Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Bài giới thiệu và thuyết minh Đại Nội Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 35 trang )

Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA DU LỊCH



Bài Tập Nhóm
THUYẾT MINH ĐẠI NỘI HUẾ

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
Nhóm sinh viên thực hiện :
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
1

Nguyễn Thị Hằng
Nguyễn Thị Dạ Thảo
Lê Thị Lài
Hà Thị Liên
Cao Thị Vân
Nguyễn Thị Quỳnh
Lê Thị Tường Vi


Nguyễn Hữu Dũng


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
2


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

I. Giới thiệu khái quát
Có lẽ mỗi khi nói đến Huế, người ta chắc
chắn sẽ nghĩ ngay đến một thành phố
mộng mơ, sâu lắng, là nơi lưu giữ những
giá trị lịch sử với những hệ thống thành
quách, cung điện vàng son, những đền đài
lăng miếu lộng lẫy, những lăng tẩm uy
nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u
tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời
khéo tạc...
Nằm giữa lòng Huế bên bờ Bắc của con
sông Hương, Kinh thành Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện tích hơn 500ha, bao
gồm Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, được gọi chung là Đại Nội. Đây là trung tâm hành
chính, chính trị của triều đình nhà Nguyễn và là nơi sinh hoạt của nhà vua và hoàng gia.
Năm 1993 Đại Nội Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế
được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Kinh thành Huế được vua Gia
Long tiến hành khảo sát từ năm 1803 và khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào
năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Do tuân theo những nguyên tắc của dịch học,
phong thủy học và vũ trụ quan phương Đông nên hầu hết các kiến trúc trong kinh thành

Huế được xây dựng xoay về hướng Nam, vì trong dịch học có câu " Thánh nhân Nam
diện nhi thính thiên hạ " có nghĩa là vua xoay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ..
(Mùa hè gió mùa Tây Nam thổi mát, mùa đông tránh gió mùa đông bắc ). Cũng theo
nguyên tắc địa lý phong thuỷ của Đông Phương và thuyết âm dương ngủ hành của Dịch
học, Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai
hòn đảo nhỏ trên sông hương (Cồn Hến - Cồn Dã Viên) làm rồng chầu hổ phục (Tả
Thanh Long - Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ cố đô. Dòng sông Hương chảy ngang trước mặt
dùng làm Minh Đường. Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi
là sông Hộ Thành.Theo như các sử quan triều Nguyễn đã nhận xét thì " Kinh sư là nơi
miền núi và miền biển đều hợp về , sông lớn giữ phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng
cuộn, hổ ngồi, hình thế vững chãi, ấy là thượng đô của vua ".
Hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn.
Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm thành, ba tòa thành lồng vào nhau được bố trí đăng
đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Kinh thành Huế là vòng ngoài
cùng có chu vi gần 10 km, cao 6,6m, dày 21m được xây khúc khuỷu với những pháo đài
được bố trí cách đều nhau, thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia
Long mới bắt đầu xây gạch. Bên ngoài vòng thành có hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà)
vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao thông đường thủy có chiều dài hơn
7 km. Kinh thành Huế gồm 10 cửa đường bộ, 2 cửa đường thủy thông kinh thành với bên
ngoài, ngoài ra còn 1 cửa thông với trấn Bình Đài.Kinh thành Huế phía nam giáp đường
Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía
đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế gồm: Kỳ Đài, Trường Quốc Từ Giám,
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
3


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng
thư lâu Viện Cơ Mật - Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công.

Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng
nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành - nơi dành
riêng cho vua và hoàng gia. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái
Hoà và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu,
Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đinh, Điện Phụng Tiên. Hoàng
Thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xi 600m với 4
cổng ra vào độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là
khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng
tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở và sinh hoạt của vua và
hoàng gia. Các di tích trong Tử Cấm Thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện Kiến
Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình
những công trình kiến trúc quan yếu nhât của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu
Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung
Khôn Thái, lầu Kiên Trung... Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến
trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những
sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác hài hòa, nhẹ nhàng, thanh
thản.

II. Một số công trình tiêu biểu trong đại
nội
1. Kỳ Đài
Vị trí: Kỳ đài nằm ở chính giữa mặt phía nam của
Kinh thành Huế, thuộc phường Thuận Thành, TP.
Huế,
tỉnh
Thừa
Thiên
- Huế.

Đặc điểm: Kỳ đài là một di tích kiến trúc thời
Nguyễn, thuộc quần thể di tích Cố đô Huế.
Kỳ đài còn gọi là cột cờ, được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807), cùng thời gian
xây dựng Kinh thành Huế. Đến thời Vua Minh Mạng, Kỳ đài được tu sửa vào các năm
1829, 1831 và 1840. Cùng với những thăng trầm của Kinh thành Huế, Kỳ đài là nơi
chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Thời Nguyễn, trong tất cả các
dịp lễ tết, chầu mừng, tuần du hay cấp báo, Kỳ đài đều có hiệu cờ thông báo. Ngày
30/8/1945, trong lễ thoái vị của vua Bảo Đại, lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được kéo lên, kết thúc sự tồn tại của chế độ phong kiến Việt Nam.
Kỳ đài có hai phần: đài cờ và cột cờ. Đài cờ gồm ba tầng hình chóp cụt chữ nhật chồng
lên nhau với chiều cao khoảng 17,5m. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5m, tầng giữa và tầng trên
cùng đều cao khoảng 6m. Ở phía trái Kỳ đài có một lối đi nhỏ để lên các tầng. Tầng giữa
có một cửa vòm rộng 4m, tầng trên cùng có một cửa vòm rộng 2m. Mỗi tầng đều được
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
4


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

xây lan can cao 1m, trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền của ba tầng lát gạch vuông và
gạch vồ Bát Tràng, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới.
Cột cờ được dựng ở vị trí chính giữa tầng cao nhất của đài cờ. Cột cờ xưa được làm bằng
gỗ, cao gần 30m. Năm 1904, do bị bão đánh gãy, cột cờ được đúc lại bằng gang và đến
năm 1948, được dựng lại bằng bê-tông cốt sắt sau khi bị thực dân Pháp bắn g ãy vào năm
1947. Đến năm 1948 Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung Kỳ cho xây dựng cột cờ bằng
cốt thép cao 37m như hiện nay. Như vậy, tổng chiều cao từ mặt đất lên đến đỉnh Kỳ đài là
54,5m.
2. Cửu vị thần công
Địa điểm: Được đặt tại cửa Thể Nhơn (cửa
Ngăn), cửa Quảng Đức (cửa Sập), thành phố

Huế.
Cửu vị thần công trước đây được đặt ở trước mặt
Ngọ Môn trong hai dãy nhà đặt tên là Pháo
Xưởng, hiện nay được đặt ở cửa Thể Nhơn (cửa
Ngăn), cửa Quảng Đức (cửa Sập), là hai cửa của
Kinh thành Huế.
Cửu vị thần công được đúc tại Huế từ tháng 2
năm 1803 đến tháng 1 năm 1804 (12 tháng) do
lính thợ ở bộ Công và binh sĩ ở bộ Binh thực hiện, vật liệu là tất cả các khí mảnh bằng
đồng tịch thu được của triều Tây Sơn đem nấu chảy, đúc thành súng để làm “kỷ niệm
muôn đời”.
Cửu vị thần công được đặt tên theo “Tứ thời”: Xuân, Hạ, Thu, Đông; “Ngũ hành”: Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Năm 1816, chín khẩu súng còn được triều Gia Long đặt tên mới
nữa là: Thần Oai Vô Địch Thượng Tướng Công Cửu Vị.
Trong Cửu vị thần công, khẩu nặng nhất nặng là 18.400 cân, khẩu nhẹ nhất là 17.200 cân,
trọng lượng đồng của chín khẩu là 140.300 cân. Mỗi khẩu được kê trên một giá súng
bằng gỗ chạm trổ rất công phu. Hai bên giá là 4 bánh xe bằng gỗ viền sắt dùng để di
chuyển.
Ngoài giá trị lịch sử, Cửu vị thần công còn mang giá trị nghệ thuật cao. Kỹ thuật đúc
đồng, nghệ thuật trang trí và chạm khắc trên đồng cũng như trên giá súng đều rất điêu
luyện, tinh xảo. Đây là những khẩu thần công lớn nhất Việt Nam, một trong những bộ tác
phẩm mỹ thuật bằng đồng có giá trị nhất của dân tộc
3. Ngọ Môn
Vị trí: Ngọ Môn là cổng chính vào Đại Nội trong kinh thành Huế, Tp. Huế, tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
Đặc điểm: Ngọ Môn là một trong những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu của miền núi
Ngự sông Hương.
Mặc dù đã trải qua hơn một thế kỷ rưỡi với bao cơn bão táp của thiên nhiên và chiến
tranh tàn phá, nhưng nhờ có kỹ thuật xây dựng khéo léo và nhất là nghệ thuật kiến trúc
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc

5


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

rất thành thạo, cho nên, Ngọ Môn vẫn còn
đứng vững với thời gian để trở thành một
trong những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu
của miền núi Ngự Sông Hương.
Ngọ Môn xây dựng vào năm 1833, khi vua
Minh Mạng cho quy hoạch lại mặt bằng và
hoàn chỉnh hóa tổng thể kiến trúc trong Ðại
Nội.
Vì Kinh Dịch quy định, ông vua bao giờ
cũng quay mặt về phía nam để cai trị thiên hạ, cho nên, ngay từ thời Gia Long (1802 1810), khi xây dựng Kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đã cho hệ thống thành quách và cung
điện ở vào vị trí thế “tọa càn hướng tốn” (tây bắc đông nam). Hướng này cũng được xem
như hướng bắc - nam. Ðối với ngai vàng trong Điện Thái Hòa được xem như vị trí trung
tâm của mặt bằng tổng thể, Ngọ Môn nằm ở phía nam của nó. Căn cứ trên la kinh (la
bàn) của khoa địa lý phong thủy Ðông Phương, phía nam thuộc hướng "ngọ" trên trục "tý
ngọ" (nghĩa là bắc - nam). Do đó, triều Minh Mạng đã đặt tên cho cái cổng mới xây ở
chính giữa mặt trước Hoàng Thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam Khuyết Ðài. Nên
hiểu rằng Ngọ Môn là cổng phía nam với ý nghĩa mang tính không gian, chứ không nên
cho rằng chữ "ngọ" ở đây mang tính thời gian là giờ "ngọ", lúc mặt trời đứng bóng giữa
ngày. Thành thử không thể dịch chữ Ngọ Môn ra thành "Noon time gate" như có người
đã dịch. Có hiểu đúng ý nghĩa của người xưa khi đặt tên, mới thấy rõ hơn vị trí của Ngọ
Môn trong tổng thể kiến trúc Ðại Nội. Ngày xưa, cổng này thường đóng chặt quanh năm,
chỉ được mở khi vua ra vào Hoàng Thành có đoàn ngự đạo đi theo, và trong những dịp
tiếp kiến các sứ ngoại quốc
quan trọng trong cung.
Tuy nhiên, Ngọ Môn không phải chỉ là một cái cổng, mà nó là cả một tổng thể kiến trúc

khá phức tạp: bên trên còn có Lầu Ngũ Phụng được xem như một lễ đài, dùng để tổ chức
một số cuộc lễ hàng năm của triều đình, như lễ Truyền Lô (đọc tên các sĩ tử thi đỗ tiến
sĩ), lễ Ban Sóc (phát lịch), lễ Duyệt Binh...và đây cũng là nơi diễn ra cuộc lễ thoái vị của
vua Bảo Ðại vào ngày 30/8/1945.
Về mặt kết cấu kiến trúc, có thể chia tổng thể Ngọ Môn ra làm hai hệ thống: hệ thống nền
đài ở dưới và hệ thống Lầu Ngũ Phụng ở trên, mặc dù cả hai đều đã được thiết kế ăn
khớp nhau một cách chặt chẽ và hài hòa với nhau từ tổng thể đến chi tiết.
Hệ thống nền đài: Cao gần 5m, nền đài Ngọ Môn xây trên một mặt bằng hình chữ U
vuông góc, đáy dài 57,77m và cánh 27,06m. Vật liệu kiến trúc chính là gạch vồ, đá thanh
và đồng thau. Ở phần giữa của nền đài trổ ra ba lối đi song song nhau: Ngọ Môn (dành
cho vua đi), Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn (dành cho quan văn võ theo hầu trong đoàn
Ngự Ðạo). Ở trong lòng mỗi cánh chữ U có trổ một lối đi như đường hầm chạy xuyên
suốt từ trong ra ngoài, rồi thẳng góc vào phía đường Dũng đạo. Hai lối đi này được gọi là
Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn (dành cho lính tráng và voi ngựa theo hầu trong đoàn
Ngự đạo). Ở phần trên của 5 lối đi đều xây cuốn thành vòm cao, nhưng ở riêng ở hai đầu
3 lối đi giữa thì các kiến trúc thời Minh Mạng lại kết cấu những hệ thống xà ngang và xà
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
6


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

dọc bằng đồng thau với tiết diện 15x12 để gia cố cho sự chịu lực từ Lầu Ngũ Phụng nằm
trên đài. Nơi nào chịu đựng trọng lượng càng lớn thì số lượng xà ngang càng nhiều và
khoảng cách giữa chúng càng thu hẹp lại, nghĩa là mật độ xà càng cao. Và để giữ vẻ thẫm
mỹ, họ đã bọc thêm một lớp đồng lá dát mỏng ở ngoài mặt các hệ thống xà đồng này. Họ
đã tỏ ra rất thành thạo trong việc tính toán tải trọng, sức bền vật liệu, cũng như trong việc
sử dụng thích hợp các phương thức và các loại vật liệu xây dựng.
4. Lầu Ngũ Phụng
Tầng trên của cổng Ngọ môn có hai tầng, dưới lớn trên nhỏ, được làm bằng gỗ lim. Đây

được xem như một lễ đài dùng để tổ chức những nghi lễ quan trọng của triều đình: lễ
duyệt binh, lễ ban sóc, lễ truyền lô,… Và
cũng chính nơi đây, ngày 30/8/1945, vị Vua
cuối cung của triều Nguyễn là Bảo Đại đã
thoái vị và trao chính quyền lại cho chính phủ
lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (đại
diện là Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận, Nguyễn
Lương Bằng) và ông đã nói rằng:
“Trẫm thà làm dân một nước tự do còn hơn
làm Vua một nước nô lệ”
Lầu được gọi tên là Lầu Ngũ Phụng vì nhìn từ
trên cao giống như hình 5 con chim Phụng
đang xòe cánh, chụm đầu lại với nhau. Lầu chính có 3 gian, 2 chái được sơn son thếp
vàng, 2 bên có 2 Dực Lâu “tả chuông hữu trống” gian ở góc bên trái cánh chữ U đặt
chuông, gian ở góc bên phải đặt trống. Chiếc trống hiện nay là chiếc trống đã được phục
chế, còn chiếc chuông hiện còn vẫn là chiếc chuông nguyên thuỷ, cao gần 4 thước
(1,8m), nặng 1.359 cân (815kg), do vua Minh Mạng sai đúc vào năm 1822 , chỉ được
dùng vào những dịp nghi lễ quan trọng của triều đình. Lầu Ngũ Phụng có tất cả 100 cây
cột bằng gỗ Lim, tượng trưng cho trăm họ bách tính cùng hòa hợp. Trong đó có 48 cây
cột xuyên suốt cả 2 tầng. Lầu có 9 bộ mái lợp bằng ngói ống tráng men, ở đầu có đắp nổi
hình chữ “Thọ” tượng trưng cho sự vạn thọ, trường tồn của triều đại nhà Nguyễn. Trong
đó, có 1 bộ mái cao hơn ở giữa được lợp ngói màu vàng là nơi dành cho Vua ngự tọa gọi
là ngói Hoàng lưu ly và 8 bộ mái còn lại lợp ngói màu xanh được gọi là ngói Thanh lưu
ly. Dân gian Huế có mấy câu viết về Ngọ Môn như sau:
“Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh
Ba cửa thẳng, hai cửa quanh
Sinh em ra phận gái, chớ hỏi chốn Kinh thành làm chi!..”
Như vậy, 3 câu đầu miêu tả Ngọ Môn nhưng ở câu cuối nói lên thân phận người phụ nữ
dưới chế độ phong kiến, quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Lúc bấy giờ, cấm tuyệt đối

phụ nữ bước lên lầu Ngũ Phụng này, phụ nữ cũng không được tham gia việc triều chính.
Tuy nhiên, duy nhất đến thời Bảo Đại, ông đã phá lệ đưa bà Nam Phương Hoàng Hậu lên
đây để xem các cuộc lễ quan trọng của triều đình.
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
7


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Gian giữa của Lầu Ngũ Phụng có 1 bức tranh sơn dầu do họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàn vẽ vào năm
1992 tái hiện lại 1 trong 3 nghi lễ lớn của triều đình là Lễ Truyền Lô (xứng danh các tiến
sĩ tân khoa). Ngoài ra ở đây còn tái hiện 1 tấm bia ghi danh các tiến sĩ triều Nguyễn
từ khoa Nhâm Ngọ thời Minh Mạng năm thứ 3 (1822) đến khoa Kỷ Mùi thời Khải Định
năm thứ 4 (1919). Trên bia có ghi rõ họ tên và quê quán của 293 vị tiến sĩ. Danh sách các
vị tiến sĩ này trước đây được khắc trên các bia đá ở Văn Miếu.
5. Cầu Trung Đạo
Được xây dựng từ thời vua Gia Long, đến đời vua Minh Mạng thì được tu sửa lại. Là cây
cầu bắc qua hồ Thái Dịch trồng sen, thả cá, ven hồ trồng cây hoa sứ (cây đại) – loài cây
tượng trưng cho sự tôn nghiêm, cao sang, quý phái của chốn Hoàng Cung. Cầu được xây
bằng gạch, mặt dưới gồm nhiều vòm cuốn. Hai đầu cầu có hai cổng dựng bằng 4 cột
đồng. Trên cột đồng trang trí hoa sen. Điều này mang ý nghĩa hoa sen tượng trưng cho
những ngọn đuốc soi sáng cho nhà vua. Hai cột giữa cao chạm trổ rồng 5 móng. Tuy hai
trụ đối xứng nhau nhưng một bên được tạo hình rồng vươn
lên, một bên tạo hình rồng lao xuống tạo sự sinh động, hấp
dẫn. Ở mỗi đầu cầu Trung Đạo là 1 phượng môn bằng đồng
được trang trí tinh xảo với hình rồng vờn mây quấn cột
“Long vân đồng trụ”. Trên ngách mỗi phượng môn được
trang hoàng bằng pháp lam ngũ sắc rực rỡ. Phượng môn ở
phía Nam mặt ngoài đề 4 chữ “Chính trực đăng bình”, mặt
trong đề 4 chữ “Cư nhân do nghĩa”. Phượng môn ở phía Bắc

mặt ngoài ghi 4 chữ “Chính đại quang minh” và mặt trong là
“Trung hòa vị dục.
Cả bốn câu đều toát lên tư tưởng chủ đạo, phương hướng
đường lối chính trị chủa triều đình.
“Chính trực đẳng bình” và “chính đại quang minh” mang ý nghĩa mà Mạnh Tử gọi là
ngoại vương. Vua Minh Mạng cho ghi hai câu này lên như câu tuyên ngôn nói về con
đường chính trị của triều đại và cũng là con đường chính trị của chính nhà vua. Đó là việc
hành sự ngay thẳng, ngay thẳng, tuân theo điều nghĩa, không thiên lệch.
Hai câu phía Điện Thái Hòa nhìn ra là “Cư nhân do nghĩa” và “trung hòa vị dục”thuộc
nội thánh, có quá trình phát triển cử tư tưởng Trung Quốc, tập trung giáo dục tu dưỡng
nhân cách làm người.
“Cư nhân do nghĩa” như một khẩu lệnh, là tấm gương soi sáng cho triều đại. “Trung hòa
vị dục” ý nói nếu thực hiện trung hòa đầy đủ thì vạn vật an vị, sinh sôi nảy nở.

