Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.52 KB, 43 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

Người thực hiện:
Lớp:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015


Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy giáo, cô giáo của
Học viện Chính trị khu vực I, Ban Quản lý đào tạo, giáo viên chủ nhiệm Ngô
Thị Hoàng Yến - lớp Cao cấp Lý luận chính trị B3-14 đã tạo điều kiện thuận
lợi để em hoàn thành tốt chương trình học tập. Em xin chân thành cảm ơn
Thầy giáo, TS. Đỗ Trung Hiếu, đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em nghiên
cứu và hoàn thiện Đề án tốt nghiệp này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng vì quỹ thời gian có hạn, khả năng
nghiên cứu khoa học chưa thật sự tốt, nên Đề án không tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý tận tình của các thầy, cô
giáo để Đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 28 tháng 5 năm
2015


Học viên

Nguyễn Vĩnh Phú


MỤC LỤC


1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Khiếu nại là một hiện tượng khách quan của đời sống xã hội, là một
trong những quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 30 Hiến pháp
năm 2013 và trong Luật Khiếu nại năm 2011 bảo đảm cho công dân thực hiện
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Mặc dù pháp luật về quyền khiếu nại đã được chỉnh sửa nhiều lần nhưng
công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khó
khăn, bất cập. Số lượng đơn thư khiếu nại của công dân về quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước ở tất cả các cấp chính quyền,
trên hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước ngày càng gia tăng, tính chất các
vụ việc khiếu nại ngày càng phức tạp hơn. Đặc biệt khi nước ta chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, cùng với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa đất
nước với nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội liên quan trực tiếp đến nguồn
tài nguyên đất của nước ta thì đơn thư khiếu nại ngày càng nhiều.
Những năm qua, hoạt động giải quyết khiếu nại của các cấp chính quyền
nói chung, của chính quyền tỉnh Lạng Sơn nói riêng đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn vẫn diễn ra
theo chiều hướng hết sức phức tạp, nhất là những vụ việc liên quan đến đất đai,
nhà ở, giải phóng mặt bằng, chế độ chính sách đối với người có công với cách
mạng… đặc biệt tỉnh Lạng Sơn đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp

hoá - hiện đại hoá.
Nguyên nhân về các vụ khiếu nại gia tăng, một mặt do chính sách pháp
luật của Nhà nước cũng như của tỉnh Lạng Sơn còn nhiều bất cập, chồng
chéo, thiếu quy định cụ thể (hệ thống các văn bản pháp luật về đất đai, về
khiếu nại và về thủ tục hành chính…). Từ đó làm cho các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng


2
văn bản quy phạm pháp luật đối với các trường hợp khiếu nại. Bên cạnh đó,
công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật khiếu nại chưa được quan
tâm đúng mức; trình độ, năng lực, trách nhiệm cán bộ làm công tác tham mưu,
giải quyết khiếu nại còn nhiều hạn chế (Theo thống kê sơ bộ có khoảng 85% vụ
việc khiếu nại lần đầu của người dân đã được Ủy ban nhân dân các cấp của
tỉnh Lạng Sơn giải quyết nhưng người dân vẫn không đồng tình), làm cho vụ
việc ngày thêm phức tạp, kéo dài gây bức xúc trong nhân dân.
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thông qua Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về tiếp tục đổi mới
chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Từ thực tiễn quản lý, chúng ta khẳng định rằng việc giải
quyết khiếu nại về đất đai là công việc rất khó khăn và phức tạp, đang là khâu
yếu trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Việc nghiên cứu một cách có
hệ thống các quy định của pháp luật khiếu nại về đất đai, thực trạng khiếu nại
và giải quyết khiếu nại của tỉnh Lạng Sơn trong những năm gần đây, trên cơ sở
đó đề xuất những những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại về đất đai, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn trong gia đoạn hiện nay.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Giải quyết khiếu nại về đất đai
trên địa bàn huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2015-2020” làm

Đề án tốt nghiệp chương trình Cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung, khoá học
2014-2015.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Giải quyết kịp thời, đúng đắn các khiếu nại của các cá nhân, tổ chức về
đất đai trên địa bàn huyện Hữu Lũng; thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp
cho tổ chức và công dân; góp phần đảm bảo ổn định tình hình an ninh chính


3
trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao và củng cố hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về đất đai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đảm bảo phân loại, xử lý 100% đơn tiếp nhận trong thời hạn, đúng
thẩm quyền.
- Phấn đấu đạt tỷ lệ giải quyết đơn thư khiếu nại về đất đai từ 95% trở
lên. Giải quyết kịp thời, đúng quy định các kiến nghị của công dân và ý kiến,
kiến nghị của cử tri; tập trung chỉ đạo giải quyết những vụ việc bức xúc, kéo
dài, hạn chế khiếu nại vượt cấp trên địa bàn.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác hoà giải, phấn đấu đạt tỷ
lệ trên 75% số vụ việc hòa giải thành ở cơ sở.
- Rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu
nại về đất đai; bảo vệ quyền lợi chính đáng cho tổ chức và công dân, giảm
việc khiếu nại đông người, phức tạp, kéo dài.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Giải quyết đơn thư khiếu nại về đất đai của các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
3.2. Về không gian:
Đề án được thực hiện trên địa bàn huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

