ngay từ thời xưa ông ta đã dùng ca dao, dân ca, tục ngữ một cách phổ biến với
tư cách là những kinh nghiệm dân gian trong lao động sản xuất, trong đối nhân
xử thế, những lời than thân, những tình cảm yêu thương tình nghĩa. Chúng
không chỉ góp phần nâng cao tinh thần mà còn gợi và bồi
dưỡng cho ta những tình cảm yêu thương con người, yêu thương đồng loại.
Trước khó khăn vất vả tưởng chừng như có thể gục ngã, ca dao giúp con người
trở nên mạnh mẽ. Đó là câu chuyện của “Mười cái trứng” khi tất cả niềm hi
vọng, ước mơ của người nông dân dồn vào thứ tài sản quí giá ấy thì bảy quả bị
ung, ba quả nở ra ba con:
“Con diều tha
Con quạ bắt
Con mắt cắt xơi”
Người nông dân vẫn đầy lạc quan tin tưởng: “Còn da lông mục, còn chồi nảy
cây”. Mỗi chúng ta tự nhìn nhận lại mình từđó mà vững vàng, mạnh mẽ hơn
trước sóng gió cuộc đời.
Ca dao giáo dục quí trọng thành quả lao động vất vả mới có được:
“Aiơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”
Cao dao còn là những bài ca ca ngợi tình nghĩa thủy chung thương yêu
giữa con người với nhau. Ta bắt gặp trong đó tình yêu mãnh liệt nhưng cũng
thật tế nhị:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?”
Bắt gặp tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt:
“Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên”
Tình cảm gia đình đằm thắm:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Những bài ca dao ấy gợi lên trong ta thứ tình cảm trong sáng, thủy chung giữa
con người với nhau. Đọc ca dao, ta có thêm nghị lực và niềm tin vào cuộc sống
mà nuôi dưỡng, phấn đấu cho đời sống tinh thần và tình cảm của mình ngày
càng tốt đẹp hơn.
Trong văn thơ trung đại, những bài học giáo dục được tồn tại trong một hình
thức văn học quy ước sẵn và vì thế nên cũng mang nội dung quy ước nhất định.
Thấy nhiều trong mảng thơ ca giáo huấn, bày tỏ lòng mình, bài học giáo dục
mang tính trực tiếp. Thơ ngợi ca thì hào sảng “Bình Ngô đại cáo” là lời tuyên
bố độc lập tự do của dân tộc, khơi dậy trong lòng mỗi người dân Việt Nam
niềm tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc – Nam cũng khác”
Số phận bất hạnh của Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) không chỉ giúp chúng
ta hiểu hơn về xã hội phong kiến thời bấy giờ cũng như bồi dưỡng thêm những
tình cảm con người tốt đẹp: sự đồng cảm, trân trọng, xót thương…
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Truyện “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) xây dựng hai hình tượng nhân
vật đẹp, lí tưởng là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Tình yêu thủy chung
son sắt của Nguyệt Nga một lần nữa bổ sung thêm vào thế giới hình tượng đẹp
về người phụ nữ. Còn đức tính hào hiệp “giữa đường thấy chuyện bất bình
chẳng tha” của Vân Tiên cũng là một điều đáng cho chúng ta học tập.
Với những tác phẩm như vậy, các nhà thơ trung đại như Nguyễn Du, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Đình Chiểu… xứng đáng là những nghệ sĩ lớn. Bước sang thời kì
hiện đại, văn học không chỉ bó mình trong những
khuôn mẫu có sẵn mà ngày càng mở rộng và trở nên gần gũi hơn với cuộc sống
con người nhưng không vì thế mà làm giảm đi tính giáo dục, thẩm mĩ. Tô Hoài
đi vào khai thác thế giới loài vật với những dế mèn, dế chũi, chị bồ nông, anh
xén tóc, vợ chồng nhà chuột… gửi gắm sau đó bài học sâu sắc về cách đối
nhân xử thế giữa con người với nhau, bài học về tình đoàn kết, tinh thần yêu
thương đồng loại. Cuộc phiêu lưu của Dế Mèn là một cuộc hành trình vươn tới
hoàn thiện mình cả trong suy nghĩ và trong tình cảm, lối sống.
