Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh dưới góc nhìn tự sự học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.74 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ YÊN HÀ

TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
DƢỚI GÓC NHÌN TỰ SỰ HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lí luận Văn học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ YÊN HÀ

TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
DƢỚI GÓC NHÌN TỰ SỰ HỌC

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lí luận Văn học
Mã số: 60 22 01 20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Long

Hà Nội - 2016


Lêi cam ®oan


Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, tôi đã hoàn thành xong Luận
văn Thạc sĩ của mình với đề tài Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh dưới góc
nhìn tự sự học. Tôi xin cam đoan Luận văn này là kết quả nghiên cứu nghiêm
túc của tôi dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS. Phạm Quang Long. Kết
quả này chưa hề được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào, mọi tài
liệu tham khảo đều được trích dẫn rõ ràng. Nếu lời cam đoan trên là không
đúng, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 14 tháng 5 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Yên Hà


Lêi C¶m ¬n
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, em đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của các thầy, cô giáo của khoa Văn học Trường Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - PGS.TS
Phạm Quang Long, thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn
thành luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong tổ bộ môn Lí luận Văn học,
khoa Văn học, phòng Sau đại học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn - ĐHQGHN đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người
thân yêu đã luôn động viên và dành cho em sự giúp đỡ, sẻ chia về mọi mặt
trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.
Với trình độ còn hạn chế của người viết, Luận văn chắc chắn không
tránh khỏi khiếm khuyết. Em hy vọng sẽ nhận được những ý kiến nhận xét,
góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và bạn bè về những vấn đề

được triển khai trong Luận văn được hoàn thiện và trọn vẹn hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 7
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 8
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............ Error! Bookmark not defined.
4. Mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu ........... Error! Bookmark not defined.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................... Error! Bookmark not defined.
6. Kết cấu của luận văn ................................. Error! Bookmark not defined.

CHƯƠNG 1: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤUError! Bookm
1.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh ................................................................ Error! Bookmark not defined.

1.1.1. Khái lược về cốt truyện và nghệ thuật tổ chức cốt truyệnError! Bookmark not d
1.1.2. Sự vận động của nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong văn học Việt
Nam hiện đại .................................................. Error! Bookmark not defined.
1.1.3. Cách tân và sáng tạo trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện Nỗi
buồn chiến tranh ........................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Kết cấu trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranhError! Bookmark not defined.
1.2.1. Khái lược về kết cấu ............................. Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Kết cấu truyện trong truyện ................. Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Kết cấu dòng ý thức .............................. Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................... Error! Bookmark not defined.

CHƢƠNG 2: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬTError! Bookm


2.1. Ngƣời kể chuyện trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranhError! Bookmark not d
2.1.1. Khái lược về người kể chuyện ............. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Người kể chuyện tự ý thức................... Error! Bookmark not defined.

2.1.3. Những biến chuyển của hì nh tượng người kể chuyệnError! Bookmark not defi
2.2. Điểm nhìn trần thuật ............................. Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Khái lược về điểm nhìn ........................ Error! Bookmark not defined.


2.2.2. Điểm nhìn đa chiều trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranhError! Bookmark n
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬTError! Bookmark no
3.1. Ngôn ngữ trong Nỗi buồn chiến tranh .. Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Ngôn ngữ tự sự..................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Ngôn ngữ giàu cảm giác ...................... Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Độc thoại nội tâm ................................. Error! Bookmark not defined.
3.2. Giọng điệu trong Nỗi buồn chiến tranh Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Giọng buồn thương ngậm ngùi ........... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Giọng đồng cảm ................................... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh đã lùi xa nhưng dấu ấn của nó vẫn còn rất đậm nét cả trong đời
sống tinh thần và cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Mặc dù vậy, những thế hệ sau
này chưa có được những hình dung cụ thể, sâu sắc về chiến tranh để từ đó biết trân
trọng những giá trị của cuộc sống hòa bình hôm nay. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến

tranh của Bảo Ninh giống như một cây cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, tương lai,
là sợi dây gắn kết thế hệ sau với quá khứ hào hùng của cha ông mình. Nỗi buồn
chiến tranh không chỉ lạ về hình thức mà còn mới mẻ về nội dung so với nhiều tác
phẩm cùng thời. Có thể nói, đây là cuốn sách đầu tiên của văn học Việt Nam thể
hiện chiến tranh dưới góc nhìn của một cá nhân. Nó là một khúc ca bi tráng, đau
thương và tàn khốc về chiến tranh, và có lẽ chưa có tiểu thuyết nào cùng đề tài
vượt qua nó ở Việt Nam. Tờ Independent, một trong những nhật báo có uy tín của
nước Anh, đã nhận xét về cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh: “Vượt ra ngoài sức
tuởng tượng của người Mỹ, Nỗi buồn chiến tranh đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã
đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỷ, Mặt trận phía
Tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Remarque (…). Một cuốn sách viết về sự mất
mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn… một thành quả lao động
tuyệt đẹp” [59].
Kể từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, có thể nói, các công trình nghiên
cứu, tìm hiểu về Nỗi buồn c hiến tranh của Bảo Ninh đã có r ất nhiều, nhưng chắc
chắn nó sẽ còn là đối tượng tạo ra nhiều nguồn cảm hứng và sáng tạo cho những nỗ
lực tì m tòi không mệt mỏi nhằm đến gần hơn với tư tưởng nghệ thuật của tác
phẩm. Đó có thể chỉ là quá trì nh tì m kiếm những trải nghiệm , là sự khẳng định sức
sống mãnh liệt của cái đẹp , của nhân tính; cũng có thể là sức hấp dẫn của một bút
pháp, hay con đường tì m đến nh ững kỉ niệm, hồi ức về những tháng ngày chiến


tranh của con người… Nhưng hơn hết , bức tranh trung thực và tàn nhẫn trong tiểu
thuyết ấy chất chứa chiều sâu tâm hồn và chạm đến trái tim con người.
Dưới mỗi góc độ soi chiếu khác nhau đều đưa đến cho người đọc cũng như
các nhà nghiên cứu cách lý giải riêng của mình cho một hiện tượng đặc biệt và làm
thỏa trí tò mò. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn tìm hiểu tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh dưới góc nhìn của lý thuyết tự sự học với mong muốn khám phá sâu hơn tác
phẩm từ một cách tiếp cận khác, mang ý nghĩa vận dụng một lí thuyết về kể
chuyện vào một hiện tượng cụ thể, có nhiều đặc sắc so với lối kể thông thường của

văn học nước nhà. Đồng thời qua đó, chỉ ra được một cơ sở chắc chắn giúp đánh
giá được chính xác về giá trị của tác phẩm cũng như đóng góp của nhà văn trong
tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung và Văn học Việt Nam giai
đoạn từ sau 1975 nói riêng ở thể loại tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được coi là một cột mốc sáng chói của
văn học thời kỳ Đổi mới, đồng thời cũng là cuốn tiểu thuyết có số phận đặc biệt
của văn học Việt Nam suốt hơn hai thập niên qua. Xuất bản lần đầu tại Việt Nam
nó bị đổi tên là Thân phận của tình yêu (năm 1990), nhưng chỉ một năm sau, lại
được tái bản với nhan đề của chính tác giả: Nỗi buồn chiến tranh và được trao
giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1991). Nỗi buồn chiến tranh không chỉ
được đông đảo bạn đọc Việt Nam biết đến mà nó còn được dịch ra trên mười thứ
tiếng và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới. Khi mới xuất hiện trên văn đàn, tác
phẩm không được chào đón, thậm chí bị lên án, phê phán mạnh mẽ. Cùng với
thời gian, người ta đã phải thay đổi cách nhìn về nó và lúc này tác phẩm lại tốn
khá nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu.
Có rất nhiều ý kiến đánh giá xung quanh tác phẩm này. Xu hướng thứ nhất
thể hiện sự không đồng tình với tác phẩm. Có không ít nhà phê bình coi cuốn sách
của Bảo Ninh là “điên loạn”, “rối bời”, “lố bịch hóa hiện thực”, “bôi nhọ quân


đội”. Tiêu biểu có thể kể đến tác giả Đỗ Văn Khang trong bài viết “Nghĩ gì khi đọc
tiểu thuyết Thân phận của tình yêu”, đăng trên Báo Văn Nghệ số 43, ra ngày
26/10/1991. Theo tác giả: “Những đổi mới nghệ thuật của Bảo Ninh như: cấu trúc
trần thuật kép, tính chất đa thanh, kỹ thuật dòng ý thức chỉ là việc làm thuần túy để
đánh lừa bạn đọc”. Ông đã phủ nhận không thương tiếc giá trị của tác phẩm: “Tác
phẩm có cảm hứng chủ đạo là dối bời, bất định, tư tưởng rõ ràng hoang mang, dễ
rơi vào phủ định”. Những cảnh tàn khốc của chiến tranh trong tác phẩm bị gọi là
“chủ nghĩa tự nhiên trong văn học”. Nhân vật trong tác phẩm bị “thiết kế sai, chẳng
có ý tưởng nào cả”...