3.3. Về thời gian:
Thời gian thực hiện đề án từ năm 2015 đến năm 2020.


4
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học, lý luận
Khiếu nại là sản phẩm cuộc đấu tranh của nhân loại được hình thành và
pháp triển bởi nguồn gốc bất bình đẳng về quyền lợi kinh tế, chính trị. Nó thể
hiện bằng hình thức tương đối ôn hòa nhưng không kém phần quyết liệt như
đánh trống kêu oan, đến công đường kêu kiện hoặc viết đơn gửi đến chính
quyền các cấp để giải bày oan ức mong được giúp đỡ. Tuy chủ thể khiếu nại
là cá nhân hay tổ chức hoặc một bộ phận cộng đồng thì khiếu nại vẫn là sự đòi
hỏi quyền lợi thiết thực về sự công bằng của giai cấp bị trị đối với giai cấp
thống trị, do đó bản chất của nó bao giờ cũng mang tính giai cấp và tồn tại
khách quan khi xã hội có phân chia giai cấp. Trong thế giới hiện đại quyền
con người nói chung và quyền khiếu nại nói riêng được công nhận, cam kết,
bảo đảm và được ghi trong các Công ước, Hiệp ước, Hiến chương quốc tế nó
được chứng minh rằng "Mọi người đều có quyền khiếu nại hữu hiệu đến cơ
quan tư pháp quốc gia; Có quyền chống những hành vi vi phạm các quyền cơ
bản của con người đã được Hiến pháp và Pháp luật thừa nhận".
Điều 25 Công ước châu Mỹ về quyền con người ghi nhận: "Mọi người
đều có quyền hưởng một thủ tục khiếu nại đơn giản và nhanh chóng hoặc mọi
khiếu nại hữu hiệu khác trước các thẩm phán hoặc các Tòa án có thẩm quyền
nhằm bảo vệ người đó chống lại tất cả các hành động vi phạm đến các quyền
cơ bản của họ đã được Hiến pháp, pháp luật hoặc Công ước này thừa nhận,
ngay cả khi vi phạm này do những người thi hành công vụ gây ra…". Ngay
trong những năm đầu của Chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã xác định:
"Không thể giành thắng lợi cho Chủ nghĩa xã hội toàn thắng và đưa nhân loại

tới sự mất đi của Nhà nước nếu không thực hiện dân chủ một cách đầy đủ".


5
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã vận dụng sáng tạo nghĩa MácLênin vào thực tiễn cánh mạng Việt Nam. Ngay sau khi giành chính quyền
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng, củng cố mối quan
hệ chặt chẽ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Người nói: “Giữ chặt mối
liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền
tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”. Người đã nhiều lần
chỉ ra ý nghĩa chính trị sâu sắc của công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại của
nhân dân. Trong bài nói chuyện với cán bộ thanh tra tại Hội nghị Thanh tra
toàn miền Bắc ngày 05/3/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đồng bào có
oan ức mới khiếu nại, tố cáo, hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và
Chính phủ mà khiếu nại, tố cáo. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào
thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó mối
quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn”.
Theo quan điểm của Người, giải quyết khiếu nại của dân chính là một biện
pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
Trong trường hợp các khiếu nại được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xem xét, giải quyết kịp thời và thỏa đáng thì những người dân đi khiếu nại và
thậm chí cả những người sống chung quanh họ sẽ cảm thấy Nhà nước đã tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của họ, quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ và
cũng tự nhiên họ thấy Nhà nước gần gũi, gắn bó với họ và đã thực sự là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Nhưng ngược lại nếu các khiếu nại, các kiến
nghị của dân được các cơ quan, cán bộ Nhà nước đón nhận bằng một thái độ
thờ ơ, thiếu trách nhiệm thì cũng chính những người dân đó sẽ hình thành tâm
trạng thiếu tin tưởng và có xu hướng xa lánh các cơ quan quản lý. Vì vậy,
việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các khiếu nại của công dân, gắn
liền với nó là việc khôi phục kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,



6
xử lý nghiêm minh những người sai phạm tất yếu sẽ góp phần củng cố niềm
tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, làm cho mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước
ngày càng gắn bó bền chặt hơn.
Khái niệm về khiếu nại
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi
nhận tại Điều 74 của Hiến pháp năm 1992. Dưới góc độ pháp lý, khiếu nại
được hiểu là: “việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo
thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính
hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định
hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
mình” (Khoản 1, Điều 2, Luật Khiếu nại năm 2011).
Cơ quan thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện hợp pháp là
thủ trưởng cơ quan đó. Thủ trưởng cơ quan có thể ủy quyền cho người đại diện
theo quy định của pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại. Người được ủy quyền
có nghĩa vụ thực hiện việc khiếu nại theo đúng nội dung được ủy quyền.
Về đối tượng của khiếu nại, theo Luật khiếu nại năm 2011 bao gồm: quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.
Khiếu nại hành chính
Luật Khiếu nại năm 2011 có thể phân loại đối tượng của khiếu nại hành
chính thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất: Quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước bao gồm: Uỷ ban nhân
dân các cấp; cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; cơ quan thuộc Sở
và tương đương; Sở và tương đương; cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan



7
ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ.
Nhóm thứ hai: Quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, tức là của cá nhân, bao gồm:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp; thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân
cấp huyện; thủ trưởng cơ quan thuộc sở và tương đương; Giám đốc sở và
tương đương; thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ
quan thuộc Chính phủ; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ; và các cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan thuộc
nhóm thứ nhất.
Từ những phân cơ sở trên, có thể thống nhất quan niệm về khiếu nại
hành chính như sau: “Khiếu nại hành chính là việc cá nhân, tổ chức theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định đề nghị cơ quan nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn
cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái pháp luật,
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”
Khiếu nại về đất đai
Khoản 1 Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người sử dụng đất,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại,
khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai”.
Về chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về đất đai chính là “Người sử dụng
đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất”. Được quy
định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2013.
Theo quy định tại Điều 2, Luật Khiếu nại năm 2011 “Người có quyền,
nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà không phải là người
khiếu nại, người bị khiếu nại nhưng việc giải quyết khiếu nại có liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của họ.”



8
Do đó, các chủ thể (cơ quan, tổ chức, cá nhân) nêu trên và người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất đều có quyền thực hiện
quyền khiếu nại về đất đai khi có căn cứ cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị vi phạm.
Về đối tượng khiếu nại về đất đai là các quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai của cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Được
quy định tại Điều 22 Luật Đất đai năm 2013 quy định nội dung quản lý nhà
nước về đất đai.
Như vậy, các quyết định hành chính được ban hành trong các hoạt động
trên gọi chung là các quyết định quản lý đất đai; các hành vi được thực hiện
trong những quá trình đó gọi là hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Tuy nhiên, không phải mọi quyết định, hành vi liên quan đến quản lý
đất đai đều là đối tượng của khiếu nại về đất đai. Khoản 2, Điều 204 Luật Đất
đai năm 2013 quy định “Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành
chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về
khiếu nại…”.
Từ những phân cơ sở trên, có thể thống nhất quan niệm khiếu nại về đất
đai như sau: Khiếu nại về đất đai là việc cá nhân, tổ chức theo trình tự, thủ
tục pháp luật quy định đề nghị cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành
chính trong trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng quyết định hành
chính, hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của mình.
1.2. Cở sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị



9
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá IX đã nêu: "Việc giải
quyết tranh chấp, trước hết cần tiến hành hoà giải, nếu hoà giải không thành
thì đưa ra Toà án giải quyết. Nhà nước quy định thời hiệu và thời hạn giải
quyết các khiếu nại không để kéo dài, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối cùng các khiếu nại về đất đai trong
phạm vi thẩm quyền của các cấp ở địa phương; trường hợp các đương sự
không nhất trí với quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thì đưa ra Toà án giải quyết. Giải quyết tố cáo về đất đai thì theo
pháp luật tố cáo".
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) đổi mới chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ công nghiệp
theo hướng hiện đại; đã định hướng “Các cơ quan có thẩm quyền phải tập
trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành
chính, tố tụng dân sự; công bố công khai kết quả giải quyết” và đồng thời
hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai “Củng cố, kiện toàn hệ thống thanh
tra đất đai, toà án các cấp; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ xét xử đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ thanh tra
viên, cán bộ xét xử, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Rà
soát, sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm”
- Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ chính trị đã khẳng định
“Nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo về đất đai, tranh chấp tài sản chưa được giải
quyết dứt điểm, để kéo dài, gây bức xúc, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh “điểm
nóng” về an ninh trật tự”
- Chỉ thị số 19-CT/TU ngày 15/8/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lạng
Sơn đã nhất mạnh “công tác giải quyết đơn nhìn chung còn chậm so với thời
hạn quy định, có vụ việc giải quyết chưa đảm bảo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ



10
tục; đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo nhìn chung vẫn còn hạn chế về năng lực chuyên môn, công tác hòa giải ở
cơ sở và việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật hiệu quả chưa cao”
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Hiện nay công tác tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại được
quy định ở nhóm văn bản sau:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
- Hệ thống văn bản luật, gồm: Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Đất đai
năm 2013; Luật Tiếp công dân năm 2013.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, gồm: Nghị định số 75/2012
ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật khiếu nại; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Thông tư
07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định về
quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; Nghị định 64/2014/NĐ-CP ngày
26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp
công dân; Thông tư số 46/2012/TTLT-BTC-TTCP ngày 16/3/2012 của Bộ
Tài chính - Bộ Nội vụ quy định chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức
làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh; Quyết định số 09/2008/QĐ-UBND ngày 15/4/2008 của UBND tỉnh Lạng
Sơn ban hành Quy chế tiếp công dân của Ủy ban nhân dân huyện...
1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong giai đoạn từ năm 2009-2013 là giai đoạn cả nước tăng cường đẩy
mạnh phát triển kinh tế xã hội, thực hiện các chính sách đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng, quan tâm đầu tư cho các địa phương vùng kinh tế xã hội đặc biệt