“Mùa lạc” (Nguyễn Khải) là câu chuyện thay đổi cuộc đời con người trong
cuộc sống lao động mới. Đào, một người phụ nữ kém may mắn, chịu nhiều bất
hạnh cuối cùng cũng tìm thấy hạnh phúc của mình trên mảnh đất Điện Biên. Từ
chao chát, chỏng lỏn chị trở thành một con người hoàn toàn khác. Chị chỉ mỉm
cười bao dung trước những câu đùa của mọi người, bởi vì giờ đây họ đã trở
thành những người “nhà trai, nhà gái” của chị. Ta hiểu thêm rằng trong mọi
hoàn cảnh, nghị lực sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả.
“Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) mang đến cho người đọc thông
điệp về cái đẹp đích thực. Nghệ thuật không chỉ là khám phá sự vật ở cái bề
ngoài mà phải nhìn thấy được cái hiện thực bộn bề nằm ở bề sâu. Đó là chất
cuộc sống làm nên giá trị của tác phẩm. Cái đẹp không phải đâu xa lạ à nằm
trong chính những con người đang lăn lộn mưu sinh ngoài kia. Với người vợ
chài lưới, điều quan trọng nhất và cũng là lí do để chị hi sinh tất cả những thứ
khác đó chính là hạnh phúc và tương lai của những đứa con. Chị chấp nhận
những trận đòn roi tàn nhẫn của chồng mà kiên quyết không li dị bởi chị biết
trong cuộc sống khốn khổ của họ, anh ta cũng là một người bất hạnh; và cùng
còn bởi một lí do khác quan trọng hơn: trên thuyền không thể không có đàn
ông cũng như những đứa con của chị không thể không có cha. Người phụ nữ ấy
đã nhận hết đau khổ về mình để những người xung quanh mình được hạnh
phúc. Biết đồng cảm với số phận bất hạnh của họ, hiểu được ý nghĩa đích thực
của cái đẹp trong cuộc sống nghĩa là chúng ta đang làm cho đời sống tinh thần
tình cảm của mình phong phú, hoàn thiện hơn.
Giá trị của một tác phẩm cũng như tài năng của người nghệ sĩ thường được
đánh giá bằng việc tác phẩm đó khai thác gì, đóng góp gì cho cuộc sống con
người cũng như tác động như thế nào đến tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ của
người đọc trong những thời đại khác nhau. Nhận thức sâu sắc điều này có ý
nghĩa to lớn đối với người sáng tác (phải làm sao để sáng tác ra được những tác
phẩm được coi là “một cuốn sách hay”) và cảđối với quá trình tiếp nhận của
bạn đọc: không chỉ tiếp nhạn các giá trị văn học mà còn cần đưa nó vào trong
quá trình tự giáo dục bản thân cũng như ảnh hưởng tốt đến những người xung
quanh.
Khi Đan-cô (Trái tim Đan-cô – M.Gorki) móc trái tim mình ra để soi đường
cho đoàn người vượt qua cái tối tăm của rừng thẳm để đến với miền đất chan
hòa ánh sáng và sự sống, chàng đã dũng cảm nhận lấy sứ mệnh vinh quang
nhưng cũng đầy đau khổ của một người dẫn đường. Và từ đó trái tim Đan-cô
mãi trở thành một hình ảnh biểu tượng cho những gì cao cả và đẹp đẽ của con
người.
Văn học đã thể hiện được những giá trị vĩnh cửu của mình mà nói như La
Bơ-ruy-e, nó đã “nâng cao tinh thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quí
và can đảm…”
Bài tham khảo 2:
Ý kiến của nhà văn Pháp có thể hiểu như sau: Một tác phẩm có giá trị và thật
sự hay khi nó khiến cho tâm hồn và tinh thần con người thêm cao đẹp, trau dồi
những phẩm chất có sẵn và xây dựng những phẩm chất chưa có, cũng như khơi
nguồn những gì tốt đẹp nhất trong tận sâu con người ta. Ý kiến của ông cũng
được nhiều nhà văn đồng tình,vậy hãy cùng tìm hiểu về sự đồng tình đồng ý
đồng chí này nhé!
