Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khảo sát sự thay đổi nghĩa từ vựng trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến
tranh”
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Ngôn
ngữ không ngừng được củng cố cùng với lịch sử phát triển của loài người. Ngữ
nghĩa học là một ngành quan trọng của ngôn ngữ học. Hiện tượng chuyển nghĩa
của từ là một hiện tượng vô cùng phong phú và phức tạp. Trong tiếng Việt, hiện
tượng chuyển nghĩa cũng đã được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu. Nhiều tác giả
như Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Đinh Trọng Lạc, Hữu Đạt,..đã có những
công trình nghiên cứu cụ thể về lĩnh vực này. Tuy nhiên cho đến nay thì đây vẫn
là vẫn đề còn gây nhiều tranh luận.
Từ đơn hoặc từ phức khi mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa biểu vật. Sau
một thời gian sử dụng, chúng có thể có thêm những nghĩa biểu vật mới. Các
nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó càng
có khả năng biến đổi. Trong sự chuyển biến ý nghĩa, có khi nghĩa biểu vật đầu
tiên còn nữa, chúng ta đã quên đi. Nhưng thường thường thì cả nghĩa đầu tiên và
các nghĩa mới đều cùng tồn tại, cùng hoạt động khiến cho những người không
chuyên từ nguyên học khó nhận biết hay khó khẳng định nghĩa nào là nghĩa gốc
của từ.
Giữa nghĩa đầu tiên với các nghĩa mới có thể diễn ra sự biến đổi theo
nghĩa móc xích: nghĩa đầu tiên chuyển sang nghĩa S1, từ S1 chuyển sang S2
chuyển sang S3...Phần lớn các trường hợp của từ chuyển biến nghĩa theo lối toả
ra tức là các nghĩa mới khi xuất hiện đều dựa vào nghĩa đầu tiên. Các nghĩa xuất
hiện sau vẫn có quan hệ với nghĩa gốc, có khi hơi mờ nhạt hay bị đứt quãng.
Lúc này từ vốn là một nhưng đã tách thành hai từ đồng âm.
Như vậy sự chuyển biến ý nghĩa cũng là một phương thức để tạo thêm từ
mới bên cạnh các phương thức ghép hoặc láy.
Các từ có nghĩa biểu vật thuộc cùng một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
niệm cùng một cấu trúc thì chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng giống
nhau. Có khi sự chuyển nghĩa theo cùng một hướng của các từ cùng một phạm
vi biểu vật bất ngờ, lắt léo nhưng khá thú vị. Cũng như qui luật về sự chi phối
của các nét nghĩa trong cấu trức biểu niệm đối với các ý nghĩa biểu vật phát triển
quanh nó.
Sự chuyển nghĩa có thể dẫn tới kết quả là ý nghĩa sau khác hẳn với nghĩa
tríc. Thậm chí ngay cùng một từ, sự chuyển nghĩa có thể khiến nó trở thành
đồng nghĩa với các từ trái nghĩa của nó trước kia.
Khi các nghĩa chuyển biến còn liên hệ với nhau thì sù chuyển nghĩa có thể
làm cho ý nghĩa của từ mở rộng ra hoặc thu hẹp lại. Nghĩa của từ mở rộng ra
nghĩa là tính khái quát của nó tăng lên, các nét nghĩa cụ thể, qui định phạm vi
biểu vật bị loại bỏ hay mờ nhạt đi. Nói cách khác thì sự mở rộng ý nghĩa là hậu
quả của hiện tượng tăng thêm các ý nghĩa biểu vật của từ.
Sự chuyển biến về nghĩa có thể làm thay đổi ý nghĩa biểu thái (nghĩa xấu
đi hay tốt lên. Ví dụ từ tếch trước kia vốn chỉ có nghĩa ra đi, không xấu cũng
không tốt. Cho tới nay thì chỉ khi nào muốn phê phán sự ra đi của ai đó thì ta
mới nói anh ta tếch thẳng.