11
khó khăn. Đối với huyện Hữu Lũng, trong những năm qua được Đảng, Nhà

nước đầu tư các chương trình mục tiêu, dự án cho các xã, thôn đặc biệt khó
khăn; kinh tế xã hội từng bước phát triển, xã hội ngày một đổi mới, song song
với phát triển kinh tế dẫn đến phức tạp về tình hình đơn thư phát sinh trên địa
bàn huyện có chiều hướng gia tăng, nhiều vụ việc có tính chất phức tạp về thu
hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, vấn đề ô nhiễm môi trường gây sự
phản kháng, bức xúc trong nhân dân; một số vụ việc giải quyết khó khăn do
lịch sử để lại. Đặc biệt khi huyện đang dần dần chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường, cùng với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa với nhiều dự án phát
triển kinh tế - xã hội liên quan trực tiếp đến nguồn tài nguyên đất thì đơn thư
khiếu nại ngày càng nhiều, chủ yếu phát sinh trong các lĩnh vực như: Tranh
chấp đất đai, lấn chiếm đất để xây dựng công trình trên đất, tranh chấp ranh
giới sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...
Nguyên nhân phát sinh đơn thư xuất phát từ công tác quản lý nhà nước
về đất đai, các văn bản chưa kịp thời điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, sự
phát triển kinh tế, làm thay đổi đời sống của nhân dân trong huyện và cũng
làm xuất hiện những mâu thuẫn, bất đồng nảy sinh do công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng, các mâu thuẫn cá nhân trong mở rộng sản xuất kinh tế.
Một số quyết định, biên bản giải quyết đã có hiệu lực nhưng việc thi hành trên
thực tế không thực hiện được. Việc thụ lý, giải quyết các yêu cầu của công
dân chưa kịp thời; trình độ, năng lực, kiến thức pháp luật của công chức về
quản lý đất đai còn hạn chế, việc tiếp nhận, thẩm tra, xác minh, xử lý đơn
chưa đảm bảo thời gian quy định, nhiều vụ việc ban hành kết luận, quyết
định, văn bản trả lời công dân chưa thỏa đáng, tình trạng đơn thư công dân
gửi vượt cấp vẫn còn xảy ra. Sự hiểu biết về chính sách pháp luật của người
dân còn nhiều hạn chế, dễ bị lôi kéo, kích động; Công tác tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật về khiếu nại chưa thường xuyên, sâu rộng đến toàn


12
thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng

kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn…
Trước tình hình đó, chúng ta khẳng định rằng việc giải quyết khiếu nại
về đất đai là công việc rất khó khăn và phức tạp, đang là một trong những khâu
yếu trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Để nâng cao hiệu quả công tác
tiếp công dân, xử lý, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại về đất đai trên
địa bàn huyện cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện
Hữu Lũng là một huyện miền núi nằm ở cửa ngõ phía Nam của tỉnh
Lạng Sơn. Huyện có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội và
đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng
nông, lâm nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đang và sẽ đầu tư trên địa bàn huyện.
Nhiều công trình, dự án xây dựng được triển khai, đồng nghĩa với việc nhiều
diện tích đất, trong đó có cả diện tích đất của các hộ gia đình bị thu hồi để
thực hiện các dự án. Những yếu tố đó cùng với những nguyên nhân chủ quan,
nguyên nhân khách quan khác nhau sẽ phát sinh và gia tăng số lượng đơn thư
khiếu nại nói chung, khiếu nại về đất đai nói riêng trên địa bàn.
Trong thời gian tới, tình hình khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện
Hữu Lũng còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Do đó, công tác giải quyết
khiếu nại về đất đai phải bám sát những mục tiêu chủ yếu đó là: Bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân về đất đai; không ngừng tăng cường
pháp chế, giải quyết hài hòa lợi ích giữa các bên trong quá trình giải quyết
khiếu nại; bảo đảm ổn định trật tự xã hội, tạo môi trường thuận lợi phục vụ
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.


13
2.2. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại trên địa bàn huyện
Hữu Lũng