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
8


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

6. Sân Đại Triều Nghi

Sân Đại Triều Nghi hay còn gọi là Sân Chầu là khoảng sân rộng trước Điện Thái
Hòa nơi các quan đứng chầu trong các buổi
đại thiết triều của triều đình nhà Nguyễn.
Sân Đại Triều Nghi nằm ngay trên đường
xuyên tâm Hoàng Thành nhìn thẳng ra cửa
Ngọ Môn trong kinh thành Huế. Điện Thái
Hòa cùng với sân chầu là địa điểm dùng cho
các buổi triều nghi quan trọng của triều đình

như: lễ Đăng Quang, sinh nhật vua, những
buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng
1 và 15 âm lịch hàng tháng.Vào những dịp này vua đội mũ cửu long ,mặc hoàng bào,
lưng đeo đai, tay cầm hốt trầm quế, chân đi hia, uy nghi ngồi trên ngai vàng trong Điện
Thái Hòa. Chỉ các quan Tứ Trụ và những hoàng thân quốc thích của nhà vua mới được
phép vào điện diện kiến. Các quan khác có mặt đông đủ và đứng xếp ở sân Đại Triều theo
cấp bậc và thứ hạng, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải.
Sân được xây dựng cùng lúc với Điện Thái Hòa vào năm 1805.
Sân Đại Triều Nghi khá rộng, được lát hoàn toàn bằng đá thanh và được chia bậc. Vào
lúc đó, sân chia làm ba bậc:
Bậc cao nhất gọi là Đệ nhất Bái đình dành cho các quan văn, quan võ ấn quan (từ hàng
tam phẩm trở lên chánh nhất phẩm)
Bậc thứ nhì gọi là Đệ nhị Bái đình dành cho các quan từ tứ phẩm trởxuống đến cửu
phẩm.Hai bên sân có 2 hàng trụ đá đề rõ phẩm trật để cho các quan xem đó mà sắp hàng
cho thứ tự gọi là Phẩm Sơn.
Bậc thứ ba dưới cùng gần Cầu Trung Đạo còn 1 hàng nữa gọi là Đệ tam Bái đình dành
cho kì cựu hương lão, thích lý bà con bên ngoại của vua đến chầu trong những dịp khánh
tiết.Với tư cách chia của sân Đại Triều Nghi ,có thể nhận biết thứ bậc vua quan triều
Nguyễn bấy giờ.
Giữa sân từ cửa Ngọ Môn đi vào có một con đường gọi là Dũng đạo. Hai góc sân có 2
con kì lân rất lớn bằng đồng thếp vàng được đặt trong lồng gương bằng gỗ sơn vàng có ý
nghĩa là đời thái bình, đồng thời nó là 1 biểu tượng nhắc nhở sự nghiêm chỉnh giữa chốn
triều nghi.
Sân Đại Triều Nghi không mang giá trị về mặt kiến trúc trừ kì lân phía trước sân. Xét về
vai trò lịch sử, sân là nơi chứng kiến sự hưng thịnh và suy vong của 13 đời vua triều
Nguyễn. Ngày nay, sân là sân khấu ngoài trời để biểu diễn nhã nhạc cung đình Huế, là
nơi diễn ra các hoạt động văn hóa kinh thành Huế.

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
9



Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

7. Điện Thái Hòa
Điện Thái hòa là cung điện nằm trong khu vực Đại Nội trong kinh thành Huế, hơn 200
năm tồn tại cùng những thăng trầm của kinh đô, là nơi ghi dấu ấn, chứng nhân lịch sử của
bao sự kiện, cả vinh quang và cay đắng
của đất nước Việt Nam suốt 13 triều vua
nhà Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại.
Trong chế độ phong kiến cung điện này
được coi là trung tâm của đất nước. Trải
qua nhiều cuộc chiến tranh, trong khi
một số các công trình kiến trúc khác
trong hoàng cung bị đốt phá và thiêu hủy
thì Điện Thái Hòa là công trình duy nhất
còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Điện Thái Hòa được chia làm 3 thời kì
chính mỗi thời kì đều có những thay đổi cải tiến về kiến trúc và trang trí:
Gia Long(1802-1819): Điện Thái Hòa được xây dựng từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1805.
Vua Gia Long đã cho tổ chức lễ đăng quang chính thức của mình ở đây vào năm 1806.
Bấy giờ, ngôi điện tọa lạc tại vị trí Đại Cung Môn (cửa chính của Tử Cấm Thành) nằm
cách điện Thái Hòa hiện nay khoảng 50m về phía bắc.
Minh Mạng(1820-1840): Vào năm 1833,khi nâng cấp một loạt các công trình khác ở
Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, vua Minh Mạng cho dời điện về mé nam, đồ sộ và rộng
lớn hơn.
Khải Định( 1916-1925): Năm 1923, vua Khải Định cho “đại gia trùng kiến”, điện Thái
Hòa để chuẩn bị cho cuộc lễ “Tứ tuần Đại Khánh tiết” (mừng vua tròn 40 tuổi) của hành
vào năm 1924. Trong đợt này, có 1 số bộ phận kiến trúc của ngôi điện được thay đổi
như : lắp ráp thêm 2 dãy cửa kính ở mặt trước và mặt sau của ngôi điện, trước chỉ treo

sáo che mái mà thôi; trổ các của sổ hình tròn lớn, giữa gắn chữ thọ ở máng tường gạch
chịu lực tại hai bên mặt tiền hai chái của ngôi điện....
Qua các đợt trùng tu lớn nói trên và nhiều lần trùng tu sửa chữa như dưới thời vua Thành
Thái, Bảo Đại và trong thời gian gần đây (năm 1960,1970,1981,1992) Điện Thái Hòa ít
nhiều có thay đổi, vẻ cổ kính ngày xưa đã giảm đi 1 phần. Tuy nhiên, cốt cách cơ bản của
nó thì vẫn được bảo lưu,nhất là phần kiến trúc và trang trí mỹ thuật.
Nằm ngay trên trục chính của hệ thống hoàng cung và được đặt tên là Thái Hòa. Chữ
Thái Hòa trong tên gọi “Thái Hòa Điện” của công trình mang ý nghĩa triết học sâu sắc.
Chữ “Thái” là sự lớn lao, to rộng, chữ “Hòa” hàm ý “hài hòa, hòa hợp”- cuộc sống hòa
hợp âm và dương, giữa cương và nhu, giữa người và người, giữa người và Trời, giữa
người và Đất thì mới hữu ích cho vạn vật. Ở một câu trong quẻ càn, Chu Hy đã chú thích
rằng “đạo làm vua cứng mà biết mềm, thì mọi việc trong thiên hạ đều bình trị được cả”.
Trong hàng chục cung điện ở khu vực Hoàng thành, điện Thái Hòa là ngôi điện lớn nhất,
đẹp nhất, chiếm lĩnh vị trí trang trọng nhất. Nếu Ngọ Môn được coi là gương mặt của

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
10


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Hoàng thành thì điện Thái Hòa chính là trái tim, bởi nơi đó đặt ngai vàng – ghế rồng của
vua, biểu tượng của quyền lực vương triều phong kiến.
Là nơi thể hiện uy quyền của quốc gia, điện được xây trên nền cao 1m, diện tích 1360 m²
nguy nga bề thế trông ra 1 sân rộng.
Cung điện được xây dựng theo lối trùng thiềm điệp ốc. Nhà trước và nhà sau của điện
được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm mai cua dưới máng nước nối của hai mái
nhà (thuật ngữ kiến trúc gọi là máng thừa lưu). Chính trần mai cua này nối với nửa trong
tạo ra một không gian nội thất liên tục, thống nhất, rộng rãi, không còn cảm giác ghép nối
hai tòa nhà. Việc ứng dụng máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây dựng điện, nó

chẳng những che kín được sự lõm xuỗng của nơi nối hai mái mà còn tạo nên nhịp
điệu kiến trúc. Đây cũng là một dụng ý của kiến trúc sư. Do thời tiết và kiến trúc cổ
truyền Việt Nam mà điện không thể xây cao như của Trung Quốc, vì vậy nửa ngoài mái
cao hơn, nửa trong mái thấp hơn. Mục đích là tạo cảm giác "cao" cho gian ngoài- nơi bá
quan hành lễ, bên trong thấp vừa làm nổi bật gian ngoài vừa là nơi vua ngồi nên kín đáo,
uy nghiêm.
Hệ thống vì kèo nóc sau nhà tương đối đơn giản,chỉ làm theo kiểu “vì kèo cánh ác”
nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại kì kèo “chồng rường - giả thủ” được
cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột ở đây đều liên kết với nhau 1 cách
chặt chẽ bằng hệ thống mộng chặt chẽ.
Mái điện lợp ngói hoàng lưu ly, nhưng không phải 1 dải liên kết mà được chia làm 3 tầng
chồng mí lên nhau theo chiều từ cao xuống thấp, được gọi là mái chồng diêm, mục đích
tránh đi sự nặng nề của 1 tòa nhà rộng lớn đồng thời để tôn cao ngôi điện bằng cách tạo
ra ảo giác chiều cao cho tòa nhà.Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh 4 mặt
của tòa nhà. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc (297 ô hộc) để trang trí
hình vẽ và thơ văn trên những tấm pháp lam theo lối nhất thi nhất họa. Một trong những
bài thơ trên những tấm pháp lam là:
Phiên âm:
Thiên tâm mông tích hựu
Nhân ý bản năng tri
Bách tính điềm hy nhật
Tứ phương ninh mật thì.
Dịch thơ:
Trời đã mở lòng bảo hộ triều đình và thần dân
Con người vốn đã biết rõ ý đó
Trăm họ vui với những điều tốt đẹp
Bốn phương đều an ninh thái bình.
Trên mỗi mái điện, đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long
châu hổ, hồi long, lưỡng long triều nhật, rồng ngang...Giữa nóc tiền điện được trang trí
bầu rượu bằng pháp lam.