Sự chuyển biến ý nghĩa của từ xảy ra do nhiều nguyên nhân trực tiếp và
gián tiếp, bên trong và bên ngoài khác nhau như sự phát triển không ngừng của
thực tế khác quan, nhận thức của con người thay đổi, hiện tựơng kiêng cữ, sự
phát triển và biến đổi của hệ thống ngôn ngữ,... Tuy nhiên nguyên nhân quan
trọng hơn cả là nhu cầu giao tiếp của con người. Những nhu cầu về mặt trí tuệ
và những nhu cầu về mặt tu từ buộc ngôn ngữ phải luôn thay đổi và sáng tạo để
biểu thị những sự vật, hiện tượng cùng những nhận thức mới, để thay thế cách
diễn đạt, những tên gọi cũ đã mòn, không còn khả năng gợi tả, bộc lộ cảm xúc
và gây ấn tượng sâu sắc ở người nghe nữa. Thay đổi ý nghĩa của từ có sẵn, thổi
vào chúng một luồng sinh khí mới là một biện pháp tiết kiệm, sống động, giàu
tính dân tộc, dễ dàng được sự chấp nhận của nhân dân, đáp ứng được kịp thời
nhu cầu của giao tiếp. Sự kiêng kị cũng khiến cho nghĩa của từ biến đổi.
Có nhiều cách để phân loại các từ chuyển nghĩa nhưng cỏch phõn loại
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dưới đây chỉ dùng cho nghĩa biểu vật, không áp dụng cho nghĩa biểu niệmvà
biêu thái.
Nếu phân loại theo quá trình chuyển biến tức là theo lịch sử sẽ có các
nghĩa gốc và nghĩa nhánh. Nghĩa gốc đầu tiên được gọi là nghĩa từ nguyên, là
nghĩa gốc của nghĩa nhánh
Phân loại theo khẻ năng sử dụng: có nghĩa cổ và nghĩa hiện dùng. Nghĩa
cổ là nghĩa bị loại hẳn trong giao tiếp hiện nay, thường chỉ được dùng trong
những văn bản mà tác giả có dụng ý tái hiện lại không khí cổ kính của câu
chuyện.
Theo khu vực địa lý có nghĩa địa phương và nghĩa toàn dân
Theo các lĩnh vực xã hội, có nghíc địa phương và nghĩa toàn dân
thông của từ
Cách phân loại phổ biến nhất là phân loại theo nguyên tắc đồng đại. Đối
tượng của sự phân loại là tất cả các nghĩa hiện dùng của từ, không kể đó là nghĩa
từ nguyên hay nghĩa gốc.
Còn có cách phân loại theo nghĩa chính và nghĩa phụ. Nghĩa chính của từ
có thể trùng với nghĩa từ nguyên hoặc nghĩa gốc.
2. Phương thức chuyển nghĩa từ vựng
Phương thức chuyển nghĩa phổ biến trong tất cả các ngôn ngữ trên thế
giới là ẩn dụ và hoán dụ.
Theo §ç H÷u Ch©u (1999), phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gäi
của sự vật hiện tượng này để gọi tên sự vât hiện tượng khác khi mà giữa hai sự
vật, hiện tượng có nét tương đồng. Ẩn dụ cũng được xem là so sánh trong đó sự
vật so sánh bị ẩn đi. Còn hoán dụ là phương thức lấy tên gọi của sự vật hiện
tượng này để gọi tên sự vật hiện tượng khác nếu hai sự vật hiện tượng đi đôi với
nhau trong thực tế.
Trong trường hợp ẩn dụ, hai sự vật hiện tượng được gọi tên không có liên
hệ khách quan, chúng thuộc những phạm trù hoàn toàn khác hẳn nhau. Sự
chuyển tên gọi diễn ra tuỳ thuộc vào nhận thức có tính chủ quan của con người
về sự giống nhau giữa chúng. Còn mối quan hệ đi đôi với nhau giữa hai sự vật
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện tượng trong hoán dụ là có thật, không tuỳ thuộc vào nhận thức của con
người. Do vậy các hoán dụ có tính khách quan hơn các ẩn dụ..