2.2.1. Một số nét về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện
- Hữu Lũng là một huyện miền núi nằm ở cửa ngõ phía Nam của tỉnh
Lạng Sơn, có diện tích tự nhiên 806,74 km 2, chiếm 14,27% diện tích tự nhiên
của tỉnh (Xem chi tiết tại phụ lục). Địa giới hành chính tiếp giáp với các
huyện Lục Nam, Lạng Giang, Yên Thế của tỉnh Bắc Giang; huyện Võ Nhai
của tỉnh Thái Nguyên; các huyện Bắc Sơn, Văn Quan, Chi Lăng của tỉnh
Lạng Sơn. Huyện có 25 xã và 1 thị trấn.
- Dân số toàn huyện tính đến thời điểm 31/12/2013 là 114.191 người;
trong đó khu vực thị trấn chiếm 7,98%, khu vực nông thôn chiếm 92,02%;
gồm 7 dân tộc anh em cùng chung sống là dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Hoa,
Dao, Sán Chỉ, Cao Lan; trong đó dân tộc Nùng chiếm 51,5%; dân tộc Tày
chiếm 6,0%; dân tộc Kinh chiếm 40,4%; còn lại các dân tộc khác chiếm 2,1%.
Mật độ dân số bình quân năm 2013 là 142 người/km 2. Huyện có tuyến đường
Quốc lộ 1A chạy qua trung tâm huyện với chiều dài 27 km và tuyến đường sắt
liên vận quốc tế Hà Nội – Đồng Đăng chạy qua 5 xã phía Đông của huyện có
chiều dài 25 km với 3 nhà ga, nhìn chung giao thông đi lại khá thuận tiện.
- Kinh tế trong giai đoạn vừa qua có bước phát triển khá, nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân giai đoạn 2009-2013 tăng 10,75%/năm trong đó khu
vực nông - lâm - thủy sản bình quân tăng 5,35%/năm; công nghiệp - xây dựng
tăng 14,43%/năm và khu vực thương mại - dịch vụ bình quân tăng
14,02%/năm.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng
khu vực nông - lâm - thủy sản và tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ. Thu nhập bình quân đầu người (GDP bình quân đầu người)
năm 2013 ước đạt 19,5 triệu đồng/người/năm bằng 75,8% so mức trung bình


14
của tỉnh; tăng 1,8 lần so với năm 2009.
Nguồn vốn đầu tư xã hội của huyện Hữu Lũng tăng tương đối nhanh và

luôn giữ ở mức 25 - 40% GDP. Tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2009-2013,
tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 1.641 tỷ đồng, trong đó năm 2013 tổng
vốn đầu tư vào địa bàn đạt trên 550 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng thời kỳ 20092013 mặc dù chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, tăng trưởng vốn vẫn đạt
trên 20%/năm.
Tổng giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản năm 2013 đạt 315.055 triệu
đồng tăng 45.293 triệu đồng so với năm 2009, bình quân giai đoạn 2009-2013
tăng 3,1%/năm. Trong đó nông nghiệp tăng 3%/năm; lâm nghiệp tăng
3,8%/năm và thủy sản tăng 6%/năm. Cơ cấu nội ngành nông nghiệp chủ đạo
là trồng trọt, năm 2013 chiếm 70% giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển khá ổn định, ngày
càng mở rộng về quy mô và địa bàn sản xuất. Trên địa bàn đã hình thành Cụm
công nghiệp Thị trấn Hữu Lũng và đang kêu gọi đầu tư xây dựng. Giá trị sản
xuất công nghiệp năm 2009 đạt 55.856 triệu đồng, đến năm 2012 tăng lên
96.374 triệu đồng và đến năm 2013 đạt 98.006 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm thời kỳ 2009-2013 đạt 11,9%/năm.
- Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện, có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện quản lý nhà nước
về đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và môi trường trong phạm
vi huyện quản lý. Hiện nay, số lượng biên chế của phòng là 08 đồng chí
(trong đó: 03 đồng chí lãnh đạo, 05 đồng chí chuyên viên), được đào tạo
chuyên ngành chủ yếu là: Quản lý đất đai (05 đồng chí) và quản lý môi
trường (02 đồng chí); kế toán (01 đồng chí).


15
2.2.2. Những kết quả giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện
Trong 5 năm qua (giai đoạn 2009 - 2013), các cơ quan có thẩm quyền đã
giải quyết xong 145 vụ việc trong tổng số 164 vụ việc khiếu nại về đất đai
thuộc thẩm quyền, đạt 88,4%. Trong đó: 63 vụ việc có quyết định giải quyết
(đạt 43,4% số vụ đã giải quyết xong); 82 vụ việc giải quyết thông qua giải

thích, thuyết phục để người khiếu nại tự rút đơn (đạt 56,6% số vụ đã giải
quyết xong).
Qua phân tích 145 vụ việc đã giải quyết, có 34 vụ việc khiếu nại đúng
(chiếm 23,5%), 66 vụ việc khiếu nại có đúng, có sai (chiếm 45,5%) và 45 vụ
việc khiếu nại sai (chiếm 31%). Số vụ việc giải quyết đúng trình tự và đúng
hoặc trước thời hạn 104 vụ việc (chiếm 71,7%); số vụ việc giải quyết đúng
trình tự nhưng chậm, vượt quá thời hạn 41 vụ việc (chiếm 28,3%). Đã thi hành
được 120/145 vụ (đạt 82,8 %), chưa thi hành còn 25/145 vụ (chiếm 17,2%) .
Tổng hợp tình hình khiếu nại và kết quả giải quyết khiếu nại về đất
đai trên địa bàn huyện giai đoạn 2009-2013

Nội dung

Năm Năm Năm Năm

Năm Tổng Tỷ lệ

2009 2010 2011 2012 2013
1. Khiếu nại về đất đai
31
46
37
13
37
1.1. Giải phóng mặt bằng
17
13
13
4
17