"Văn chương vừa có thế thay đổi một thế giới tàn ác, vừa làm cho lòng người
trong sạch hơn"(Thạch Lam). Văn chương có 3 chức năng, một trong các chức
năng đó là chức năng nhận thức. Một tác phẩm hay sẽ là một tác phẩm giúp
con người ta nhận thức được bản thân, nhìn nhận qua góc nhìn của tác giả tác
phẩm hoặc chính các nhân vật trong tác phẩm. Từ việc nhận thức dẫn đến sự
thay đổi trong cách sống, cách đối nhân xử thế và dĩ nhiên, hoàn thiện bản thân.
Chức năng thứ hai chính là giáo dục, bất kì một tác phẩm nào cũng hướng tới
mục đích giáo dục con người, và vì thế M.Gorki mới nói "văn học là nhân học".
Cũng như La Bury-e nói vậy "một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi
cho ta những tình cảm cao quý và can đảm ...đó là một cuốn sách hay". Dĩ
nhiên, ông cũng muốn nói đến giá trị của một tác phẩm và thứ làm nên giá trị
của nó, đó chính là nội dung và hình thức, cũng như tấm lòng của tác giả đã
khơi gợi trong lòng người đọc một sự đồng cảm sâu sắc, nếu làm được vậy thì
đích thực là 1 tác phẩm hay. Tác phẩm văn học thực sự có giá trị khj nó hoàn
mỹ về nội dung và nghệ thuật,và thực hiện đầy đủ các chức năng của nó, đó là
"nâng cao tinh thần" và "thanh lọc tâm hồn".
Nam Cao cũng có viết "một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất các
bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa
đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca
tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình..Nó làm cho người gần người hơn".
Chỉ nhiêu câu chữ thôi cũng đủ cho ta thấy với Nam Cao (tin rằng cũng như
với các nhà văn khác) thì một tác phẩm tuyệt mỹ là một tác phẩm mang lại
nhiều lợi ích và tác dụng cho con người và cuộc sống, tác phẩm đó phải có tính
"nhân đạo hóa" sâu sắc, và sẽ được thời gian công nhận giá trị, sẽ trường tồn
bất diệt nếu nó hoàn hảo, và ta cũng đã thấy trong thực tế, những Truyện Kiều
của Nguyễn Du, Chí Phèo của Nam Cao, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng ...đều là
những tác phẩm đã gây được dấu ấn trong lòng người đọc từ thế hệ này sang
thế hệ khác, nó mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, ko ai có thể phủ
nhận được. Chính thế, những nhân vật trong truyện cũng trở thành tiêu biểu,
bước ra đời sống hàng ngày, những hoàn cảnh sống, tư tưởng đạo lý được
truyền đạt trong tác phẩm cũng trở thành chân lý cho cuộc sống.
Bài tham khảo 3:
Từ trước tới nay, trên thế giới có rất nhiều ý kiến khác nhau bàn về cách đánh
giá giá trị của một tác phẩm văn chương. Có người thì đề cao nghệ thuật, có
người thì đề cao nội dung. La Bơ-ruy-e, nhà văn Pháp đã bày tỏ quan điểm của
mình như sau: Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những
tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá
nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra.
Xét về mặt ý nghĩa thì quan điểm trên gần giống với quan điểm của nhà văn
hiện thực Nga nổi tiếng Mác-xim Gorơ-ki: Văn học là nhân học. La Bơ-ruy-e
nhấn mạnh tới chức năng giáo dục của văn học. Văn học nuôi dưỡng tâm hồn,
tư tưởng, tình cảm của con người. Văn chương có khả năng đặc biệt trong việc
phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu của con người. Đặc điểm của văn học
là thông qua các sự kiện, các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm để giáo dục
cho con người tình cầm trong sáng, đạo lí làm người. Mặt khác, văn học giúp
con người hoàn thiện nhân cách, nâng cao tình thần và gợi cho con người
những tình cảm cao quý và can đảm.
