Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận cao học xây dựng đảng phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.85 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhờ có
đường lối đúng đắn và sự nhiệt tình hưởng ứng của nhân dân mà đất nước ta
đã có nhiều bước tiến quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Kinh tế tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao, chính trị được ổn định, nhiều
mặt của đời sống xã hội được lành mạnh hóa. Đất nước thoát khỏi sự khủng
hưởng về kinh tế và đã đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được trong quá trình đổi mới,
những năm gần đây, do tác động của các nguyên nhân khách quan và chủ
quan, một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống làm ảnh hưởng đến uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên còn diễn ra nghiêm trọng...”.
Tình trạng đó đang có tác động tiêu cực tới công cuộc đổi mới ở nước
ta, để có một quan niệm đúng đắn về chính trị, về tư tưởng chính trị, về suy
thoái tư tưởng chính trị và tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
phẩm chất chính trị của toàn dân nói chung, của cán bộ, đảng viên nói riêng
trở thành đòi hỏi bức thiết của cuộc sống hiện nay.
Suy thoái về tư tưởng chính trị diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều
lĩnh vực với phạm vi rộng và tính chất phức tạp làm giảm lòng tin của nhân
dân. Có thể nói rằng, tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị hiện nay ở một bộ
phận đảng viên làm cho lòng dân không yên, đe dọa sự tồn vong của Đảng,
chế độ ta. Do vậy phòng chống, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị
của một bộ phận cán bộ đảng viên là cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, nhân dân Việt Nam.
1



Đảng ta và Hồ Chí Minh lãnh tụ thiên tài của dân tộc luôn chăm lo giáo
dục những phẩm chất chính trị cho các thế hệ trẻ Việt Nam. Với Hồ Chí
Minh đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà được hình thành, phát triển củng cố, cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Đó không chỉ là
nguyên tắc chân lý, lý luận mà còn là định hướng cho hoạt động thực tiễn,
xây dựng Đảng ngang tầm thời đại, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
của cách mạng nước ta.
Với quá trình học tập và nghiên cứu. Học viên nhận thấy cần tầm quan
trọng của công tác xây dựng đảng về chính trị và tư tưởng nên học viên đã
mạnh dạn chọn đề tài “Phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị trong
cán bộ đảng viên” làm tiểu luận nghiên cứu mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Khái quát cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn vấn đề suy thoái về tư tưởng
chính trị. Từ đó nhằm đưa ra những giải pháp để khắc phục sự suy thoái về tư
tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề chung về suy thoái tư tưởng chính trị của
cán bộ đảng viên.
Phân tích thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ đảng
viên.
Đề xuất một số giải pháp khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị
của cán bộ đảng viên.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng. Ngoài ra
2



dựa trên môn khoa học Cơ sở lý luận công tác tư tưởng và một số bài viết
đăng trên tạp chí và các báo.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp như: thống kê,
phân tích, điều tra, tổng hợp, tiếp cận thu thập thông tin…
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài gồm 2 chương

3


NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG
BIỂU HIỆNCỦA SỰ SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm về sự suy thoái tư tưởng chính trị
Theo từ điển tiếng Việt thì suy thoái là ở tình trạng suy yếu và kém sút
dần, có tính chất kéo dài. Như vậy có nghĩa là suy thoái tình trạng giảm sút,
sút kém dần những phẩm chất, chất lượng so với những chuẩn mực tốt nhất
đã đạt được. Sự suy thoái ít khi lên “cơn cấp tính” mà thường diễn ra từ từ,
thầm lặng, trong một quá trình lâu dài nên không dễ biết. Suy thoái thường
xảy ra từ một hoặc vài bộ phận, từ một nhóm người nào đó rồi lan dần ra, kéo
bộ phận khác suy yếu theo. Do vậy suy thoái là quá trình biến đổi ngày càng
xấu đi về lượng, từ từ dẫn đến sự biến đổi về chất, là sự biến mất, tan rã,
chuyển hóa từ chất này sang chất khác theo chiều hướng ngày càng xấu hơn.
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII nhận định:
“Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí

của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng
hơn”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nhận định:
“Tình trạng tham nhũng, thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”. Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa IX tiếp tục cho rằng: “Sự suy thoái về nhận
thức, tư tưởng chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa
được ngăn chặn”. Và đến Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định:
“Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội,
chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”.
1.2. Những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị
Trong thời kỳ đổi mới, do tác động của nhiều nhân tố khách quan và
chủ quan, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
4


một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp. Tại Hội nghị
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng đã chỉ ra những biểu
hiện của thực trạng này và coi đó là một trong bốn nguy cơ cần quan tâm đấu
tranh phòng, chống. Các đại hội VIII, IX, X và nhiều hội nghị Trung ương các
khóa VIII, IX, X tiếp tục đánh giá thực trạng và diễn biến của suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên; xác định việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái này là nhiệm vụ
vừa cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng, đặc biệt Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI) nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó
có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng

phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”. Tình trạng này “... làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”2. Do vậy, Trung ương yêu
cầu phải “… kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân
đối với Đảng”.
Trong nội dung Nghị quyết 04 -NQ/TW khóa XII đã chỉ rõ biểu hiện
suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng - chính trị, đạo đức - lối sống, và những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Theo đó suy thoái về tư
tưởng - chính trị bao gồm:
1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
5


2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan
điểm sai trái.
3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học
tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút
ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm,
thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém
hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức
trách, nhiệm vụ được giao.

5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm;
khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong
phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy
sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu
khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không
trong sáng.
6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói
một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói
và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.
7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập,
lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức;
kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ,
bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm
chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín
nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.
6


9) Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề
ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người
quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.

7


Chương 2:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC SỰ SUY

THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG - CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ
ĐẢNG VIÊN
2.1. Thực trạng
Nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu,
trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, hơn 86 năm qua Đảng ta luôn giữ vững
bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Dưới sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ
đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao
vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước
ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực
phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy
sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng
ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ
vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân
tộc Việt Nam anh hùng.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng đã
tạo được những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị. Quá trình tự
phê bình và phê bình đã góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai
trái nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham
8



nhũng, tiêu cực. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được
phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, được
nhân dân đồng tình, ủng hộ. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" đạt được một số kết quả; tích cực
đấu tranh phòng, chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Những
kết quả đó đã góp phần quan trọng vào thành công của đại hội đảng bộ các
cấp, Đại hội XII của Đảng và bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV, đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng
dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng
yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu
quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn
thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý
cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người
đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu,
cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái. Thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề
ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng
nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận
khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Việc phân
định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với
tập thể cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng. Tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn;
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng
viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết
nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn
9



kinh tế, tổng công ty. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận
thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai
trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất
mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó,
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường,
có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại
lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của
Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
2.2. Nguyên nhân
Tình hình trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó,
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
a) Nguyên nhân khách quan:
Tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh
tế thị trường, những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ
thông tin, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh
từ thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả.
Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "diễn
biến hoà bình", lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn
giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo
tình hình; cổ suý cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ
nghĩa; đồng thời, cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt

động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.
10


b) Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận
cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu
tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao
động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp
hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận
của mình trước Đảng, trước dân.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết
của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương
pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao
trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" và những hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi
bộ ở nhiều nơi còn hình thức, đơn điệu. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế. Chưa chú
trọng xây dựng, tuyên truyền, nhân rộng những mô hình mới, điển hình tiên
tiến, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực.
Một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát
thực tiễn, thiếu tính khả thi và thiếu chế tài xử lý. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng,
người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hoá các
nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa
phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ
lại cấp trên; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ
cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu. Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm
còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng

những tập thể, cá nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và
xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không
nghiêm túc.
11


Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích
ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời. Tổ
chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả.
Cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu cơ
chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng
lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa,
đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Chậm ban hành quy định xử lý tổ
chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".
Đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ. Một số cơ chế,
chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng; chính sách tiền
lương, nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho cán bộ, công chức.
Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu
hiện "nhẹ trên, nặng dưới". Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt
chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự
phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ
người đấu tranh phê bình. Sự phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ,
xử lý chưa đủ nghiêm minh. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí chưa đạt yêu cầu; việc kê khai tài sản, thu nhập còn hình thức.
Chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội
phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ
mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất

mãn chính trị.
Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn
chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong cán bộ, đảng viên còn
hạn chế, hiệu quả chưa cao.
12