1.2. Cấp, thu hồi Giấy chứng
3
16
12
9
12

số
164
64
52

(%)
100
39,0
31,7

nhận quyền sử dụng đất
1.3. Giải quyết tranh chấp đất

6

5

5

0

6


22

13,4

đai
1.4. Giao, cho thuê, thu hồi đất
1.5. Xử lý vi phạm hành chính

2
0

5
5

1
4

0
0

0
0

8
9

4,9
5,5

về đất đai

1.6. Hành vi hành chính
1.7. Quyết định quản lý đất đai

2
1

1
1

0
2

0
0

2
0

5
4

3,1
2,4


16
khác
2. Kết quả giải quyết
* Về cách giải quyết
- Thông qua quyết định hành


25

45

36

11

28

145

100

6

23

17

1

16

63

43,4

19


22

19

10

12

82

56,6

quyết
- Đúng trình tự; đúng, trước

15

37

26

7

19

104

71,7


thời hạn
- Đúng trình tự; đúng, vượt thời

10

8

10

4

9

41

28,3

5
14
6

17
12
16

7
19
10

3

3
5

2
18
8

34
66
45

23,5
45,5
31,0

22
3

39
6

28
8

9
2

22
6


120
25

82,8
17,2

chính
- Thông qua giải thích, thuyết
phục
* Về trình tự, thời hạn giải

hạn
* Về kết quả giải quyết
- Khiếu nại đúng
- Khiếu nại có đúng, có sai
- Khiếu nại sai
* Về kết quả thi hành
- Đã thi hành
- Chưa thi hành

“Nguồn: Thanh tra huyện Hữu Lũng”
2.2.3. Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế
Từ đánh giá thực trạng kết quả giải quyết khiếu nại về đất đai trong
những năm qua trên địa bàn huyện và dự báo xu hướng khiếu nại vẫn còn
những diễn biến phức tạp; số vụ việc khiếu nại sẽ có chiều có gia tăng, do nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Số vụ việc tranh chấp, đề nghị,
kiến nghị chậm giải quyết vẫn còn nhiều; một số xã chưa tập trung chỉ đạo
giải quyết đơn thư thuộc thẩm thường xuyên, chưa thực hiện nghiêm chế độ
tiếp dân, một số vụ việc giải quyết chưa xác định đúng thẩm quyền gây bức
xúc cho nhân dân, nhân dân chưa tin tưởng vào việc giải quyết của các cấp

chính quyền dẫn đến tình trạng khiếu nại về đất đai vượt cấp, gây sức ép lên


17
các cấp trên. Để xảy ra tình trạng nêu trên là do:
- Việc tiếp công dân ở một số đơn vị, xã, thị trấn còn mang tính hình
thức, kém hiệu quả; chưa gắn với công tác giải quyết khiếu nại; chưa tranh
thủ thời gian tiếp dân để đối thoại với người khiếu nại; chất lượng đối thoại
của cán bộ tiếp dân còn hạn chế. Tình trạng hứa hẹn, đùn đẩy, né tránh hoặc
giải quyết quá chậm làm cho người khiếu nại, tố cáo bức xúc, thiếu niềm tin.
Ở một số xã, lãnh đạo chưa thực hiện tiếp công dân theo quy định của Luật
khiếu nại khiến người dân phải đi lại nhiều lần, gây tâm lý bức xúc đối với
chính quyền.
- Mặc dù các cấp, các ngành của huyện Hữu Lũng đã quan tâm nhiều
đến công tác giải quyết khiếu nại về đất đai, song tỷ lệ đơn thư khiếu nại về
đất đai còn tồn tính đến hết năm 2013 là 11,6%, tỷ lệ giải quyết chậm thời
gian so với quy định từ năm 2009 đến hết năm 2013 là 28,3%.
- Chất lượng giải quyết vụ việc của một số đơn vị chưa cao, còn mang
tính hình thức, dẫn đến việc người dân tiếp tục khiếu nại lên cấp trên. Đặc
biệt, Ủy ban nhân dân cấp xã chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả của chính
quyền cơ sở, chất lượng giải quyết khiếu nại còn nhiều hạn chế (hoà giải tại
cơ sở). Mặc dù đây là cấp có vai trò rất quan trọng trong việc hạn chế phát
sinh khiếu nại nhưng khi người dân đến khiếu nại thì chính quyền cấp xã lại
giải quyết không triệt để, hoặc qua loa và hướng dẫn dân chuyển đơn lên cấp
có thẩm quyền. Hơn nữa, chính quyền cấp xã cũng gặp nhiều khó khăn trong
quá trình giải quyết do mối quan hệ gia đình, thôn xóm, do đó khi hoà giải
thường không khách quan.
- Việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra kết quả thực hiện các quyết định giải
quyết khiếu nại chưa sát sao. Nhiều quyết định giải quyết khiếu nại, có hiệu
lực pháp luật nhưng các cơ quan có liên quan thực hiện chậm, thực hiện chưa

nghiêm túc.