Văn học đến với con người bằng con đường tình cảm, cảm xúc. Nó mang tạt
cho con người những rung cảm sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, đất nước,
trước cuộc sống phong phú, đa dạng muôn màu muôn vẻ và nhất là trước chiều
sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích trước tiên và quan trọng của văn học là
giúp con người đối chiếu, liên tưởng, suy ngẫm về cuộc đời và về chính bản
thân, nâng cao niềm tin vào bản thân để từ đó có nhận thức đúng đắn hơn, có
khát vọng hướng tới chân lí, dám đấu tranh chống cái xấu, cái ác; biết tìm tòi
và hướng tới cái Đẹp, cái Thiện của cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính
có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa, xứng đáng là bạn tốt của con người.
Nhà văn La Bơ-ruy-e cũng bày tỏ ý kiến về cách đánh giá một tác phẩm văn
chương và một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm nào có ảnh hưởng lớn
lao tới đời sống tinh thần của con người theo chiều hướng tích cực thì đó là một
cuốn sách hay, đích thực là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi
là nghệ sĩ.
Hai nhà văn nổi tiếng của Việt Nam là Thạch Lam và Nam Cao cũng có quan
điểm gần giống với La Bơ-ruy-e. Thạch Lam cho rằng: Đối với tôi, văn chương
không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên ; trái lại,
văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố
cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được
thêm trong sạch và phong phú hơn. Còn Nam Cao đã thông qua nhân vật Hộ
trong truyện ngắn Đời thừa để bày tỏ quan điểm của mình về tác phẩm văn
chương, về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ từng ấp ủ một hoài bão
lớn về sự nghiệp văn chương của mình. Anh mong ước sẽ sáng tạo ra những tác
phẩm thật sự có giả trị, vượt lên tất cà bờ cõi và giới hạn. Quan điểm về văn
chương của Hộ cũng hết sức tiến bộ : Một tác phẩm văn chương đích thực phải
chứa đựng được một cải gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi.
Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần
người hơn. Nhà văn phải ỉà những người nghệ sĩ vừa có tâm vừa có tài, trong
sáng tác phải tạo cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng không thể
lẫn với bất cứ ai khác; vì: Văn chương không cần đến những người thợ khéo
tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo
những cái gì chưa có (Nam Cao).
Chúng ta có thể lấy một số tác phẩm kinh điển của các nhà văn nổi tiếng thế
giới để chứng minh và khẳng định ý kiến của La Bơ-ruy-e là đúng.
Bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô là bài ca tuyệt vời
về tình thương yêu con người, về đức vị tha, hi sinh đến quên mình. Nhân vật
Giăng Van-giăng là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân đạo của
nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ này vì thương đàn cháu mồ côi nheo
nhóc, đói khát nên đã liều đập vỡ cửa kính tiệm bán bánh mì để lấy cắp một ổ
bánh. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng mấy lần tìm cách vượt ngục nhưng
không thành nên thời gian ngồi tù cứ kéo dài ra mãi. Sau khi được trả tự do, vì
hoàn cảnh ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại phạm tội cướp đồng xu của một
đứa trẻ và lấy cắp bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và
lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đã cứu Giăng Van-giăng thoát vòng lao lí
và nó tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó
đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi cuộc sống và tính cách của Giăng
Van-giăng.
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của Vích-to Huy-gô và mang dấu ấn đặc trưng của chủ nghĩa lãng
mạn trong văn chương Pháp thế kỉ XIX. Nội dung đoạn trích phản ánh sự đối
lập giữa cái ác và cái thiện, giữa bạo lực cường quyền và nạn nhân của nó. Qua
đó, nhà văn phê phán cường quyền, khơi dậy mối đồng cảm với những người
khốn khổ và khẳng định lí tưởng nhân đạo tốt đẹp.