2.3. Các giải pháp khắc phục sự suy thoái Tư tưởng - Chính trị của
một số bộ phận Đảng viên
Trong mối quan hệ giữa nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì nguyên nhân chủ
quan, bên trong giữ vai trò quyết định sự phát triển của mọi sự vật. Do đó,
việc tăng cường công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là
về chính trị, tư tưởng, tổ chức là tất yếu khách quan trong nhiệm vụ đấu tranh
chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị.
Nguyên nhân trực tiếp, căn bản dẫn đến chính biến tại Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu là do đảng cầm quyền tại các nước này đã không làm
tốt công tác xây dựng Đảng, đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ; buông
lỏng sự lãnh đạo chính trị, tư tưởng của Đảng; nội bộ Đảng có sự thoái hoá,
biến chất nghiêm trọng; việc lựa chọn những người kế tục sự nghiệp cách
mạng không chính xác...
Các thế lực thù địch xác định chống phá về chính trị, tư tưởng, tổ chức
là nội dung trọng tâm, là khâu quan trọng hàng đầu trong việc chống suy thoái
về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp. Đảng ta đã chỉ rõ: “Hết sức chú
trọng công tác bảo vệ Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức” mà để làm
được điều đó, thì trước tiên phải thanh lọc những cán bộ, đảng viên trong
Đảng. Một số giải pháp chúng ta cần thực hiện nhằm khắc phục sự suy thoái

về tư tưởng chính trị của một một bộ phận cán bộ, đảng viên như:
2.3.1 Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, vận dụng sáng
tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên.
Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tự giác, tích cực học tập, không ngừng
nâng cao trình độ mọi mặt, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, tư cách
người đảng viên. “Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt, phải
13


có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị... Lười
học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới,
những hiểu biết mới, cũng là biểu hiện của sự thoái của Đảng, pháp luật chính
sách của Nhà nước.
Tăng cường giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên, cán bộ chủ chốt
các cấp, các ngành, bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực
vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự thống nhất
cao trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng nội bộ vững mạnh, củng
cố vững chắc bên trong là chính, lấy “thế trận lòng dân” làm nền tảng.
Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị, cơ quan, đoàn thể cần chủ
động triển khai có hiệu quả đấu tranh trực tiếp trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Sử dụng và phát huy hiệu quả các phương tiện của công tác tư tưởng đấu
tranh phê phán những quan điểm tư tưởng, lý luận phản động, sai trái của các
thế lực thù địch, không để lây lan và tác động xấu trong xã hội.
Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn hoạt động tập hợp lực lượng, móc nối
trong ngoài, không để công khai hoá, quốc tế hoá các tổ chức chính trị đối lập
trong nước chống Đảng, Nhà nước.
2.3.2. Triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng,

chỉnh đốn Đảng
Thường xuyên quan tâm xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, chấp hành nghiêm
nguyên tắc tập trung dân chủ, xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, nâng cao chất lượng sinh hoạt, học
tập của các tổ chức đảng ở cơ sở, tăng cường tính chiến đấu của tổ chức đảng
và đảng viên. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội, nhất là
kỷ luật phát ngôn. Có biện pháp kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
14


trong xã hội. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, loại bỏ tư tưởng cơ hội,
thực dụng, tình trạng thoái hoá biến chất trong Đảng, lối sống thực dụng trong
một bộ phận cán bộ có chức, có quyền, có tiền, những hình ảnh xấu về người
cán bộ cách mạng trong nhân dân, tác động tiêu cực đến sự đồng thuận về tư
tưởng trong xã hội.
2.3.3. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đấu tranh có hiệu
quả với những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một
bộ phận cán bộ đảng viên
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc hoạch định các chủ
trương, đường lối; xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt chính sách
dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục, phổ biến pháp luật, phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị
trong hệ thống chính trị và xã hội. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, xây dựng các thiết chế tuyên truyền vận động, tạo điều kiện cho nhân dân
thực hiện quyền và nghĩa vụ trong phát triển sản xuất, tổ chức đời sống, tham
gia xây dựng Đảng, kiểm tra, giám sát cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên,
phát hiện và đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị.
Mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Chủ