18
- Công tác thông tin, báo cáo và quản lý lưu trữ hồ sơ giải quyết khiếu
nại còn nhiều hạn chế. Số liệu báo cáo tình hình khiếu nại từ cấp dưới lên cấp
trên không được chính xác, chưa phản ánh đầy đủ, kịp thời về tình hình khiếu
nại và kết quả giải quyết các vụ việc khiếu nại. Nhiều cán bộ tiếp dân không
xác định được nội dung vụ việc nên không thống kê, báo cáo vụ việc lên cấp
trên. Việc quản lý, lưu trữ hồ sơ giải quyết khiếu nại của công dân nhiều nơi
chưa đúng theo quy định, chưa đầy đủ, khoa học, không đảm bảo chế độ bảo
quản dẫn đến việc xác minh, xem xét thường mất thời gian, công sức, thiếu tài
liệu cũ làm căn cứ để giải quyết dẫn đến việc kết luận, giải quyết khó khăn,
đôi khi chưa thuyết phục.
Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất: Cấp uỷ, chính quyền một số địa phương, đơn vị chưa quan
tâm đúng mức đến công tác tiếp công dân, chưa phối hợp chặt chẽ giữa việc
tiếp công dân và giải quyết khiếu nại nói chung, khiếu nại về đất đai nói
riêng. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể có nơi,
có lúc chưa chặt chẽ, thường xuyên, do đó một số vụ khiếu nại về đất đai
chưa được giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, còn để xảy ra khiếu nại vượt
cấp, kéo dài.

Thứ hai: Việc phân biệt giữa tranh chấp đất đai và lấn chiếm đất đai
chưa rõ ràng nên nhiều khi còn có sự nhầm lẫn, dẫn đến việc áp dụng trình tự,
thủ tục quy phạm pháp luật để giải quyết vụ việc còn lúng túng, phải làm đi
làm lại nhiều lần, làm cho thời gian giải quyết vụ việc kéo dài, chậm dứt điểm
gây bức xúc cho người dân, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của địa
phương, phát sinh khiếu kiện vượt cấp.



19
Thứ ba: Ủy ban nhân dân các cấp vừa là cơ quan quản lý Nhà nước về
đất đai, vừa có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai. Trong khi có
những vụ khiếu nại về đất đai nảy sinh do Ủy ban nhân dân các cấp làm chưa
hết trách nhiệm quản lý Nhà nước hoặc làm sai các quy định của pháp luật.
Từ đó dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, có thể thiếu khách
quan, công minh trong quá trình giải quyết khiếu nại.
Thứ tư: Chính sách, pháp luật về đất đai luôn thay đổi, còn bất cập. Công
tác quản lý đất đai qua nhiều thời kỳ có cơ chế quản lý khác nhau, bị buông
lỏng trong thời gian dài. Việc lưu trữ hồ sơ phục vụ công tác quản lý đất đai
qua các thời kỳ còn nhiều thiếu sót. Do đó khi cần các tài liệu có tính chất
phản ánh nguồn gốc và quá trình sử dụng đất không đáp ứng được do vậy
cũng tạo không ít khó khăn cho công tác giải quyết khiếu nại về đất đai.
Thứ năm: Biên chế cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại về đất đai
còn thiếu, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, trong khi đó còn 13/26 xã
bố trí biên chế cán bộ địa chính sang làm công tác Văn phòng Đảng ủy xã.
Một số cán bộ trong khi thi hành công vụ về quản lý đất đai chưa thực hiện
đúng chính sách, pháp luật.
Thứ sáu: Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai, giải quyết
khiếu nại về đất đai chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao; trình độ dân trí
của đồng bào còn thấp, thiếu hiểu biết pháp luật nên dễ dẫn tới những vi phạm
pháp luật về đất đai và khiếu nại về đất đai; ý thức chấp hành pháp luật về
khiếu nại của một bộ phận công dân chưa nghiêm.
2.3. Nội dung cụ thể của đề án cần thực hiện
Nhằm giải quyết căn bản những tồn tại, hạn chế trong thực hiện công
tác giải quyết khiếu nại về đất đai trong thời gian qua trên địa bàn huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn



20
xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới,
đề án đề ra mục tiêu cần đạt được trong giai đoạn 2015 - 2020 như sau:
Thứ nhất, Duy trì lịch tiếp công dân của Chủ tịch UBND huyện, Thủ
trưởng các phòng, ban và Chủ tịch UBND các xã, thị trấn theo quy định. Định
kỳ hàng quý kiểm tra trách nhiệm tiếp công dân của thủ trưởng các phòng,
ban, Chủ tịch UBND các xã, thị trấn. Chỉ đạo giải quyết kịp thời các kiến
nghị của công dân tại các kỳ tiếp công dân. Nhằm giải quyết kịp thời, đúng
quy định các kiến nghị của công dân và ý kiến, kiến nghị của cử tri, tập trung
chỉ đạo giải quyết những vụ việc bức xúc, kéo dài, hạn chế khiếu nại vượt cấp
trên địa bàn.
Thứ hai, Tổ chức giao ban hàng quý với các cơ quan, đơn vị để nắm
tình hình, kịp thời tư vấn, định hướng, hướng dẫn đơn vị giải quyết đơn thuộc
thẩm quyền đúng hạn, đúng quy định đảm bảo phân loại, xử lý 100% đơn tiếp
nhận trong thời hạn, đúng thẩm quyền; đạt tỷ lệ giải quyết đơn thư từ 95% trở
lên; nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác hoà giải để làm sao phấn đấu
đạt tỷ lệ trên 75% số vụ việc hòa giải thành ở cơ sở.
Thứ ba, Hằng năm xây dựng kế hoạch, lựa chọn đội ngũ giảng viên có
trình độ, kỹ năng chuyên sâu nghiệp vụ. Đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp tuyên truyền Luật Tiếp công dân, Luật khiếu nại, Luật Đất đai đến các
tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp
luật của công dân.
Thứ tư, Tổ chức tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ về công tác tiếp công
dân, giải quyết đơn thư cho các phòng, ban, các xã, thị trấn và cán bộ, công
chức có liên quan, đảm bảo cán bộ, công chức có đầy đủ năng lực, kinh
nghiệm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ năm, Nâng cao hiệu lực, hiểu quả của cơ quan tham mưu huyện về