Từ một người tù khổ sai, sau nhiều năm làm việc cật lực, Giăng Van-giăng đã
trở thành ông chủ nhà máy có uy tín và được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị
trưởng, ông quan tâm và có những nghĩa cử cao đẹp đối với người đàn bà bất
hạnh Phăng-tin. Bị tên mật thám Gia-ve phát hiện và đến bắt, Giăng Van-giăng
(tức thị trưởng Ma-đơ-len) không hề run sợ. Trước thái độ hung hăng, tàn nhẫn
của Gia-ve, ông vẫn tìm cách trấn an Phăng-tin để níu kéo sự sống cho chị.
Phăng-tin chết vì bị sốc trước sự thực phũ phàng (tên mật thám Gia-ve túm cổ
áo ngài thị trưởng đáng kính). Giăng Van-giăng ghé tai chị thì thầm hứa sẽ tìm
bằng được bé Cô-dét – đứa con gái yêu quý của chị. Một điều kì diệu ngoài sức
tưởng tượng đã xảy ra: Điều mà chẳng ai nghi ngờ là bà xơ Xem-pli-xơ, người
độc nhất chứng kiến cảnh ấy, thường kể lại rằng lúc Giăng Van-giăng thì thầm
bên tai Phăng-tin, bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện
trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi
vào cõi chết. Đây là một ảo tưởng cảm động trước một sự thực cao cả làm rung
động sâu xa tâm hồn người đọc.
Truyện ngắn Số phận con người của nhà văn Sô-lô-khốp khồng ngần ngại nói
lên cái giá rất đắt của chiến thắng, những đau khổ tột cùng mà con người phải
gánh chịu do chiến tranh ; đồng thời ca ngợi lòng nhân hậu, vị tha của người
lính Hồng quân nói riêng và của nhân dân Nga nói chung. Tác phẩm này ra đời
như một sự kiện làm chấn động nền văn học Xô viết và Sô-lô-khốp được đánh
giá là nhà văn vĩ đại của nước Nga thế kỉ XX.
Nhân vật chính của truyện là An-đrây Xô-cô-lốp, một chiến sĩ Hồng quân tham
gia cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên bang Xô viết chống phát xít Đức xâm
lược. Bị bắt làm tù binh, anh phải chịu đựng sự hành hạ dã man của kẻ thù.
Trong một cuộc trốn chạy để trở về với Hồng quân, anh đã mưu trí dũng cảm
bắt sống một tên thiếu tá Đức và cướp một xe vận tải. Chiến tranh kết thúc,
thay vì được hưởng niềm hạnh phúc vô biên là được đoàn tụ với gia đình trên
quê hương thân yêu thì Xô-cô-lốp lại phải chịu đựng một số phận bất hạnh : Vợ
và hai con gái nhỏ bị trúng bom của phát xít; con trai lớn của anh cũng là một
chiến sĩ Hồng quân đã trúng đạn ngã xuống tại cửa ngõ Béc-lin ngay trong
ngày chiến thắng. Đất nước đã hòa bình nhưng Xô-cô-lốp không thể sống yên
ổn bởi anh mang trong tim một nỗi đau vô hạn. Anh nhận chú bé mồ côi
Va-ni-a làm con nuôi và từ đó cuộc sống của anh thay đổi hẳn. Tuy vất vả, cực
nhọc nhưng Xô-cô-lốp thấy lòng vui trở lại, thấy cuộc đời là đáng yêu, đáng
sống. Tình yêu thương quả là một sức mạnh thần kì giúp con người vượt qua
nghịch cảnh, chiến thắng sự nghiệt ngã của số phận. Nhân vật Xô-cô-lốp là
hiện thân của tính cách Nga kiên cường, dũng cảm và giàu lòng nhân ái. Bằng
hình tượng nhân vật điển hình này, nhà văn Sô-lô-khốp đã đề cập tới một vấn
đề trọng đại từng ám ảnh bao nghệ sĩ lớn, đó là vấn đề số phận con người. Một
khái niệm trừu tượng đã được nhà văn cụ thể hóa thông qua cuộc đời của một
nhân vật với nhiều đau khổ, mất mát; để rồi với ý chí, nghị lực phi thường và
lòng nhân ái sâu sắc, nhân vật đã vượt qua tất cả để chiến thắng số phận bất
hạnh. Đọc truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp, người đọc nhận
thức được rất nhiều điều và cũng học được nhiều bài học nhân sinh bổ ích từ
nhân vật Xô-cô-lốp. Đó là thành công của tác phẩm, là vinh dự lớn lao của
người nghệ sĩ.
