Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

“ Sưu tầm một ví dụ thực tiễn về giao dịch dân sự có yếu tố giả tạo và bình luận về hướng giải quyết vụ việc đó trên có sở pháp luật Việt Nam hiện hành’’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.42 KB, 14 trang )

MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
Giao dịch dân sự có một quá trình phát triển không ngừng theo trình độ văn
minh của loài người. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở nước ta phát sinh nhiều loại hình giao dịch mà pháp luật dân sự phải
từng bước hệ thống hóa bằng các quy định cụ thể. Có thể khẳng định rằng, giao
dịch dân sự là loại quan hệ có tính chất phổ biết, được áp dụng rộng rãi nhất trong
giao lưu dân sự. Hiện nay, bộ luật dân sự đã phần nào đáp ứng được yêu cầu nhu
cầu của cuộc sống và thỏa mãn các điều kiện vật chất, tinh thần hàng ngày của các
chủ thể. Tuy nhiên việc giao lưu dân sự trong thực tế là rất phức tạp, cho nên
không thể tránh khỏi những trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu, mà trong đó
giao dịch dân sự vô hiệu có yếu tố giả tạo chiếm tỷ lệ không nhỏ. Chính vì vậy
nhóm chúng tôi xin được “ Sưu tầm một ví dụ thực tiễn về giao dịch dân sự có
yếu tố giả tạo và bình luận về hướng giải quyết vụ việc đó trên có sở pháp luật
Việt Nam hiện hành’’

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung về giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự
a. Khái niệm
Khái niệm về giao dịch dân sự được thể hiện tại Điều 121 Bộ Luật Dân sự
năm 2005, giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Như vậy, giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý ( hành vi pháp lý đơn
phương hoặc đa phương - một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lí.


Tùy từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
dân sự.


b. Phân loại
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại giao dịch dân sự, việc phân loại
giao dịch dân sự có những ý nghĩa nhất định về mặt lí luận cũng như về mặt thực
tiễn.
-Căn cứ vào sự thể hiện ý chí của chủ thể trong việc xác lập GDDS thì
GDDS được chia thành GDDS được xác lập theo ý chí của một phía chủ thể (hành
vì pháp lý đơn phương) và GDDS được xác lập theo lý trí của nhiều chủ thể (hợp
đồng …)
-Căn cứ vào sự tự nguyện của chủ thể tham gia GDDS thì GDDS được chia
thành GDDS được phát sinh theo ý chí của chủ thể tham gia giao dịch và GDDS
được phát sinh theo ý chí của nhà nước.
-Căn cứ vào hậu quả pháp lý của GDDS được xác lập thì GDDS được chia
thành GDDS có hậu quả làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, GDDS có hậu
quả làm thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự và GDDS có hậu quả làm chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ dân sự.
-Căn cứ vào hình thức thể hiện của GDDS thì GDDS được thể hiện dưới
hình thức lời nói, GDDS thể hiện dưới hình thức văn bản và GDDS thể hiện dưới
hình thức hành vi cụ thể.
Ngoài những trường hợp trên, tại khoản 1 Điều 125 BLDS năm 2005 còn
quy định về GDDS có điều kiện “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều
kiện phát sinh hoặc hủy bỏ GDDS thì khi điều kiện đó xảy ra, GDDS phát sinh
hoặc hủy bỏ”. GDDS có điều kiện cũng tương đối phổ biến và được chủ thể áp
dụng để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của mình.


c. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
BLDS năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của GDDS tại điều 122.
GDDS có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
-Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự. Tức là, người tham
gia giao dịch phải có khả năng bằng hành vi của mình xác lập thực hiện quyền và