Một xu hướng khác nữa là sự cổ vũ động viên nhưng có phần e dè, với câu
hỏi: Liệu rằng cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh có bị dồn nén quá nhiều chất
bi không? Nguyễn Phan Hách trong cuộc thảo luận về tiểu thuyết Thân phận của
tình yêu (trên trang 4, Báo Văn nghệ số 37, năm 1991) đã viết: “Lùi ra xa, đứng
cao hơn một chút thì thấy có thể thông cảm được với tác phẩm này. Tôi chưa hẳn
tán thành hoàn toàn về nội dung, nhưng cái đẹp, cái tuyệt kĩ, văn chương là văn
chương của cuốn sách đã át đi được những e ngại khác...”.
Một trong những người tiêu biểu cho xu hướng đánh giá cao đóng góp của
Bảo Ninh trong sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại có thể kể đến đó
chính là nhà văn Nguyên Ngọc. Trong cuộc thảo luận về tiểu thuyết Thân phận
tình yêu (trên trang 5, Báo Văn nghệ số 37, năm 1991), ông khẳng định: “Cuốn
sách Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh là sự nghiền ngẫm về chiến thắng, ý
nghĩa và giá trị to lớn và dữ dội của chiến thắng. Nó chỉ cho chúng ta biết rằng,
chúng ta đã làm nên chiến công vĩ đại thắng Mỹ với cái giá ghê gớm đến chừng
nào. Một đặc sắc nữa của cuốn sách này là tác giả viết với tư cách hoàn toàn của
người trong cuộc, không đứng ngoài, đứng trên nhìn ngắm mà đứng trong, thậm
chí ở tận đáy của cuộc chiến tranh. Anh viết về cuộc chiến tranh “của anh” gần như


bằng tất cả máu của anh. Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học
đổi mới”.
Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thi pháp hiện đại đã khẳng định: “Trong văn
học mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về
tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình yêu xót thương nhất”, tác giả nhấn mạnh: “Nỗi
buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài 35 năm”,
“những cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác
phẩm” [20; 265]. Bên cạnh Nỗi buồn chiến tranh được phản ánh trong tác phẩm là
nỗi buồn về tình yêu. Đỗ Đức Hiểu nhận định: “Nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn
tình yêu [20; 98] thấm vào nhau. Kiên vẫn phải sống, sống một thời hậu chiến u
buồn (nỗi buồn hậu chiến) vì một thiên mệnh mù mịt xa vời, tối tăm và đau xót,

được diễn đạt bằng đêm (“bóng đêm”, “đêm hè”, “đêm trường”... [20; 266], “Tình
yêu, chiến tranh, viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây chóng mặt,
bàng hoàng, nhức nhối. Mưa và đêm, chiến tranh và sáng tác; khủng khiếp và hồn
hoang. Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt tất cả các biến động của tiểu thuyết (mưa và
đêm) là một mối tình đau xót, kéo dài, vang vọng, âm ỉ và nổ bùng, hủy hoại tất
cả” [20; 266]. Còn Nguyễn Quang Thiều, trong tạp chí Thông tin và Văn hóa, số ra
ngày 28/10/2006, cho rằng: “Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số chung của
nhân loại - đó là câu chuyện của thân phận, của mất mát, của tình yêu và của chiến
tranh…”. Những nghiên cứu này của tác giả đã giúp chúng tôi trong việc khảo sát
so sánh và phân tích tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.
Nghiên cứu về Nỗi buồn chiến tranh ở góc độ thi pháp, tác giả Trần Quốc Huấn
trong tạp chí Văn học số 3 (1991) đã quan tâm đến thiên truyện từ điểm nhìn chiến
tranh. Tác giả viết: “Toàn bộ tác phẩm là cái nhìn ngoái lại, thờ thẫn, đăm đắm của
một người lính khi đã tàn cuộc. Cái nhìn dằng dặc, đầy phân tán nhưng không hề
lơ đãng. Điểm nhìn có góc độ rộng, song khá tập trung”. Điều này đã gợi ý cho
chúng tôi khi nghiên cứu về hai điểm nhìn
TÀI LIỆU THAM KHẢO


I. Tác giả, tác phẩm trong nƣớc
1.

Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà
Nội, Hà Nội.

2.

Nguyễn Thị Bình (2003), Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn
xuôi nước ta từ sau 1975, Văn học, (Số 4), tr.21-25.


3.

Trần Duy Châu (1994), Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh, Cộng Sản, (Số 10),
tr.54-55.

4.

Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học
minh họa, Văn nghệ, (Số 49, 50), tr.3.

5.

Hồng Chương (1962), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, Nxb
Sự thật.

6.

Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

7.

Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.

8.

Đinh Xuân Dũng (1995), Văn học Việt Nam về chiến tranh, hai giai đoạn của
sự phát triển, Văn nghệ Quân đội, (Số 7), tr.91-95.


9.

Phan Cự Đệ (1984), Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh
cách mạng, Văn nghệ quân đội, (Số 9), tr.108-113.

10. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
11. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập 1, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
12. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập 2, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
13. Nguyễn Khoa Điềm (1994), Một vài cảm nhận về đời sống văn chương hôm
nay, Văn nghệ, (Số 35), tr.5.
14. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học.