động, kịp thời cung cấp, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân
chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối. Chủ động có các phương án ngăn
chặn và làm thất bại âm mưu lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”,
“tôn giáo”, “dân tộc” để gây rối chính trị của các thế lực thù địch.
Củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng với các tổ chức thành viên, thực sự phát huy vai trò là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân, là nơi phối hợp hành động của các tầng lớp
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia
với Đảng và Nhà nước thực hiện quyền dân chủ, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính
đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính
15


quyền, thực hiện giám sát của nhân dân đối với hoạt động, lối sống của cán
bộ, đảng viên và các cơ quan Nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quan hệ của các tổ
chức đảng với tổ chức Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý điều hành của Nhà nước, thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2.3.4. Đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ
“tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên
Ở đây hiểu “tự diễn biến” là khái niệm chỉ sự vận động bên trong của
mọi sự vật, hiện tượng. “Tự diễn biến” có thể xảy ra trên các mặt tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống. Quan trọng nhất là phải phòng, chống nguy cơ “tự
diễn biến” về tư tưởng chính trị. Song không coi nhẹ mặt đạo đức, lối sống.
Sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống sẽ dẫn đến tha hoá về tư
tưởng chính trị. “Tự diễn biến” có thể có trong Đảng, trong hệ thống chính trị,

trong xã hội; có thể có trong đảng viên, công chức, nhân dân, nhưng nguy
hiểm hơn cả là trong cán bộ, nhất là cán bộ có chức, quyền, cán bộ trung cao
cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý chiến lược vĩ mô. “Tự diễn biến” là quá trình từ
bỏ dần tư tưởng của CNXH, hướng dần theo những tư tưởng khác. Hiện
tượng “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị rất không đơn giản, cần được phân
tích, nhận diện chính xác. Do đó, việc xác định đâu là biểu hiện “tự diễn biến”
đòi hỏi phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của người lao động làm tiêu
chí xem xét, đánh giá với phương pháp khoa học, tránh “chụp mũ”, quy kết
vội vàng; đồng thời, không thể mất cảnh giác cho rằng “không có vấn đề gì”.
“Tự diễn biến” là một hiện tượng mà sự nảy sinh và phát triển của nó có
nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Trạng thái “tự diễn biến” xuất phát từ 3 nguyên nhân: thứ nhất, do hạn
chế về trình độ hiểu biết, năng lực trí tuệ, năng lực thực tiễn; thứ hai, do sự
16


thoái hoá về phẩm chất đạo đức, lối sống của từng cán bộ, đảng viên, nhất là
những đảng viên có chức, có quyền trong hệ thống chính trị; thứ ba, vì chủ
nghĩa cá nhân gây nên mất đoàn kết nội bộ, làm xuất hiện những cá nhân,
nhóm người mâu thuẫn nhau về địa vị, lợi ích... Những nguyên nhân chủ quan
nêu trên sẽ làm cho nội bộ suy yếu, mất sức đề kháng, tạo điều kiện thuận lợi
cho các thế lực thù địch lợi dụng, can thiệp, thúc đẩy “tự diễn biến”.
“Tự diễn biến” vô cùng nguy hiểm, nó phụ thuộc chủ yếu vào chính
chúng ta, vào sức mạnh và khả năng đề kháng của cơ thể xã hội XHCN. Cuộc
đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình” chỉ đạt được kết quả khi nó
được gắn liền với cuộc đấu tranh đẩy lùi, khắc phục các nguy cơ nội sinh, như
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực, nguy cơ
chệch hướng XHCN và nguy cơ tham nhũng, tệ quan liêu, sự suy thoái về
phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Các nguy cơ này có mối liên hệ,
tác động lẫn nhau.