21

quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi huyện quản lý; đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển, bổ nhiệm những cán bộ có đức, có tài để thực thi nhiệm vụ.
2.4. Các giải pháp thực hiện
Để công tác tiếp công dân, giải quyết các yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại
của công dân trên địa bàn huyện đạt chất lượng, hiệu quả, cần thực hiện đồng
bộ các nhóm giải pháp sau:
2.4.1. Công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư
- Thành lập Ban Tiếp công dân cấp huyện (đồng chí Phó Chánh Văn
phòng HĐND và UBND làm Trưởng ban), phân công công chức (có đủ phẩm
chất, năng lực, am hiểu chính sách pháp luật, có ý thức trách nhiệm, có kinh
nghiệm thực tiễn) thường xuyên tiếp dân.
- Chủ tịch UBND huyện mỗi tháng ít nhất 02 ngày trực tiếp công dân,
lịch tiếp công dân phải được niêm yết công khai và thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
- Trang bị thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị (bàn, ghế, máy vi tính; sổ
sách...) cho Ban tiếp công dân; đối với cấp xã cần bố trí nơi tiếp công dân cố
định (có phòng tiếp dân và đầy đủ nhân, vật lực) phù hợp.
- Cán bộ làm công tác xử lý đơn thư phải thường xuyên phối hợp với
phòng Thanh tra huyện, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện phân loại nội
dung đơn khiếu nại, đề nghị, kiến nghị, xác định cơ quan có thẩm quyền giải
quyết đúng theo quy trình quy định.
- UBND huyện thành lập Tổ tư vấn tham mưu xem xét, xử lý đơn, đồng
thời phối hợp với bộ phận tiếp công dân đảm bảo việc xử lý đúng quy định,
đúng hạn, khắc phục tình trạng thực tế hiện này.
2.4.2. Công tác chỉ đạo, thực hiện giải quyết khiếu nại về đất đai


22
- Huyện uỷ, uỷ ban nhân dân huyện thường xuyên quán triệt, chỉ đạo,
ban hành các Nghị quyết chỉ đạo, điều hành, xử lý trong việc tiếp dân, giải

quyết khiếu nại về đất đai của công dân trên địa bàn huyện.
- Chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện cần lắng nghe, tôn trọng vai trò tham
mưu, đề xuất giải pháp của phòng Thanh tra, phòng Tài nguyên và Môi
trường huyện và các cơ quan khác trước khi ban hành quyết định giải quyết
về đất đai; hàng tháng, quý phải đưa ra chỉ tiêu giải quyết cụ thể cho từng vụ
việc đang thụ lý.
- Phối hợp giải quyết khiếu nại về đất đai giữa các cấp, các ngành trên
địa bàn huyện. Thanh tra, kiểm tra việc phối hợp, tham mưu, giúp thủ trưởng
giải quyết dứt điểm đối với các vụ khiếu kiện phức tạp, tồn đọng, kéo dài.
- Thường xuyên đối thoại với công dân, đồng thời những vụ việc đã rõ
nội dung có thể trực tiếp trả lời, kết luận vụ việc luôn để nhân dân biết, thực
hiện; thường xuyên quán triệt, chỉ đạo và cố gắng hòa giải thành tại cơ sở,
không để xảy ra các điểm “nóng” và tình trạng khiếu kiện vượt cấp, kéo dài.
- Kiện toàn Hội đồng tư vấn giải quyết đơn khiếu nại về đất đai khi có
thay đổi về nhân sự. Đồng thời tranh thủ xin ý kiến hướng dẫn, định hướng của
Thanh tra tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh và các sở ngành liên quan
đối với các vụ việc phức tạp.
- Biên chế cứng 01 đồng chí chuyên theo dõi, tham mưu về giải quyết
tranh chấp đất đai cho cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.
- Cử 01 đồng chí đại diện cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có
trình độ chuyên môn, đạo đức tham gia vào Hội đồng thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng của huyện để kiểm tra, giám sát. Đồng thời phát hiện những sai
phạm phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện.
2.4.3. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật; đào tạo, bồi
dưỡng; thông tin, báo cáo


×