15. Hà Minh Đức (1994), Những chặng đường phát triển của văn xuôi Cách
mạng, Văn nghệ, (Số 33), tr3.
16. Hà Minh Đức (2002), Những thành tựu của Văn học Việt Nam trong thời kì
đổi mới, Nghiên cứu văn học, (Số 7), tr.21-25.
17. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Văn học, HN.
19. Đỗ Đức Hiểu (1999), Đổi mới phê bình văn học (Phê bình - Tiểu luận), Nxb
Khoa học Xã hội và Nxb Mũi Cà Mau Nxb, tr.282.
20. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn.
21. Nguyễn Hòa (2001), Tiếp tục viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực
lượng vũ trang, Văn nghệ quân đội, (Số 8), tr.3-9.
22. Nguyễn Hòa (1989), Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết về
chiến tranh, Văn nghệ, (Số 51), tr3.
23. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.

24. Bùi Thị Hợi (2011), Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi
Việt Nam thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
25. Chu Lai (1987), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn.
26. Chu Lai (1987), Vài suy nghĩ về sự thật trong chiến tranh, Văn nghệ Quân
đội, (Số 4), tr.115-117.
27.

Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh trong những tác phẩm văn chương
được giải (của Hội Nhà văn và Bộ Quốc phòng), Văn học, (Số 12), tr.14-16.

28.

Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo
dục.

29. Nguyễn Văn Long (2005), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên
cứu và giảng dạy, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.


30. Lê Lựu (2005), Thời xa vắng, Nxb Văn hóa thông tin.
31. Phương Lựu (Chủ biên) (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), Về một khuynh hướng tiểu thuyết đang phát
triển, Nhân dân, (Số ngày 27/10), tr8.
33. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau năm 1975, thử thăm dò đôi nét về quy
luật phát triển, Văn học, (Số 4), tr.21-24.
34. Vương Trí Nhàn (2007), Con người khám phá và con người thích ứng trong
Nỗi buồn chiến tranh, Nhà văn, (Số 11), tr. 113-127.
35. Trần Thị Mai Nhân (2007), Quan niệm về tiểu thuyết trong Văn học Việt
Nam giai đoạn 1986- 2000, Nghiên cứu văn học, (Số 7), tr.24-27.

36. Nhiều tác giả (2004), Văn học 1975 - 1985: Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội
Nhà văn.
37. Nhiều tác giả (2007), Văn học Việt Nam sau năm 1975, Giáo trình Trường
Đại học khoa học xã hội và nhân văn (ĐHQGHN), Hà Nội.
38. Nhiều tác giả (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
39. Bảo Ninh (2009), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.
40. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
41. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, phần 2,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
42. Trần Đình Sử (2008), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
43. Trần Đình Sử (Chủ biên) (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
44. Nguyễn Thanh Tâm (2011), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái,
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lí luận văn học, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn.


45. Bùi Việt Thắng (Tuyển chọn và biên soạn) (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb
VHTT - HN, tr.411.
46. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người, Văn
học, (Số 6), tr.25-29.
47. Bích Thu (2001), Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa văn học
nửa đầu thế kỉ, Nghiên cứu văn học, (Số 4), tr24-28.
48. Nguyễn Ngọc Thiện (1990), Tiểu thuyết hướng nội trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại, Nghiên cứu văn học, (Số 6), tr.28-34.
49. Lê Ngọc Trà (2007), Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, Nghiên cứu
văn học, (Số 1), tr.24-31.
II. Tác giả, tác phẩm nƣớc ngoài
50. Aristote, Lưu Hiệp, Nghệ thuật thơ ca, Văn tâm điêu long, Nxb Văn học, H,

1999.
51. M. Arnauđôp (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học (sách dịch), Nxb Văn
hóa, HN.
52. M.B. Khrapchenkô (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học (sách dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
53. G.N Pôxpêlôp (1998) (Chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch và giới thiệu), Nxb Giáo dục.
54. Iu.M. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia,
H.
55. L.I. Timofeep (1962), Nguyên lí văn học (sách dịch), Nxb Văn hóa - Viện
Văn học, H.

III. Tài liệu Online


56. Bảo Ninh không “đóng kịch” với đời, cập nhật
ngày 15/8/2014.
57. Nhà văn Bảo Ninh: Cái thật bao giờ cũng có sức quyến rũ,
/>
cập

nhật

ngày

7/8/2005.
58. Nhà văn Bảo Ninh: Không ai một mình làm nên hạnh phúc,
/>59. Phạm Xuân Thạch, Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời kì hậu
chiến - từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp,
/>%BB%93nchi%E1%BA%BFntranh, 2004.

60. Nguyễn Hưng Quốc, Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam,
www.tienve.org, cập nhật ngày 17/3/2003.




×