nghĩa vụ dân sự.
-Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội. Các giao dịch có mục đích vi phạm điều cấm của pháp
luật (buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em …) hay trái với đạo đức xã hội đều
bị vô hiệu, các bên tham gia giao dịch nói trên đều phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi của mình.
-Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, không bên nào trong giao
dịch dân sự và không ai được ép buộc, lừa dối bên nào khi tham gia giao dịch.
Ngoài ba điều kiện cơ bản trên, BLDS còn quy định một điều kiện ngoại lệ
liên quan đến hình thức của giao dịch dân sự. Nếu pháp luật có quy định hình thức
của giao dịch phải tuân theo những yêu cầu nhất định, thì nếu giao dịch không tuân
theo các quy định về hình thức sẽ bị vô hiệu.
Tóm lại, điều kiện bắt buộc để giao dịch có hiệu lực chỉ phụ thuộc vào một
số yếu tố liên quan đến nội dung: ý chí tự nguyện của các bên tham gia, đối tượng,
nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo
đức xã hội.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
a. Giao dịch dân sự vô hiệu


Điều 122 BLDS năm 2005 quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự. Như vậy, một giao dịch dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý phải
thỏa mãn tất cả những điều kiện này. Điều 127 BLDS năm 2005 quy định “Giao
dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ
luật này thì vô hiệu.”
Qua đó, chúng ta có thể rút ra khái niệm về giao dịch dân sự vô hiệu là giao
dịch dân sự không thỏa mãn một trong các hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp
luật quy định.
Có thể phân loại GDDS theo hai cách:
Cách thứ nhất là căn cứ vào mức độ vi phạm đối với từng giao dịch thì giao

dịch dân sự vô hiệu chia làm hai loại là Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ và GDDS
vô hiệu một phần.
-Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ trong các trường hợp sau:
+Giao dịch dân sự do vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội (Điều 128 BLDS
năm 2005)
+Giao dịch dân sự do thiếu tính tự nguyện của chủ thể tham gia giao dịch,
như: Giao dịch dân sự do bị lừa dối, đe dọa, Giao dịch dân sự giả tạo hay nhầm lẫn
+Giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập
+Giao dịch dân sự do người xác lập không nhận thức được hành vi của
mình.
-Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần


Cách thứ hai là căn cứ vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không nghiêm
trọng thì giao dịch dân sự được chia thành giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và
giao dịch dân sự vô hiệu tương đối.
-Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối khi
+Nội dung, mực đích vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
+Khi giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che dấu một giao
dịch khác
-Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối khi
+Giao dịch dân sự được xác lập bởi người chưa thành niên, người bị mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, gioa dịch do
người không nhận thức được hành vi của mình xác lập
+Giao dịch dân sự do nhầm lẫn, đe dọa, lừa dối
+Giao dịch dân sự vi phạm về điều kiện hình thức
b. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Theo nghĩa thông thường , “giả tạo” là không thật, không tự nhiên. Sự thể
hiện ý chí giả tạo là sự thể hiện ý chí khác với ý chí nội tâm đối với kết quả, pháp

luật dân sự các nước đều coi GDDS xác lập do giả tạo là vô hiệu bởi chủ thể cố ý
bày tỏ ý chí không đúng với ý chí thực của họ. Cổ luật Việt Nam sử dụng thuật
ngữ “giả trang” nhưng thực tế hiện nay không có điều luật định nghĩa về giả tạo,
tại điều 129 BLDS 2005 chỉ quy định: “khi các bên xác lập giao dịch dân sự một
cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân giả tạo vô
hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng
vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”