Trong tiểu thuyết ông già và biển cả của nhà văn Mĩ Hê-minh-uê, hình ảnh ông
lão đánh cá đơn độc dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời mình là một biểu
tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước
mơ thành hiện thực. Tác phẩm này là một bài học thiết thực và bổ ích về khát
vọng, ý chí và nghị lực của con người. Nhà văn đặt nhân vật vào một tình
huống đặc biệt là chỉ có một mình giữa biển khơi bao la đầy bất trắc ; một mình
săn đuổi, đánh bắt con cá kiếm khổng lồ và một mình đương đầu với đàn cá
mập hung dữ để bảo vệ thành quả lao động, ông lão đánh cá Xan-ti-a-gô suốt
đời làm lụng vất vả, cực nhọc nhưng không nguôi mơ ước một ngày nào đó sẽ
đánh bắt được một con cá thật to để thỏa mãn ước mơ và khẳng định tài năng
của mình. Trớ trêu thay, cho tới lúc ông đã quá già thì ước mơ này mới trở
thành hiện thực. Suốt mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông lão mới phát hiện
ra con cá kiếm khổng lồ, to hơn chiếc thuyền của ông. Cuộc chiến đấu gay go
giữa người và cá kéo dài tưởng chừng quá sức chịu đựng của ông lão, nhưng
ông lão không nản chí, vẫn đem hết sức lực để bắt bằng được con cá mà ông ao
ước đã bao lâu. Thế nhưng đàn cá mập tham lam đã tấn công con cá kiếm. Mặc
dù ông lão chống đỡ quyết liệt để xua đuổi đàn cá mập hung dữ nhưng đến lúc
thuyền cập bến thì con cá kiếm chỉ còn là một bộ xương.
Cốt truyện giản dị chỉ có vậy nhưng Hê-minh-uê đã viết nên một áng văn xuôi
giản dị và trung thực về con người. Tuy không có âm hưởng anh hùng ca
nhưng câu chuyện về ông lão đánh cá thực sự là bài ca ca ngợi vẻ đẹp khỏe
khoắn, kiên cường rất đáng khâm phục của người lao động. Tác phẩm còn chứa
đựng một tầng nghĩa sâu xa hơn trong hình tượng con cá kiếm và ông già đánh
cá. Vẻ đẹp kiêu hùng của con cá kiếm vùng vẫy tự do trên biển cả tượng trưng
cho ước mơ và lí tưởng mà con người suốt đời khao khát và theo đuổi. Ông lão
đánh cá với ý chí kiên cường tiêu biểu cho quyết tâm biến ước mơ thành hiện
thực của con người. Tiểu thuyết ông già và biển cả với số trang khiêm tốn chì
nhiều hơn một truyện vừa chút ít nhưng thực sự là một sáng tác mà nhà văn nào
cũng ao ước viết được lấy một lần (Phôn-cơ-ne), bởi nó đã để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc trên toàn thế giới và đem lại vinh quang cho tên tuổi
Hê-minh-uê – một nghệ sĩ vĩ đại của nhân loại.
Ý kiến của La Bơ-ruy-e đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng của chức
năng giáo dục trong văn chương và nêu lên cách đánh giá đúng đắn về – tài
năng người nghệ sĩ. Văn chương đem lại cho con người những giá trị tinh thần
cao quý, giúp con người hướng tới Chân, Thiện, Mĩ trong cuộc sống. Những
tác phẩm văn học có giá trị nội dung, tư tưởng ; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt
qua thử thách khắc nghiệt của dư luận, của thời gian, không gian để trở thành
kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như La Bơ-ruy-e khẳng định: …đó là
một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.