Các ý nghĩa biểu vật tuy bắt nguồn từ thực tế khách quan nhưng là những
sự kiện ngôn ngữ, trong đó ẩn dụ hay hoán dụ là sự chuyển ý nghĩa từ từ ý nghĩa
biểu vật này sang ý nghĩa biểu vật khác, cho nên ẩn dụ và hoán dụ cũng là
những sự kiện ngôn ngữ. Giữa các ý biểu vật có sự đồng nhất với nhau ở nét
nghĩa cơ sở trong cấu trúc biểu hiện trung tâm của chúng. Các trong cùng phạm
vi biểu vật thì thường chuyển biến ý nghĩa cùng một hướng. Bới vậy sự giống
nhau hoặc sự đi đôi với nhau có thực trong thực tế khách quan chỉ trở thành cơ
sở cho ẩn dụ hay hoán dụ của một ngôn ngữ nào đó khi chúng phù hợp với
hướng chung của các từ cùng nghĩa biểu vật, khi chúng phù hợp với những nét
cơ sở chung cho các nghĩa.
Ẩn dụ và hoán dụ của một ngôn ngữ không phải là hiện tượng ngẫu
nhiên, chỉ bị chi phối bởi qui luật nhận thức mà trước hết là những hiện
tượng ngôn ngữ. Chính vì vậy các nghĩa ẩn dụ và hoán dụ và nghĩa mới
của từ có tính dân tộc sâu sắc. Chúng vừa là kết quả của cách tiếp cận
thực tế của dân tộc, vừa là kết quả của những qui luật điều khiển sự tạo
nghĩa mới cho từ.
II. KHẢO SÁT SỰ THAY ĐỔI NGHĨA TỪ VỰNG TRONG NỖI BUỒN
CHIẾN TRANH - BẢO NINH ( từ trang 187- 212)
Nối buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của nhà văn Bảo
Ninh. Đây là một cuộc hành trình không ngưng nghỉ trở về quá khứ với hình
bóng của những con người tàn tích của thời thuộc địa - thế hệ cha mẹ anh - và
tuổi trẻ buồn bã, đau thương, trong trẻo và cực độ anh hùng của chính tác giả
trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã
viết trong TT&VH số ra 28-10-06: “Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số
chung của nhân loại - đó là câu chuyện của thân phận của mất mát của tình yêu
và chiến tranh…Chỉ có những tác phẩm như vậy mới thực sự được đón nhận và
sẻ chia”.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng liệt kê những từ chuyển nghĩa được khảo sát trong tác phẩm "Nỗi
buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh
Từ
khảo
sát
Nghĩa cơ bản Nghĩa sử dụng trong tác phẩm
bút đồ vật dùng để viết chỉ người sử dụng, chỉ năng lực
của người viết: bút lực,..
phi ngựa chạy nước kiệu, chạy rất
nhanh
chỉ người đi hoặc chạy rất nhanh:
phi về nhà
đầy chỉ chất lỏng lên đến tận miệng
vật chứa nó như “cốc nước đầy”
chỉ nơi có rất nhiều thứ gì đó:thóc
đầy bồ, trẻ đầy sân,..
trời thường là danh từ chỉ nơi ở phía
trên cao và xa so với mặt đất
dùng như một phụ từ tạo cảm giác
về thời gian dài:cả tháng trời, cả
năm trời,..
cánh cánh là bộ phận của những con
vật có thể bay được như cánh gà,
cánh vịt,..
là một phần của cái cửa, phần có
thể di chuyển để đóng hay mở
cửa.
khoá: nghĩa gốc là cái khoá, là danh từ. Nghĩa phái sinh được sử dụng ở
đây là động từ khoá:khoá cửa,...
dòng nghĩa gốc là “dòng sông, dòng
nước” chỉ luồng nước chảy
Nghĩa ở đây dùng là “dòng chữ”,
chỉ một hàng dài nhiều chữ liên
tiếp trên một đường thẳng.
nhạt nghĩa cơ bản là cảm nhận của vị
giác con ngưnhạ ời, chỉ thức ăn
ít muối như: canh nhạt,..
ở đây dùng với nghĩa là màu đã
không còn rõ nét, gần như không
còn nhiều.
ném
hành động của con người cầm
vật gì đó vứt ra xa so với vị trí
đứng của mình theo chiều ngang
.ở đây dùng với nghĩa máy bay
thả bom xuống đất, nghĩa là miêu
tả hành động thả một vật từ trên
xuống.
lặng chỉ mặt nước phẳng không có ở đây dùng nghĩa là không có