Trang trí cũng như kiến trúc điện Thái Hòa nói chung, có 1 khái niệm đặc biệt đang chú ý
là con số 5 và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
11


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

ngoại thất của tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của điện.Từ phía Đại Cung Môn của
Tử Cấm Thành đi ra Điện Thái Hòa, vua phải bước lên 1 hệ thống bậc thềm ở tầng nền
dưới là 9 cấp và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện, số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái
đình và Đệ nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5
cấp
Chính giữa Điện Thái Hòa có đặt một chiếc ngai vàng, dưới chế độ phong kiến, ngai
vàng là một biểu tượng thiêng liêng,đồng thời là một khái niệm cao nhất trong thiên hạ.
Ngai vàng được đặt trên bậc tam cấp tượng trưng cho Thiên-Địa -Nhân. Phía trên ngai
còn treo bửu tán làm bằng pháp lam ngũ sắc,trang trí ngũ long chung quanh còn trang trí
bằng các điểm làm gỗ chạm 9 con rồng thép vàng chói lọi... Tiếp đó là hai con Kỳ Lân
biểu hiện lòng trung thành của các quan đối với vua. Quả cầu giữa có hình rồng và lân
biểu hiện cho uy quyền của thiên tử. Đồ sứ trưng bày ở đây là đồ sứ Giang Tây ở Trung
Quốc làm theo đơn đặt hàng của vua Nguyễn.

Sau lưng ngai vàng là một dãy đố bảng tạo thành một hệ thống hành lang chạy quanh ba
mặt điện. Bên trên các đố bảng và hẹ thống liền ba đều trang trí hình hoa văn đặc biệt
theo lối “Nhất thi, Nhất họa” tạo nên cái tươi mát uyển chuyển cho cấu trúc này.
Ngôi điện được chống đỡ bằng 80 cột gỗ lim được sơn thếp và trang trí
hình rồng vờn mây màu vàng son rực rỡ - một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng đế và
quần thần đúng như chức năng vốn có của ngôi điện.
Trên các bảng gỗ trần điện và vách điện,các nhà thiết kế khắc hàng trăm bài thơ chữ Hán
(197 bài thơ) và hình ảnh rồng mây hoa lá, đây là giang sơn cho loài rồng bay lượn, và

cũng chính là giang sơn của các ông vua triều Nguyễn trong Điện Thái Hòa này. Một
trong những bài thơ tiêu biểu là:
Phiên âm:
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng mang khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu.
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
12


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Dịch thơ:
Nước ngàn năm văn
hiến
Thống nhất toàn
giang sơn
Từ thuở đầu trời đất
Đã thịnh trị trời
Nam
Phía sau Điện Thái hòa là sa bàn mô tả
kinh thành Huế với khi còn đầy đủ các
công trình kiến trúc của nó
Với vị trí trang trọng trên trục dũng đạo của Hoàng thành và nhiều ý nghĩa mang tính
biểu tượng trong trang trí kiến trúc, điện Thái Hòa nổi bật uy nghi trong cảnh quan hoành
tráng, thực sự là công trình tiêu biểu nhất trong quần thể kiến trúc cung đình Huế cả về
giá trị lịch sử và nghệ thuật.
Ngày nay, thời vàng son của triều đại quân chủ không còn, nhưng với vẻ cổ kính thâm
nghiêm của cung điện - nơi in dấu bao sự kiện trọng đại về một thời oanh liệt đã qua của

triều đại phong kiến nhà Nguyễn, cũng như những gì còn bảo lưu trong cung điện cho
đến ngày nay, khi đến với Điện Thái Hòa sẽ được thỏa thích nhìn ngắm những tác phẩm
nghệ thuật và hồi tưởng quá khứ mà suy ngẫm về tài nghệ của cha ông - những người đã
góp phần tạo nên nét tinh vi sắc xảo trong nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn.
8. Tử Cấm Thành
Tử Cấm thành thuộc quần thể di tích cố đô Huế là trung tâm sinh hoạt hằng ngày
của vua và hoàng gia triều Nguyễn. Tử Cấm thành có vị trí sau lưng điện Thái Hòa, được
khởi xây năm Gia Long thứ 3 (1804) gọi là Cung thành và các vua triều Nguyễn xây
dựng thêm. Tử Cấm thành là công trình nằm trong lòng Hoàng thành, cả hai vòng thành
này với một hệ thống cung điện ở bên trong thường được gọi chung là Hoàng cung hay
Đại Nội. Tử Cấm thành là một hình chữ nhật có cạnh là 324 x 290,68m, chu vi là
1.229,36m, thành cao 3,72m, dày 0,72m xây hoàn toàn bằng gạch vồ
Về kiến trúc, Tử Cấm Thành nói riêng và tổng thể Đại nội nói chung được xây dựng theo
bố cục mặt bằng của hệ thống kiến trúc chặt chẽ và đăng đối. Các công trình đều đối
xứng từng cặp qua trục chính (từ Ngọ Môn đến lầu Tứ Phương Vô Sự) và ở những vị trí
tiền, hậu; thượng, hạ; tả, hữu; luôn nhất quán (tả văn hữu võ, tả nam hữu nữ, tả chiêu hữu
mục). Con số 9 và 5 được sử dụng nhiều trong kiến trúc vì theo Dịch lý, con số ấy ứng
với mạng thiên tử.
Bố cục của hệ thống Hoàng cung biểu hiện rõ tư tưởng độc tôn quân quyền. Tử Cấm
thành là một tiểu vũ trụ của hoàng gia, trong đó đầy đủ mọi tiện nghi sinh hoạt: ăn ở, làm
việc, học tập, nghỉ ngơi, giải trí, điện Càn Thành là nơi vua ăn ngủ tọa lạc tại trung tâm
của vũ trụ đó
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
13


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Tử Cấm Thành có 7 cửa cả thảy, mặt nam chỉ có một cửa duy nhất thông với Điện Thái
Hòa là Đại Cung Môn. Ngày xưa đây là một tòa nhà 5 gian bằng gỗ được làm vào đời

vua Minh Mạng, cửa rất rộng bằng gỗ sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi… Bên trong
Tử Cấm thành bao gồm hàng chục công trình kiến trúc với qui mô lớn nhỏ khác nhau,
phân chia làm nhiều khu vực. Đại Cung môn là cửa chính vào Tử Cấm thành được xây
vào năm 1833. Sau Đại Cung môn là một sân rộng rồi đến điện Cần Chánh, là nơi vua
làm việc và thiết triều. Đây là một công trình kiến trúc bằng gỗ có quy mô gần bằng điện
Thái Hòa Cách bố trí, sắp đặt trong điện Cần Chánh cũng tương tự điện Thái Hòa, gian
giữa đặt ngai vua, tả hữu treo bản đồ thành trì các tỉnh Bên cạnh Điện Cần Chánh là hai
trong số rất ít các công trình còn sót lại của Tử cấm Thành đó là Tả Vu dành cho quan
văn và Hữu Vu dành cho quan võ. Đây là hai tòa nhà là nơi các quan chuẩn bị nghi thức
trước khi thiết triều, nơi làm việc của cơ mật viện, nơi tổ chức thi đình và yến tiệc.. Ngày
nay ở Hữu Vu có một dịch vụ hóa trang chụp hình, còn Tả Vu được sử dụng làm nhà bảo
tàng lưu giữ những bức hình của hoàng cung, những vật dụng của vua quan nhà Nguyễn.
Phía bắc điện Càn Thành là Cung Khôn Thái bao gồm điện Khôn Thái, điện Trinh
Minh... là nơi ăn ở sinh hoạt của Hoàng
Quí Phi và các phi tần mỹ nữ thuộc Nội
Cung. Nguyên dưới triều Gia Long tên
là cung Khôn Đức, đến triều Minh
Mạng thứ 14 (1833), vua đổi tên là
Khôn Thái. Sau cung Khôn Thái là lầu
Kiến Trung
Ngoài những công trình chính trên được
sắp đặt trên một đường thẳng sau cửa
Đại Cung, Tử Cấm thành còn có những
cung điện, lầu tạ khác hai bên tả hữu là khu vực phục vụ việc ăn uống, sức khỏe và giải
trí của vua và hoàng gia như: Thượng Thiện đường, Thái Y viện, Duyệt Thị Đường, vườn
Thiệu Phương, vườn Ngự Uyển, gác Đông Các, Tu Khuê tơ lầu, điện Quang Minh (chỗ ở
của Đông Cung hoàng tử), điện Trinh Minh (chỗ ở của các bà phi), viện Thuận Huy (chỗ
ở của các bà Tân), Duyệt Thị đường, lục viện...Ngoài ra, còn có một số công trình kiến
trúc khác dành cho tín ngưỡng tâm linh như chùa thờ Phật, miếu thờ trời, tinh tú và Quan
Công.

Trước sân điện Cần Chánh, bên trong Tử Cấm Thành còn nổi bật 2 chiếc Vạc đồng. Đây
là 2 chiếc vạc có kích thước và trọng lượng lớn nhất trong các vạc thời chúa Nguyễn.
Chiếc thứ nhất đúc năm 1660 (năm Thịnh Đức thứ 8), trọng lượng 2.482 cân; chiếc thứ
hai đúc năm 1662 (Thịnh Đức thứ 10), trọng lượng 2.425 cân; cả hai đều có đường kính
miệng trên 2,2 m, cao trên 1 m. Hai chiếc vạc này có hình dáng và kiểu thức trang trí rất
giống nhau, có 4 quai, trên miệng vạc đều khắc 2 chữ Hán "Nhất Song" (một đôi).