Xét việc xác lập GDDS giả tạo, ý chí được bày tỏ của các bên trong GDDS
giả tạo là hoàn toàn không thật, không đúng với ý chí nội tâm của chủ thể. Sự khác
nhau đó không giống với sự sai khác giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể bị
nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa. Không do hành vi có lỗi của bên đối tác tác động mà chủ
thể trong GDDS giả tạo tự bản thân chủ động bày tỏ ý chí sai khác đi để thực hiện
“gian ý” của mình. Gian ý đó có thể là trốn tránh nghĩa vụ trước nhà nước (như
trốn thuế, tẩu tán tài sản bị tịch thu…), trốn tránh nghĩa vụ trước bên có quyền
(như nghĩa vụ chuyển giao tài sản, trả nợ). Trong GDDS giả tạo, lợi ích có thể bị
xâm hại là lợi ích của người thứ ba có liên quan chứ không phải bên chủ thể nào.
Do đó, nó có quy chế xử lý khác biệt – giao dịch vô hiệu tuyệt đối –mặc nhiên bị
vô hiệu ngay từ thời điểm xác lập, tuyên bố của toàn án có giá trị xác nhận sự vô
hiệu đó cụ thể như sau:
+ Thời hiệu yêu cầu tòa án GDDS vô hiệu do giả tạo: Điều 12 BLDS 2005
quy định: “giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực”.
Khoản 2 điều 136 BLDS 2005 quy định: “đối với giao dịch dân sự quy định tại
điều 128 và 129 bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu
không bị hạn chế”. Quy định như vậy vì nhằm trốn tránh nghĩa vụ chủ thể có thể
coi là một sự vi phạm quy định pháp luật. Về nguyên tắc, thời gian không thể làm
một GDDS vi phạm pháp luật trở thành có hiệu lực.
+ Người có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu do giả tạo. Cả chủ

thể của giao dịch, cả người thứ ba có liên quan đều có quyền yêu cầu chứ không
phải chỉ có một bên chủ thể như các trường hợp nghiên cứu khác.
Pháp luật đã mở rộng hết mức phạm vi thời gian, chủ thể có quyền yêu cầu
tòa án tuyên bố GDDS giả tạo vô hiệu. Ở Pháp, đối với các bên chủ thể thì hoạt
động dân sự biểu hiên ý chí thực – hợp đồng dân sự bị che giấu có giá trị, người
thứ ba có quyền viện dẫn bất kì giao dịch nào tùy theo lợi ích của họ. Ở Đức, giao


dịch giả tạo bên ngoài không có giá trị ngay cả đối với người thứ ba, chỉ có hợp
đồng che dấu có giá trị. Đối với Việt Nam, GDDS giả tạo bị vô hiệu có thể không
ảnh hưởng đến hiệu lực của GDDS che giấu.
II. Vụ việc thực tiễn về giao dịch dân sự bị vô hiệu do có yếu tố giả tạo,
bình luận hướng giải quyết
1. Tóm tắt tình huống
Vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên
đơn là anh Nguyễn Văn Hậu sinh năm 1974. Trú tại xóm Tràng Chũng, xã Dương
Liễu, Hoài Đức, TP Hà Nội và bị đơn là ông Uông Văn Quyết – SN 1942 và bà
Đinh Thị Thiển- SN 1955.Trú tại Cụm 8, Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Thành phố
Hà Nội.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan
1. Anh Nguyễn Văn Chiến- SN 1972
Trú tại: Cụm 2, Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
2. Chị Uông Thị Ngấn – SN 1979
Trú tại: Cụm 1, Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội
3. Chị Uông Thị Ngân- SN1977
Trú tại: Cụm 8, Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội
4. ChịUông Thị Thuỷ - SN 1974
Trú tại : Số 14, tổ 16 phường Dịch Vọng, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
5. Chị Uông Thị Phấn – SN 1982
Trú tại: Cụm 8, Hạ Mỗ, Huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

Nội dung diễn biến vụ việc như sau:


Ngày 15/07/2011 chị Uông Thị Ngấn là con gái ông Uông Văn Quyết và bà
Đinh Thị Thiển đến văn phòng của anh Nguyễn Duy Hậu để vay 1,1 tỉ đồng đầu tư
cho công ty, hẹn 10 ngày sau sẽ trả. Anh Hậu đồng ý cho vay với điều kiện chị
Ngấn phải có tài sản đảm bảo. Chị Ngấn đã mời anh Hậu đến gặp ông Quyết và bà
Thiển trao đổi. Hai ông bà đã đồng ý làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của ông bà cho anh thì anh mới cho chị Ngấn vay tiền. Ngày 6/7/2011 hai ông
bà đến văn phòng công chứng Từ Liêm để làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất ở
số 314 A tờ bản đồ số 4 trên đó có 3 gian nhà diện tích 233 m 2 tại cụm 8, Hạ Mỗ,
huyện Đan Phượng, Thành Phố Hà Nội với giá 1,1 tỉ đồng cho anh. Sau khi làm
thủ tục công chứng ông Quyết và chị Ngấn đến văn phòng của anh để nhận tiền, tại
đây anh đưa cho ông Quyết số tiền 1,1 tỉ đồng và ông Quyết đã ký vào hợp đồng
mua bán nhà đất ngày 16/7/2011 và cho gia hạn nợ hợp đồng trong 2 tháng, đến
ngày 16/09/2011 nếu ông Quyết và chị Ngấn không trả được nợ thì hợp đồng sẽ có
hiệu lực pháp luật. Đến thời hạn trả nợ ông Quyết và chị Ngấn không trả anh Hậu
đã làm đơn yêu cầu UBND xã giải quyết. Tại UBND xã ông Quyết và bà Thiền đã
đồng ý sẽ trả anh 1,3 tỉ đồng nhưng sau đó lại không thực hiện. Nay anh yêu cầu
hai ông bà phải thanh toán cho anh tiền gốc và tiền lãi là 1.514.500.000 nếu ông bà
không thanh toán thì phải tiếp tục hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dung đất.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Quyết bà Thiển và một số người có quyền và
nghĩa vụ liên quan có lời khai.
Ông Quyết bà Thiển khai: khoản tiền chị Ngấn vay anh Hậu thì chị Ngấn
sẽ phải trả, còn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do ông Quyết bà
Thiển và anh Hậu sẽ được thanh lý và huỷ hợp đồng khi chị Ngấn trả hết tiền cho
anh Hậu, số tiền phải trả bao nhiêu do anh Hậu và chị Ngấn thoả thuận.
Chị Ngấn khai: chị bảo bố mẹ chị phải ký hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng thửa đất ở số 314 A tờ bản đồ số 4 trên đó có 3 căn nhà diện tích 233 m2



tại cụm 8, Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội cho anh Hậu thì chị mới
được vay tiền của anh Hậu. Nay anh Hậu kiện ông Quyết bà Thiển yêu cầu tiếp tục
thực hiện hợp đồng chuyển nhượng thì chị không đồng ý.
Anh Chiến , chị Ngân, chị Thuỷ, chị Ngấn có lời khai: các anh chị không
biết việc ông Quyết bà Thiển chị Ngấn làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
đât để vay tiền anh Hậu. Khi hai ông bà xây nhà các anh chị có đóng góp tiền xây
dựng. Các anh chị không đồng ý việc ông Quyết bà Thiển chuyển quyền sử dụng
nhà đất cho anh Hậu.
Theo bản án sơ thẩm số 07/2013/DSST ngày 28 tháng 08 năm 2013, toà án
nhân dân huyện Đan Phượng đã quyết định xử như sau:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quyết bà
Thiển và anh Hậu là hợp pháp. Buôc ông Quyết bà Thiển phải thực hiện nốt hợp
đồng chuyển nhượng đất và các tải sản trên thửa đất số 314A tờ bản đồ số 4 tại
cụm 8, Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội cho anh Hậu.
- Buộc hai bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hoàn tất thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 09/09/2013 ông Quyết kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm đề nghị huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giải quyết
hậu quả của hợp đồng bị vô hiệu.
2. Bình luận về hướng giải quyết


Theo chúng tôi, tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Quyết bà Thiển và anh Hậu là hợp pháp theo điều 697,
698, 699, 700, 701, 702 Bộ luật Dân sự, điểm b khoản 2 điều 243, điều 245 của Bộ
luật Tố tụng Dân sự là không đúng với quy định của pháp luật. Việc ông Quyết

kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và giải quyết hậu quả của hợp đồng bị vô hiệu là có căn cứ bởi các lẽ
sau :
Thứ nhất: Trong vụ án này các bên trong giao dịch cho vay tiền muốn xác
lập hợp đồng thế chấp tài sản, tài sản được thế chấp là quyền sử dụng đất. Vậy hợp
đồng mà các bên phải hướng đến là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất theo
Điều 715 BLDS “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các
bên, theo đó bên sử dụng đất (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng quyền sử dụng
đất của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên kia (sau đây gọi
là bên nhận thế chấp). Bên thế chấp được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế
chấp” Vậy hợp đồng thế chấp là hợp đồng mà các bên phải hướng đến trong giao
dịch này bên cạnh hợp đồng cho vay đúng như ý chí mà các bên mong muốn.
Thứ hai: Trong vụ án này các bên đã lựa chọn hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất để nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình, bản chất
của hợp đồng chuyền quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên theo Điều
428 BLDS về hợp đồng mua bán tài sản “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả
thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận
tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Suy luận ra,
các bên đã xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để che đậy một
giao dịch khác là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
Như vậy thực chất không có việc mua bán nhà đất, việc ký kết hợp đồng
chuyển nhượng là để đảm bảo cho khoản vay của chị Ngấn - con ông Quyết bà


Thiển. Nếu chị Ngấn, ông Quyết trả hết tiền thì hợp đồng mua bán sẽ được huỷ bỏ.
Như vậy bản chất của sự việc là vay tiền có thế chấp nhưng các bên không thực
hiện việc thế chấp tài sản mà thay bằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 16/7/2011 là không đúng với quy định của pháp luật. Các bên đã xác lập
giao dịch một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo
bị vô hiệu theo quy định trong điều 129 Bộ luật Dân sự.

Do hợp đồng bị xác định là vô hiệu nên cần huỷ bản án sơ thẩm để cấp sơ
thẩm giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, bảo đảm hai cấp xét xử. Tuy nhiên
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất trong vụ việc này vẫn có hiệu lực pháp luật.
Khoản 2, Điều 137 Bộ luật Dân sự quy định: “ Khi giao dịch dân sự vô hiệu
thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận;
nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp
tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Như vậy nếu hợp đồng bị tuyên vô hiệu
thì bên chuyển nhượng trả lại tiền cho bên nhận chuyển nhượng và ngược lại bên
nhận chuyển nhượng sẽ trả lại đất cho bên chuyển nhượng đồng thời, theo như
nguyên văn điều luật thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong thực tiễn việc giải quyết dân sự vô hiệu hiện nay cho thấy: khi các bên
tham gia giao dịch, thông thường các chủ thể không nắm được những quy định của
pháp luật mà chủ yếu là giao dịch dưới dạng tự phát, ý thức tìm hiểu và tuân thủ
pháp luật chưa cao dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay từ thời điểm ký kết mà các
bên vẫn thực hiện, khi có tranh chấp xảy ra mới yêu cầu hủy. Khi giải quyết sự
việc đã rồi, một số Thẩm phán thường lúng túng, cân nhắc có nên hủy hay không


hủy giao dịch dân sự vô hiệu, nhiều khi phán quyết của tòa không mang lại công
bằng cho các đương sự. Vì thế mà nhiều khi đương sự đã lợi dụng kẽ hở của pháp
luật để nhằm chuộc lợi cho mình, đây cũng là một bài học kinh nghiệm về việc
thiếu hiểu biết pháp luật của các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1 – ĐH Luật Hà Nội – Nxb Công an
nhân dân /2013

2. Giáo trình luật dân sự Việt Nam (phần chung) – ĐH Quốc gia Hà Nội Khoa
Luật – Bùi T. Thanh Hằng – Nxb ĐHQGHN /2002
3. Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1 – TS. Lê Đình Nghị - Nxb Giáo dục
Quốc Gia /2009
4. Bình luận những nội dung mới của Bộ Luật Dân sự năm 2005 – TS. Đinh
Trung Tụng – Nxb Tư pháp /2005
5. Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam 2005. NXB Lao Động.
6. TS. Phạm Văn Tuyết "Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia giao dịch
dân sự" Tạp chí Luật học số 2/2004
7. Nguyễn Văn Cương "Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu " Luận án Tiến sĩ luật học
8. Hoàng Thị Hưng "Một số vấn đề về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân
sự " Luận văn tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội
9. Hà Thị Thanh Hương "Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu" luận văn tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội



×