Trong tình hình hiện nay, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức là một nhiệm vụ cấp bách. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện các
quy chế, chính sách quản lý cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát cán bộ,
chống nguy cơ “tự diễn biến”. Do vậy, phải “chủ động phòng ngừa, đấu tranh,
phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”; quán
triệt tư tưởng chỉ đạo chú trọng cả hai nhiệm vụ “xây” và “chống” trong đó
lấy xây dựng là chính; đồng thời, phải chủ động và có giải pháp đúng tạo ra
khả năng “miễn dịch” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối
với thế hệ trẻ, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng, của chế độ.
2.3.5. Làm tốt công tác tạo nguồn, lựa chọn, bồi dưỡng và sử dụng
cán bộ, đảng viên
Việc sử dụng, cất nhắc, đề bạt phải đúng nguyên tắc, dân chủ, công
khai. Phải vì việc để bố trí người, không vì người mà đặt việc. Chọn người có
đức, có tài để sử dụng, không vì thân quen, nể nang. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Các
17


đảng bộ, chi bộ cần cụ thể hóa các quy định về công tác cán bộ, phân công
cán bộ, lãnh đạo chủ chốt cần tương ứng với trình độ, năng lực, kinh nghiệm
thực tiễn, phẩm chất đạo đức, tín nhiệm... Các đảng bộ, chi bộ giới thiệu cán
bộ, đảng viên vào các vị trí lãnh đạo, quản lý phải hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước quần chúng, cơ quan về lời giới thiệu, bảo đảm của mình. Xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng trong sáng, thực sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư.

18


KẾT LUẬN

Sự nghiệp đổi mới đất nước càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi trình độ
nhận thức chính trị cao, ý thức chính trị tự giác, quan điểm chính trị rõ ràng,
sự lãnh đạo chính trị và quản lý xã hội hết sức khoa học, tính tích cực chính
trị - xã hội cao ở mỗi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, cũng như trong
toàn xã hội.
Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, nhất là trước sự
sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một số nước Đông Âu, một
số người, đặc biệt là những người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm và sự từng trải về
chính trị đã tỏ ra giao động, giảm sút niềm tin, có nhận thức mơ hồ đối với
chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội, đối với đường lối, chủ trương,
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Đó đây cũng đã xuất hiện một số
khuynh hướng tư tưởng chính trị sai trái, mà biểu hiện của nó là tập trung tán
dương sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản, bác bỏ tính hợp quy luật,
tiến bộ của chủ nghĩa xã hội hiện thực, bôi nhọ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chia rẽ
Đảng đối với nhân dân, gieo rắc rối lối tư duy phi lịch sử, phủ nhận quá khứ
hào hùng của dân tộc, phủ nhận những thành quả cách mạng do Đảng và nhân
dân ta giành được.
Suy thoái tư tưởng chính trị là hết sức nguy hiểm, nguy cơ làm giảm sút
uy tín, ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Song nó
có phát triển đến mức làm biến chất XHCN của chúng ta được hay không, có
làm cho những nguyên tắc, quan điểm của Đảng bị chệch hướng, lệch chuẩn
hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào chính chúng ta, những cán bộ, đảng
viên, các tổ chức của Đảng; vào khả năng đề kháng và sức mạnh của cơ thể
XHCN, của các tổ chức Đảng, của mỗi một cán bộ đảng viên. Lênin đã từng
nói: “không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản
19


thân chúng ta”. Do vậy đánh giá đúng tình hình, xác định đúng nguyên nhân

và có những giải pháp cụ thể kiên quyết khắc phục có hiệu quả tình trạng suy
thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên là vấn đề vừa mang tính cơ
bản, vừa mang tính cấp bách ở nước ta hiện nay.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, H.2006,
tr.48
2. Giáo trình: Nguyên lý công tác tư tưởng, Khoa Tuyên truyền - Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội – 2009
3. PGS, TS. Bùi Duy Quát, Công tác tư tưởng, NXB CTQG, HN –
2010
4. Hồ Chí Minh toàn tập. NXB CTQG, Hà Nội – 2002
5. Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. NXB CTQG, Hà Nội - 2004
6. Ban chỉ đạo TW: Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, NXB CTQG, HN - 2007
7. Một số trang báo mạng điện tử như: dantri.net; vietnamnet;
vietnamplus…

21


MỤC LỤC

22




×