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
14


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

9. Thế Miếu
Tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn.
Đây là nơi triều đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng hậu)
không được đến tham dự các cuộc lễ này.
Nơi đây trước kia là do vua Gia Long cho xây dựng để thờ ông Nguyễn Phúc Côn, thân
sinh vua Gia Long và được gọi là tòa Hoàng Khảo Miếu. Đến năm Minh Mạng thứ 2
(1821), Hoàng Khảo Miếu được dời lùi về phía bắc khoảng 50 m để dành vị trí xây tòa
Thế Tổ Miếu thờ vua Gia Long và Hoàng hậu. Miếu được xây dựng trong 2 năm (18211822), ban đầu chỉ dành để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vì thế mới có tên gọi Thế Tổ
Miếu) nhưng về sau trở thành nơi thờ các vị vua kế vị của triều Nguyễn. Thế Miếu cũng
được xây theo kiểu nhà kép truyền thống “Trùng thiềm điệp ốc”, mái lợp ngói Hoàng lưu
ly, trên bờ nóc, bờ quyết có trang trí các hình rồng uốn lượn. Nội thất Thế Miếu ở gian
giữa bên trên có treo bức Hoành phi đề ba chữ “Thế Tổ Miếu” lấy từ miếu hiệu Thế Tổ
Cao Hoàng Đế của Vua Gia Long – vị Vua đầu triều có công lập nên vương triều
Nguyễn. Để tưởng nhớ công lao to lớn của Vua cha nên vua Minh Mạng mới cho đặt tên
miếu này là Thế Tổ Miếu.
Bên trong miếu, án thờ vua Gia Long và được đặt ở gian giữa, các án thờ của các vị vua
còn lại đều theo nguyên tắc "tả chiêu, hữu mục" để sắp đặt. Tuy nhiên, theo gia pháp của

họ Nguyễn, các vị vua bị coi là "xuất đế" và "phế đế" đều không được thờ trong tòa miếu
này. Do đó, trước năm 1958, Triều Nguyễn có tất cả là 13 đời Vua nhưng bên trong Thế
Tổ Miếu chỉ có 7 án thờ của các vị vua là vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức,
Kiến Phúc, Đồng Khánh và vua Khải Định. Có 3 Vua không được thờ là Vua Dục Đức,
Vua Hiệp Hòa và Vua Bảo Đại vì đây là ba vị Vua “phế đế”. Đến năm 1958, có 3 vị vua
là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân là 3 vị Vua yêu nước chống Pháp, bị Pháp đưa đi
đày biệt xứ, nhưng là những vị Vua “xuất đế” nên trước đây cũng không được thờ trong
Thế Miếu. Mãi đến năm 1958, 3 án thờ của 3 vị Vua này mới được hội đồng Nguyễn
Phúc Tộc làm lễ và đưa vào thờ ở Thế Miếu. Do vậy, án thờ của 3 vị Vua này trông mới
hơn so với những án thờ còn lại.

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
15


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

10. Cửu Đỉnh
Cửu Đỉnh là chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế.
Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa đông năm 1835 và khánh thành vào
ngày 1 tháng 3 năm 1837, được đặt ở sân Thế Miếu dưới sự chủ trì của vua Minh Mạng.
và cho tới ngày nay Cửu Đỉnh vẫn còn nguyên vẹn và không di chuyển đi nơi khác. Cửu
Đỉnh là sản phẩm của những người thợ thủ công đúc đồng nổi tiếng ở phường Đúc (Huế).
“Cửu Đỉnh” được xem là một trong những tác phẩm nghệ thuật đồ sộ xuất sắc kỳ vĩ nhất,
mang ý nghĩa tượng trưng cao nhất của các
Vua triều Nguyễn.
Như đã biết,Cửu Đỉnh được đúc vào các
năm 1835 – 1837 dưới thời Vua Minh Mạng.
“Chúa đúc vạc, Vua đúc đỉnh”. Thời Chúa
Nguyễn, sau các chiến công thường cho tập

trung những chiến lợi phẩm bằng đồng rồi
cho đúc thành những chiếc vạc để kỷ niệm
những chiến thắng cũng như tượng trưng
cho uy quyền của nhà Chúa và sự bền vững của triều đại. Cùng với trụ đồng, nghê đồng,
súng đồng, vạc đồng là những tác phẩm đúc đồng có giá trị thì Cửu Đỉnh được xem là
đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng ở Huế.
Cửu Đỉnh gồm chín cái đỉnh đồng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thuỵ hiệu của
mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn. Trên mỗi đỉnh, người ta đều chạm khắc 17 bức họa tiết và
1 bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi sông, chim thú, sản vật, vũ khí,...tập hợp
thành bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn.
Đỉnh là thứ trọng khí được đúc bằng kim loại, thường có hai quai (tai) và ba chân,
nguyên nghĩa là đồ để nấu ăn thời xa xưa. Nhưng đỉnh cũng là tượng pháp để tượng trưng
cho quyền lực thồng trị của nhà nước quân chủ.
Con số 9 có nguồn gốc từ Kinh Dịch, là con số tượng trưng cho Trời, vị chúa tể của vũ
trụ “Chín phương Trời, mười phương Phật”; tượng trưng cho đấng chí tôn, Thiên tử “Cửu
ngũ chí tôn” và là con số Cực Dương “Càn Nguyên dụng Cửu thiên hạ trị dã”. Vua chúa
Trung Hoa cũng như Việt Nam đeuf ấy con số 9 làm biểu tượng và gởi gắm vào đó những
ước muốn của bản thân hay dòng họ mình. Chúng ta thấy tất cả các công trình kiến trúc,
cung điện, đền đài, lăng tẩm của các Vua nhà Nguyễn đều lấy con số 5 và con số 9 làm
gốc cho mọi công trình. Với ý nghĩa đó, Vua Gia Long cho đúc “Cửu vị thần công” và

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
16


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Vua Minh Mạng cho đúc “Cửu Đỉnh” biểu thị ước mơ triều đại mãi vững bền và sự giàu
đẹp của đất nước.


Cao đỉnh và Thế Miếu
Nhìn chung, cả chín chiếc đỉnh đều có dáng chung giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng
loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có ba chân. Ở phần cổ đỉnh, bên phải ghi năm đúc
đều là "Minh Mạng thập lục niên Ất Mùi" tức là năm 1835. Nhưng mỗi đỉnh cũng có nét
riêng. Cũng là quai đỉnh hình chữ U úp, nhưng góc đáy của nó ở các Cao đỉnh, Nhân
đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh thì vuông góc, còn ở các đỉnh khác lại uốn cong. Mặt quai
thì tùy đỉnh mà bện thừng, cong vỏ măng, cong lòng máng, phẳng bẹt hay có gờ, triện
hoặc để trơn. Phần lớn cổ các đỉnh có hình lòng máng, nhưng ở Cao đỉnh, Dụ đỉnh lại để
thẳng. Vành miệng của Thuần đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh đều cong nửa vỏ măng, còn
ở các đỉnh khác thì thẳng đứng với gờ vuông. Vai nhiều đỉnh có gờ đơn hoặc gờ kép,
nhưng một số đỉnh để trơn. Đáy bầu đỉnh phần lớn cong một phần của khối cầu, nhưng ở
một số đỉnh khác lại bằng và hơi lõm lên. Chỉ có chân Dụ đỉnh là được tạo đáy thẳng hơi
chếch, còn ở các đỉnh khác đều công dạng chân quỳ. Các mảng hình được chạm trên bàu
của đỉnh,mỗi đỉnh có 18 mảng hình.
Nguyên liệu đúc Cửu Đỉnh do triều đình cung cấp, gồm hai nguyên liệu chính là đồng và
kẽm, có thể thêm chì, thiếc… lấy từ trong kho hoặc các phế khí hay những vật phẩm
bằng đồng không cần dùng nữa. Tổng khối lượng đồng để đúc chín đỉnh là 22473
kgnhưng cũng có tài liệu ghi số liệu là 22088 k.
Cửu Đỉnh đúc xong vào tháng 5 âm lịch năm 1836. Vua Minh Mạng xuống lệnh chọn thợ
khéo chạm khắc các hình trang trí chạm nổi vào mỗi đỉnh. 8 tháng sau, vào mùa xuân
năm 1837, Cửu Đỉnh chính thức hoàn thành.
Đại lễ khánh thành và đặt Cửu Đỉnh diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 tức ngày quý
mão tháng giêng âm lịch năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh Mạng thứ 18. Đích thân hoàng
đế Minh Mạng đứng ra chủ trì buổi lễ. Chín chiếc đỉnh lần lượt được đặt ở sân của Thế
Miếu, sát với Hiển Lâm Các, dưới chân mỗi đỉnh đều kê bằng tảng đá.
Trải qua hơn 170 năm biến động, Cửu Đỉnh vẫn không hề thay đổi vị trí, còn lại nguyên
vẹn cho tới ngày nay.
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
17



Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Cửu Đỉnh đặt ở trước Hiển Lâm Các theo một hàng ngang, đối diện với Thế Miếu, phía
nam hoàng thành Huế. Cao đỉnh được đặt ở trên đường thần đạo chạy từ Miếu Môn qua
Hiển Lâm Các đến gian giữa của Thế Miếu - nơi đặt án và khám thờ vua Nguyễn Thế Tổ.
Cao đỉnh kê ở chính giữa trong số Cửu Đỉnh và là đỉnh duy nhất được nhích về phía
trước 3 mét với hàm ý tôn vinh vị vua sáng lập triều đại.
Lấy Cao đỉnh làm chuẩn, bên trái lần lượt là Nhân đỉnh, Anh đỉnh, Thuần đỉnh, Dụ đình;
bên phải lần lượt là Chương đỉnh, Nghị đỉnh, Tuyên đỉnh, Huyền đỉnh. Nhân đỉnh đối
diện với án thờ vua Nguyễn Thánh Tổ, Chương đỉnh dối diện với án thờ vua Nguyễn
Hiến Tổ, Anh đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Dực Tông, Nghị đỉnh đối diện với án
thờ vua Nguyễn Giản Tông, Thuần đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Cảnh Tông,
Tuyên đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Hoằng Tông, Dụ đỉnh đối diện với án thờ vua
Hàm Nghi, Huyền đỉnh đối diện với án thờ vua Duy Tân. Mỗi đỉnh có đặc điểm hình thể
và trọng lượng khác nhau, đỉnh nặng nhất là Cao Đỉnh ( 4307kg ), nhẹ nhất là Huyền
đỉnh ( 3200kg )
Trên Cửu Đỉnh tổng cộng có 153 tấm họa tiết chạm nổi tinh xảo trên bàu của tất cả 9
chiếc đỉnh, mỗi đỉnh gồm 18 tấm, chia làm ba tầng, mỗi tầng có sáu hình xen kẽ với 6
mảng trống, trong đó tầng trên và tầng dưới bố trí lệch đi một khoảng so với tầng
giữa.Mảng hình chính ở mặt trước thuộc tầng giữa được khắc tên đỉnh với lối chữ chân
phương, từng nét mạch lạc, khối chữ vuông vức.
Các hình chạm nổi trên Cửu Đỉnh được sắp xếp theo trật tự trang trí chặt chẽ. Nhìn
chung tầng giữa tập trung những hình quan trọng nhất: lấy tên đỉnh làm nội dung trang trí
chính, đối lại phía sau là các mô hình thể hiện vũ trụ như các tinh cầu hay các biểu tượng
thiên nhiên mạnh mẽ và thần bí, hai bên trên đỉnh là hình các núi cao hùng vĩ, trập trùng
và đối lại bên kia là biển cả mênh mông hay cửa sông rộng mở, rồi tiếp theo cả hai bên là
những con sông lớn của Việt Nam.
Tầng trên và tầng dưới không có hình ở hai phía trước và sau, mà dàn sang hai bên nhưng
vẫn mang tính đăng đối. Ở tầng trên, thứ tự từ trước ra sau là những cây to quý (riêng ở

Cao đỉnh thay bằng hình rồng, ở Anh đỉnh là ve sầu và ở Tuyên đỉnh là tổ yến) đối xứng
với những cây ăn quả lưu niên. Tiếp theo là hình những con chim đẹp, quý hiếm (riêng ở
Nghị đỉnh thay bằng hình con sâu dừa) đối xứng với cây lương thực. Cuối cùng là những
loài hoa đăng đối với ngũ cốc.
Tầng dưới đăng đối hai nửa từ trước ra sau là cặp đôi gồm những cây gỗ lớn và cây gia vị
với loài thủy hải sản và cây quý (riêng ở Nghị đỉnh thay bằng cặp chim uyên ương). Tiếp
đến là những loài hải vật nhỏ đăng đối với thuyền bè, xe cộ (riêng ở Anh đỉnh thay bằng
lá cờ). Sau cùng là các linh thú đăng đối với các kiểu vũ khí chiến trận.
Nghệ nhân khi thể hiện hình chạm trên Cửu đỉnh đã không phụ thuộc vào trạng thái tự
nhiên của vật thể, cũng như tỷ lệ kích thước của chúng, mà họ sáng tạo bằng sự sắp xếp
lại cho vừa một mảng diện tích tương đương nhau trên bàu của đỉnh. Vì thế có những vật
thể thu nhỏ nhiều, nhưng lại có những vật thể thu lại không đáng kể; có hình rất khái
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
18


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

quát, nhưng lại có hình khá chi tiết, hình nào cũng được nhìn rất động với những chi tiết
đặc thù.Có thể xem 162 hình chạm khắc trên Cửu Đỉnh như một bộ "Dư địa chí” bộ bách
khoa thư về nước Việt Nam đầu thế kỷ 19 bằng phương pháp tạo hình; tuy không đầy đủ
nhưng điển hình, đúng như yêu cầu của vua Minh Mạng: "Nay đúc đỉnh, khắc các hình
tượng sông, núi và mọi vật cũng không cần phải khắc đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và
xứ sở để tiện nhận xét".
Cửu Đỉnh là biểu thị của sự giàu đẹp, thống nhất đất nước và ước mơ triều đại mãi vững
bền. Quanh mỗi thân đỉnh đúc nổi 17 hình ảnh núi sông nổi tiếng trên đất nước Việt Nam
cùng với cây cối, sản vật, chim muông, các hiện tượng tự nhiên,… thể hiện một sự thống
nhất đa dạng và phong phú của đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam. Tổng cộng chín đỉnh
có tất cả là 153 hình ảnh chạm khắc: núi, sông, trăng, sao, cây cối, hoa, súc vật, vũ khí,
xe, thuyền,… Nếu kể thêm 9 miếu hiệu chữ Hán nữa thì mỗi đỉnh có 18 hình và tổng

cộng trên 9 đỉnh là 162 hình đúc nổi. Các con số 18 hay 162 đều cộng lại bằng 9, có lẽ đó
không phải là một sự ngẫu nhiên. Có thể xem 153 bức chạm khắc trên 9 đỉnh là 153 bức
tranh với 3 mảng đề tài tượng trưng cho thuyết Tam tài (Thiên – Địa - Nhân)
Hình ảnh về các hiện tượng tự nhiên: mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, dải ngân hà, mây,
mưa, gió, sấm chớp,… tượng trưng cho “Thiên” (trời).
Hình ảnh về các danh lam thắng cảnh nổi tiếng trên đất nước Việt Nam: biển Đông, núi
Thiên Tôn, kênh Vĩnh Tế, sông Hương, núi Ngự, sông Gianh, sông Mã, núi Hồng Lĩnh,
sông Lô, cửa biển Thuận An, sông bạch Đằng, sông Vàm Cỏ, núi Tản Viên, sông Lam,
sông Hồng, cửa biển Đà Nẵng, Hải Vân Quan, sông Cửu Long,… tượng trưng cho “Địa”
(đất).
Hình ảnh về các loài động thực vật (cây cỏ, hoa trái, chim muông,…) và các thứ vũ khí,
thuyền, xe: hoa tử vi, hoa sen, hoa hải đường; củ hành, củ nghệ, rau hẹ, rau kiệu, đậu
xanh, cây lúa, cây xoài, cây mít, cây nhãn, cây mai, cây ngô đồng, cây quế, gỗ lim, trầm
hương; chim trĩ, chim công, tổ yến, ba ba, hổ, báo, đồi mồi, cá sấu, rùa, tê giác, ngựa, voi,
heo, cá rô, cá tràu, nghêu, sò; đại bác, gươm, nỏ, giáo mác, đạn, thuyền,… tượng trưng
cho sự tồn tại của con người tức là tượng trưng cho “Nhân”.
Cao Đỉnh có núi Thiên Tôn ở Thanh Hóa tượng trưng cho nguồn gốc của dòng họ
Nguyễn, sông Bến Nghé ở Gia Định là vùng đất dấy nghiệp của chúa Nguyễn, hình mặt
trời, biển Đông,…
Nhân Đỉnh có sông Hương, núi Ngự là hình ảnh của đất Kinh sư, hình ảnh cây ngô đồng
tượng trưng cho sự thái bình thịnh trị, hình mặt trăng,…
Chương Đỉnh có núi Kim Phụng, sông Lợi Nông, sông Gianh (Quảng Bình),…

Với chức năng là trọng khí đặt ở trước sân tông miếu của nhà Nguyễn, là báu vật tượng
trưng cho đế nghiệp muôn năm vững bền của triều Nguyễn, tên gọi của mỗi đỉnh đang
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
19


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn


mang hàm ý của Minh Mạng: là thụy hiệu của các vua triều Nguyễn. Chẳng hạn như Cao
đỉnh chính là thụy hiệu của Nguyễn Thế Tổ Cao hoàng đế, Nhân đỉnh là thụy hiệu của
chính vua Minh Mạng, Chương đỉnh là thụy hiệu của vua Thiệu Trị, Anh đỉnh là thụy
hiệu của vua Tự Đức, Nghị đỉnh là thụy hiệu vua Kiến Phúc, Thuần đình là thụy hiệu của
vua Đồng Khánh, Tuyên đỉnh là thụy hiệu của vua Khải Định. Tất nhiên các vua Dục
Đức,Hiệp Hòa bị Tôn Thất Thuyết phế truất và giết chết; vua Hàm Nghi lãnh đạo phong
trào Cần Vương chống Pháp; hai cha con vua Thành Thái, Duy Tân bị người Pháp phế
truất và lưu đày; vua Bảo Đại thoái vị...đều không được đặt tên miếu hiệu và thụy hiệu.
Do đó, tên của Dụ đỉnh và Huyền đỉnh không trở thành thụy hiệu của bất kì vị vua nào
triều Nguyễn.
Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông,
tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền uy và sức mạnh của người
đứng đầu thiên hạ. Dễ hiểu tại sao số 9 là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc
đúc Cửu Đỉnh cho triều đại mình: tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp
theo số 9. 9 vì tinh tú và hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ là Mặt Trời, Mặt Trăng, Gió,
Sét, Mây, Mưa, Ngũ tinh, Bắc Đẩu, Nam Đẩu; 9 ngọn núi lớn là Thiên Tôn, Ngự Bình,
Thương Sơn, Hồng Lĩnh, Tản Viên, Duệ Sơn, Đại Lãnh, Hải Vân, Đèo Ngang; 9 sông lớn
là Bến Nghé, sông Hương, sông Gianh, sông Mã, sông Lô, Bạch Đằng, Thạch Hãn, sông
Lam, sông Hồng; 9 con sông đào và sông khác là kênh Vĩnh Tế, sông Vĩnh Điện, sông
Lợi Nông, sông Vệ, sông Phổ Lợi, sông Thao, sông Cửu An, sông Ngân Hà. Rồi 9 loài
chim, 9 loài cây lương thực, 9 loại rau củ, 9 loài hoa, 9 loại cây lấy quả, 9 loại dược liệu
quý, 9 loại cây thân gỗ, 9 loại vũ khí chiến trận, 9 loại thuyền bè, xe cộ, cờ. Tất cả những
số 9 ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên sông núi đất trời Việt Nam
hoành tráng.

Họa tiết Hải Vân Quan chạm nổi trên Dụ đỉnh và họa tiết chim Hạc trên Anh Đỉnh
Con số 9 cũng kết thúc một vòng lịch đại đầy đủ, tương ứng với cửu tộc. Khởi đầu từ
“Cao” tức thế hệ khai sáng và kết thúc ở “Huyền” là thế hệ sau cùng, khép kín một chu
kỳ để đi vào cõi vĩnh hằng. Từ Cao đến Huyền trong hệ thống thế thứ lịch đại, mỗi thế hệ

tượng trưng cho một đức tính tốt: “Cao”, tức người khởi dựng, tượng trưng cho sự vĩ đại,
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
20


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

“Nhân” là lòng tốt, tượng trưng đức, “Chương” là sự gương mẫu, là ánh sáng, “Anh” là
tài giỏi vinh hạnh, hiển đạt, “Nghị” là ý chí kiên cường, cương nghị, “Thuần” là sự hoàn
thiện, phong phú, “Tuyên” là sự hài hòa, tinh
thông, “Dụ” là nền tảng sự thịnh vượng và
“Huyền” ứng với nơi sâu thẳm.
Chính vì thế, con số 9 ở đây là số nhiều, đầy
đủ nhất đến mức hoàn tất, để rồi sang con số
10 sẽ trở lại từ đầu theo một chu kỳ mới. Qua
đó, Minh Mạng thể hiện ước muốn trường tồn
của quốc gia Đại Nam và uy quyền của triều
Nguyễn mãi vững bền đến nhiều đời con cháu
ông sau này. Nhưng chỉ đến đời Bảo Đại người cháu 6 đời của Minh Mạng, nhà Nguyễn
đã chính thức sụp đổ, kéo theo sự cáo chung của nền quân chủ Việt Nam.
Có thể nói Cửu Đỉnh là bộ bách khoa toàn thư về danh lam thắng cảnh của một đất nước
Việt Nam thu nhở. Cả giang sơn gấm vóc nhất thống, hùng cường toát lên từ 162 hình
đúc nổi mang trọn tư tưởng Việt, non sông và vạn vật Việt. Đã hơn 150 năm, Cố Đô Huế
đã trải qua biết bao thăng trầm, biến đổi nhưng rất quý là 9 đỉnh vẫn còn nguyên vẹn.
Cửu Đỉnh có thể coi là một cuộc triển lãm những tác phẩm mỹ thuật rất tinh tế của những
nghệ nhân tài hoa, là biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất của đất nước Đại Nam và
ước mơ triều đại mãi vững bền, hùng mạnh. Tất cả 162 mảng hình trên Cửu Đỉnh là 162
bức chạm độc lập, hoàn chỉnh, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi
đồ đồng của Việt Nam, giữa văn hoá dân gian và văn hoá bác học, là bách khoa thư về
cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế kỉ 19.

Cửu Đỉnh là di sản văn hóa quý hiếm, có giá trị nhiều mặt của văn hóa Huế nói riêng,
Việt Nam nói chung.
11. Hiển Lâm Các
Hiển Lâm Các là một công trình kiến trúc nằm trong quần thể di tích cố đô Huế, trong
khu vực các miếu thờ, được xây dựng vào năm 1821 và hoàn thành vào năm 1822 thời
vua Minh Mạng, cùng lúc với Thế Miếu. Hiển Lâm Các nằm trong khu vực miếu thờ
trong hoàng thành Huế, cao 17 m và là công trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành.
Đây được xem là đài kỷ niệm ghi nhớ công tích của các vua nhà Nguyễn và các quan đại
thần có công lớn của triều đại.
Hai bên sân Thế Miếu là hai nhà Tả Tòng Tự và Hữu Tòng Tự, đó là nơi đặt bài vị của
các vị công thần. Còn tòa nhà Hiển Lâm Các này gồm 3 tầng là nơi thờ Thiên, Địa, Nhân.
Hiển Lâm Các nằm trên một khối nền cao hình chữ nhật rộng 270m 2 lát gạch Bát Tràng,
xây bó bằng gạch vồ, vôi vữa. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc đá thanh
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
21


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

ở trước và sau. Mỗi hệ thống có 9 bậc, gồm 3 lối đi, trong đó lối đi ở giữa là lối đi dành
riêng cho Vua.
Hiển Lâm Các là một tòa nhà bằng gỗ 3 tầng, cao 13m, gồm 24 cây cột gỗ, trong đó có 4
cây cột gỗ lim nguyên khối, cao 12m xuyên từ tầng 1 đến tầng 3 làm xương sống cho tòa
nhà. Nếu 1 trong 4 cây cột gỗ ở đây bị hư hỏng thì thật khó để có thể tìm lại được cây cột
gỗ nào cao và to như thế để thay thế.
Tầng một của Hiển Lâm Các nơi có 3 gian, 2 chái, 3 mặt ngoài của hai chái xây bằng
gạch để bao che nội thất và gia cố sức chịu lực của các hàng cột thấp. Các hệ thống kèo,
liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm nổi các môtip hình rồng cách điệu hóa thành dây leo
lá cuốn. Trên cửa giữa có treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ “Hiển Lâm Các”, khung chạm
hình chín con rồng vờn mây sơn son thếp vàng được trang trí rất tinh xảo: “Hiển” có

nghĩa là hiển vinh, “Lâm” có nghĩa là quy tụ, “Các” có nghĩa là gác.
Cái tên này tương ứng với chức năng của Hiển Lâm Các - một lễ đài để tưởng niệm, suy
tôn và ghi nhớ công trạng các Vua Nguyễn và các công thần có công với triều Nguyễn.
Gian bên phải bắc một chiếc cầu thang bằng gỗ lên tầng trên được trang trí rất đẹp. Hai
tay vịn chia thành các ô hộc trang trí hình chữ “Thọ”, chữ “Vạn”. Đầu và cuối tay vịn đều
chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại rất tinh xảo. Đây được đánh giá là
chiếc cầu thang đẹp nhất Hoàng Cung. Lên cầu thang này sẽ đến tầng hai gồm 3 gian,
trước đây đặt án thư và sập Ngự sơn son thếp vàng, là nơi đặt án thờ Đất. Tầng hai lên
tầng ba cũng bằng một cầu thang gỗ, tầng này nhỏ hơn, chỉ có 1 gian, là nơi đặt án thờ
Trời. Trên nóc tầng ba nổi bật lên giữa các bộ mái lợp ngói hoàng lưu ly là “thái cực”
bằng pháp lam màu vàng đặt trên án mây pháp lam ngũ sắc. Trên các bộ mái của Hiển
Lâm Các còn treo nhiều cái chuông khi có gió thổi tạo ra âm thanh với ý nghĩa xua đuổi
tà ma cho chốn thờ tự uy nghiêm này.
Hai bên tòa nhà Hiển Lâm Các còn có hai lầu chuông và lầu trống, được dùng khi có
cúng lễ.
Toàn bộ hệ thống Hiển Lâm Các cao 13m. Là công trình cao nhất trong khu vực Kinh
thành. Vì sợ phá vỡ lối kiến trúc cổ của Cố Đô Huế nên ở bờ Bắc sông Hương cấm không
cho xây nhà cao quá 11m. Do đó, thi sĩ Bùi Giáng có viết mấy câu thơ ca ngợi vẻ đẹp cổ
kính trong Kinh thành:
“Bên kia lối mới, bên này cổ xưa
Càng nhìn, càng ngắm, càng ưa
Càng say phong cảnh, càng ngơ ngác lòng”
Tức là chỉ bên kia (bờ Nam) sông Hương là phố thị nhộn nhịp và huyên náo với các tòa
nhà cao tầng, còn bên này (bờ Bắc) sông Hương vẫn giữ được nét cổ xưa.

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
22


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn


Hiển Lâm Các là công trình đẹp và độc đáo của khu vực Hoàng Thành. Nó là công trình
được bảo quản tốt và được trùng tu nhiều lần, lần mới nhất vào năm 2001 (được xem là
lần trùng tu hoàn chỉnh nhất). Cụm từ Hiển Lâm Các, Thế Miếu và Cửu Đỉnh là 3 cụm từ
mà mọi người luôn nhắc liền nhau để cho thấy sự liên kết về mặt kiến trúc cũng như về
công dụng, chức năng của các công trình này và là một tổng thể không thể tách rời, chính
sự phối hợp với bố cục xung quanh cùng cảnh quan khiến cho giá trị của Hiển Lâm Các
rất quan trọng. Các đời vua Nguyễn, tất cả các công trình xây dựng đều phải thấp hơn
Hiển Lâm Các. Đây là công trình kiến trúc có giá trị về mặt kỹ thuật lẫn thẫm mỹ. Tòa
nhà cao tầng nhưng tỉ lệ cân xứng, hài hòa giữa các tầng với nhau. Sự đứng vững của tòa
nhà gần 2 thế kỉ đã thể hiện tài năng sự khéo léo của người thợ ở cả phương diện tạo nên
độ bền chắc và trang trí mỹ thuật để Hiển Lâm Các xứng đáng với chức năng biểu tượng
là một đài kỷ niệm của Hoàng triều.
12. Hưng Miếu
Hưng miếu là một trong những miếu thờ của Hoàng gia nhà Nguyễn nằm ở góc tây nam
của Hoàng thành Huế. Đây là miếu thờ ông Nguyễn Phúc Luân (1733-1765) và bà
Nguyễn Thị Hoàn, là thân phụ và thân mẫu của vua Gia Long (1802-1819).
Ông Nguyễn Phúc Luân là con của chúa thứ 8 của chúa Nguyễn Phúc Khoát (17381765), đáng lẽ ông sẽ lên kế vị ngôi chúa nhưng vì quyền thân Trương Phúc Loan làm rối
loạn kỉ cương của triều đình bấy giờ cho nên ông bị giam vào ngục và qua đời khi trở về
nhà riêng.Tuy mất sớm vào năm 32 tuổi nhưng ông đã để lại đến 6 người con trai và 4
người con gái , trong đó có Nguyễn Phúc Ánh, về sau lên ngôi với niên hiệu Gia Long-vị
Hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn sau này.
Sau khi lên ngôi Hoàng đế vào năm 1802, vua Gia Long tìm lại phần mộ của thân phụ và
thân mẫu của mình xây dựng một ngôi miếu để thờ phụng. Theo sử sách nhà Nguyễn,
ngôi miếu được xây dựng và hoàn tất chỉ trong 4 tháng (tháng 4 năm 1804 đến
tháng tháng 8 năm 1804) trên địa điểm của Thế Miếu ngày nay, chính thức sử dụng từ
tháng 3 năm 1805, ngôi miếu khi ấy có tên là Hoàng Khảo Miếu (ngôi miếu dùng để thờ
phụng vua cha).
Đầu năm 1820 vua Gia Long thăng hà ,năm sau vua Minh Mạng cho dời Hoàng Khảo
Miếu lùi về phía sau địa điểm cũ khoảng 50m và dùng chỗ này để xây dựng Thế miếu

Công việc di dời diễn ra từ 23-3 đến 16-4, sau khi hoàn tất ông cho đổi tên khu miếu
thành Hưng Tổ Miếu. Tháng 2 năm 1947, khu
miếu bị đốt cháy cùng với Tử Cấm Thành và
nhiều cung điện khác.
Năm 1950, Bảo Đại về Huế mua lại An
Khánh Vương từ, vốn là nơi thờ một người
dòng dõi hoàng tộc là An Khánh
Vương Nguyễn Phúc Quang (con vua Gia
Long) với giá 300.000 đồng (tiền lúc ấy) để
xây dựng lại thành Hưng Miếu mới. Năm

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
23


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

1951, một nhà thầu lúc bấy giờ có tên là Nguyễn Ngọc Bang được giao việc dời An
Khánh Vương từ về tái lập thành Hưng Miếu mới.
Năm 1995, nó được trùng tu lại một lần nữa. Trong lần này miếu được sơn son thiếp
vàng.
Kiến trúc của Hưng Miếu hiện tại có nền tảng từ An Khánh Vương từ. Nhưng vì mặt
bằng của Hưng Miếu cũ nhỏ hơn An Khánh Vương từ nên khi xây dựng người ta buộc
phải dời hai hàng cột mỗi bên và cắt bớt một số mái ở cả hai bên.
Trên một mặt bằng gần như vuông: 19m x 19,20m người ta cấu trúc tòa nhà theo thức
trùng diêm và trùng lương của các cung điện khác ở Huế. Miếu là một ngôi nhà kép
chừng 400m2 mái được lợp bằng ngói âm dương men vàng, nền cao 0,68 m bó bằng đá
Thanh. Toàn bộ dàn trò (9 hàng cột tình từ trước đến dau và 8 hàng cột tính từ trái sang
phải, kê chân trên đá tảng) cùng với các mảng trang trí đều được làm bằng gỗ
quý: lim, sao, kền kền, huê mộc. Tất cả các kèo đều được trang rất tinh xảo, mặt dưới và

mặt trên đều được trạm trổ hoa lá và hình ảnh có tác dụng làm các bộ phận gỗ trở nên nhẹ
nhàng. Các cột trốn tuy nhỏ, nhưng hai đầu được đẽo vuốt vào rồi nở ra hình hoa sen, rất
ăn khớp với nhau. Giữa 2 cột trốn của mỗi vì kèo còn dựng thêm các khung gỗ được
chạm lộng hình kỷ hà với kích cỡ khác nhau thay đổi theo từng tầng.
Hệ thống liên ba chia làm 4 tầng mỗi tầng phân khoảng thành các ô hộc được trang trí
theo lối Nhất thi Nhất họa khắc nổi nhiều chủ đề: đôi sáo, đàn tỳ, pho sách…đôi chỗ còn
có cả cây kiếm và cây như ý.
Mặt dưới mặt tiền hạ doanh được trang trí một dải bản gỗ hình chữ U chia ra làm ô hộc
với lối trang trí giống hệ thống nhất liên hạ.
Hai giang áp chót đối xứng nhau dưới trần thừa lưu, có hai bức đố bằng gỗ được chạm
nổi, chạm lộng, chạm kênh bông ở cả hai mặt trong và ngoài, ở chính giữa mỗi mặt là
hình ảnh nổi của một trong 8 bát bửu.
Đằng trước miếu có một hàng cột gồm sáu cái đứng trên mặt sân được xây bằng xi măng
giả đá. Ở đầu cột chắp hình hoa sen đỡ lấy con-xơn (console).
Phần chính doanh gồm có 3 gian và 2 kép, tiền doanh có 5 gian và 2 chái đơn. Mặt trước
của mỗi chái đơn mà mộ mảng tường xây được trang trí chữ "thọ" cách điệu, có tác dụng
tăng tính chịu lực.
Sân trước của Hưng Miếu có hình chữ nhật (20 × 18,45m) được lát gạch Bát Tràng.Chính
giữa sân là đường Thần đạo lát bằng đá Thanh. Gần thềm miếu song song với hàng cột
hiên là một dãy dôn bằng đá chạm gồm 6 cái, trên mỗi dôn đặt một cái thống sứ để trồng
cây kiểng.Ở góc sân bên phải có đặt một cái lư bằng sắt để đốt sớ và vàng mã khi cúng tế.
Trong khuôn viên Hưng Miếu ở hai bên trái phải còn có 2 ngôi nhà Thần Khố ( nay đã
hỏng ) và Thần Trù (đã được trùng tu ),chung quanh khuôn viên trổ nhiều cửa xây mang
tên Chương Khánh, Dục Khánh, Trí Tường, Ứng Tường nằm đối xứng nhau từng cặp và
cửa lớn nhất ở trước sân là “Miếu Môn”.
Một loại di tích rất đáng để ý nữa là bên trái khuôn viên hiện nay vẫn còn 2 tấm bia đá
được khắc dựng vào những năm 1804 và 1821, trên đó khắc ghi 2 bài vân ngự chế của
vua Gia Long và vua Minh Mạng nói về lịch sử xây dựng Thế Miếu và Hưng Miếu.

GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc

24


Nhóm 1 : Thuyết minh Đại Nội – Môn : Nghiệp vụ hướng dẫn

Nhìn chung mặc dù Hưng Miếu đã trải qua những biến thiên của lịch sử và những thay
đổi về kến trúc, xong nó vẫn là một di tích có giá trị nghệ thuật đặc sắc, nhất là ở phần
trang trí nội thất.
13. Cung Diên Thọ
Nằm ở phía tây Tử Cấm Thành, phía bắc điện Phụng Tiên và phía nam cung Trường
Sanh, cung Diên Thọ được coi là hệ thống kiến trúc cung điện quy mô nhất còn lại tại Cố
đô Huế, nơi ở của các Hoàng thái hậu hoặc Thái hoàng thái hậu triều Nguyễn . Tuy đã bị
hư hỏng và đổi thay bởi sự tàn phá của thời gian nhưng những di tích còn lại hiện nay
vẫn cho chúng ta hình dung được qui cách kiến trúc của một hệ thống cung điện ngày
xưa – một trong những khu vực kín cổng cao tường trong Đại nội, và hiểu biết phần nào
về nếp ăn ở, sinh hoạt của bà Hoàng Thái Hậu dưới thời quân chủ.
Năm 1802, vua Gia Long sáng lập nhà Nguyễn, lấy đô thành Phú Xuân của Đàng Trong
thời các chúa Nguyễn làm thủ đô của nước Việt Nam thống nhất dưới triều Nguyễn. Gia
đình hoàng tộc nhanh chóng chuyển về sống tại Hoàng thành Phú Xuân và cho khởi tạo
một loạt công trình kiến trúc để làm nơi ở, nhằm tỏ rõ uy quyền và đặc quyền của hoàng
gia. Trong bối cảnh ấy, tháng 4 năm 1804, vua Gia Long hạ lệnh xây dựng cung Trường
Thọ, thay thế cho Hậu Điện để trở thành cung điện cho vị Vương thái hậu đầu tiên của
triều Nguyễn. Sau 7 tháng thi công thì công trình hoàn thành. Ngày 20 tháng 11 năm
1804, nhà vua thân hành đưa bà Hiếu Khang hoàng hậu chính thức vào ở cung Trường
Thọ. Năm 1811, bà mất, được truy phong làm Hưng Tổ Hiếu Khang hoàng hậu. Sau sự ra
đi này, cung Trường Thọ bị triệt giải, gỗ dùng để xây dựng điện Thanh Hòa, là nơi ở của
vua Minh Mạng khi ông được phong làm
Hoàng thái tử năm 1816
Năm 1820, vua Minh Mạng lên nối ngôi sau
cái chết của vua cha. Ông đã cho quy hoạch

lại và kiến thiết, xây dựng mới rất nhiều công
trình cung điện trong Đại Nội, tạo nên căn
bản bộ mặt Đại Nội còn tồn tại đến ngày nay.
Sau khi Minh Mạng lên ngôi, bà Thuận
Thiên Cao hoàng hậu - mẹ của vua được tôn
phong làm Hoàng thái hậu. Đồng thời, trên khuôn viên cung Trường Thọ cũ, vua cho đại
tu xây dựng cung điện mới, đặt tên là cung Từ Thọ để làm chỗ ở cho bà.
Năm 1846, bà Thuận Thiên hoàng hậu qua đời, ít lâu sau, cung Từ Thọ được chuyển giao
cho vị chủ nhân mới, bà Từ Dũ hoàng thái hậu, mẹ vị tân hoàng đế Tự Đức vừa kế vị vào
năm 1847. Ngày 4 tháng 9 năm 1848, vua hạ lệnh triệt giải kết cấu cung Từ Thọ để xây
cung điện mới với kết cấu hoàn toàn khác. Ngày 20 tháng 2 năm 1849, công trình xây
dựng cung Gia Thọ được khởi công, tháng 4 năm ấy thì hoàn thành.
Năm 1901, vua Thành Thái đổi tên cung Gia Thọ làm cung Ninh Thọ.
Năm 1916, vua Khải Định lên ngôi, cung Diên Thọ lại đổi chủ, thuộc về bà Thánh Cung,
con gái Nguyễn Hữu Độ, hoàng quí phi vua Đồng Khánh Trong hai năm đầu vua Khải
GVHD : Th.s Huỳnh Ngọc
25


×