Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Rèn luyện kỹ năng nói tiếng anh của học sinh khối lớp 10 trường trung học phổ thông chuyên thoại ngọc hầu thông qua hoạt động đối thoại và đóng kịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 48 trang )

Trường Đại học An Giang
Khoa Sư phạm
*************************

Người thực hiện
Họ và tên: Mạch Bửu Hiền
MSSV: DAV011380
Lớp: ĐH2D

Tên đề tài:
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CỦA HỌC
SINH KHỐI LỚP 10 TRƯỜNG THPT CHUYÊN
THOẠI NGỌC HẦU THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG ĐỐI
THOẠI VÀ ĐÓNG KỊCH

Giáo viên hướng dẫn
NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY
An Giang, năm 2004


MỤC LỤC
Lời cám ơn
Phần I: Những vấn đề chung
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích của đề tài
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
5. Giả thuyết khoa học
6. Nhiệm vụ của đề tài
7. Phương pháp nghiên cứu
Phần II: Nội dung nghiên cứu


Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài
I. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1. Khái quát những nghiên cứu đã có về hoạt động đối thoại và
đóng kịch
2. Việc tổ chức cho học sinh đối thoại và đóng kịch ở các trường
THPT: những yêu cầu đạt được và chưa đạt được
II. Cơ sở lý luận của đề tài
1. Các vấn đề về việc giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp
a. Khái niệm về giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp
b. Vai trò và đặc điểm của việc giảng dạy ngôn ngữ giao
tiếp
2. ĐốI thoại
a. Khái niệm
b. Những thuận lợi của bài đối thoại
c. Các bước chuẩn bị khi thiết kế một bài đối thoạI
d. Các bài đối thoại mẫu
d.1. Mãu đối thoại có gợi ý
d.2. Mẫu đối thoại chưa hoàn chỉnh
d.3. Khung hội thoại
d.4. Đối thoại theo hình ảnh gợi ý
e. Những yêu cầu khi thực hiện bài đối thoại
3. Đóng kịch
a. khái niệm
b. Những thuận lợi của đóng kịch
c. Những điều cần lưu ý khi tổ chức hoạt động đóng kịch
d. Một số hình thức tổ chức cho học sinh đóng kịch
Chương II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
I. Giới thiệu sơ lược về khách thể nghiên cứu
II. Cách thức tiến hành nghiên cứu
1. Điều tra các hình thức tổ chức hoạt động trên lớp

2. Tổ chức thực nghiệm
III. Kết quả nghiên cứu
1. Các tiêu chí đánh giá
2. Kết quả thực nghiệm

Trang
3
4
5
5
5
6
6
6
6
8
9
9
9
11
12
12
12
12
13
13
13
14
15
15

16
17
18
20
20
20
20
22
23
26
26
26
26
27
29
29
30

1


Chương III. Đánh giá kết quả nghiên cứu
I. Đánh giá tổng quát
II. Đánh giá theo các tiêu chí
1. Đánh giá theo tiêu chí
2. Nguyên nhân
Phần III. Kết luận và đề xuất
I. Kết luận
II. Đề xuất
1. Đề xuất đối với giáo viên THPT

2. Đề xuất đối với người nghiên cứu cùng đề tài
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

33
33
33
33
35
37
38
39
39
42
43
44

2


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của các ban ngành và quý thầy cô sau:
Trước hết tôi chân thành cảm ơn Khoa Sư Phạm Trường Đại Học An
Giang, Ban Giám Hiệu trường THPT Chuyên Thoại Ngọc Hầu, Phòng Công
Tác Sinh Viên của trường ĐHAG đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm
vụ.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất đến quý
thầy cô của khối ngoại ngữ, đặc biệt là cô Nguyễn Thị Bích Thủy, đã tận tình
hướng dẫn cho tôi thực hiện đề tài này. Cô không ngại thời gian đọc và góp ý

những thiếu sót trong bài nghiên cứu đồng thời giới thiệu và cung cấp tài liệu
quý giá về cách tổ chức hoạt động đối thoại và đóng kịch. Cuối cùng, tôi xin gửi
lời cám ơn đến cô Nguyễn Thị Thanh Hoa, giáo viên dạy tiếng Anh ở trường
THPT Chuyên Thoại Ngọc Hầu. Cô đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu và thiết kế bài đối thoại mẫu để tiến hành thực nghiệm.
Một lần nữa, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến quí thầy cô đã
giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu. Chính nhờ sự hướng
dẫn tận tình của quý thầy cô đã giúp tôi có thêm được nhiều kinh nghiệm giảng
dạy quý giá và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Trân trọng cám ơn

3


PHẦN I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

4


1. Lý do chọn đề tài :
Một trong những mối quan tâm hiện nay của giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đây là nhiệm vụ hàng
đầu ở trường THPT nhằm giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh.
Bên cạnh đó, xu hướng mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế, tiếng Anh
được xem là phương tiện cần thiết giúp học sinh có thể giao tiếp hiệu quả, học
hỏi kinh nghiệm và tiến xa hơn trên con đường học vấn. Việc dạy và học môn
tiếng Anh đã trở thành một trong những nhu cầu rất bức xúc. Thời gian qua,
nhìn chung việc giảng dạy môn tiếng Anh đã có nhiều cải tiến nhằm đáp ứng

nhiệm vụ rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh THPT.
Tuy nhiên việc giảng dạy môn tiếng Anh ở các trường THPT vẫn chưa
đáp ứng hiệu quả những yêu cầu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Trước hết là do hạn chế về thời gian, nội dung chương trình nhiều
đòi hỏi giáo viên phải đảm bảo truyền đạt đầy đủ trong từng tiết dạy do vậy giáo
viên không có nhiều thời gian cho học sinh rèn luyện, đặc biệt là kỹ năng nói
tiếng Anh. Bên cạnh đó, các hoạt động giáo viên tổ chưa phong phú và chưa
phát huy hứng thú rèn luyện kỹ năng nói của học sinh. Khả năng nói tiếng Anh
của học sinh THPT nói chung còn rất nhiều hạn chế, các em thường có tâm lý
sợ nói sai, nhút nhát và thụ động trong hoạt động giao tiếp bằng tiếng Anh do
có rất ít cơ hội rèn luyện kỹ năng nói. Vì vậy, là giáo viên dạy tiếng Anh tương
lai, tôi muốn tìm hiểu vấn đề và giải pháp cho đề tài “Rèn luyện kỹ năng nói
tiếng Anh cho học sinh khối 10 ở trường THPT Thoại Ngọc Hầu qua hoạt động
đối thoại và đóng kịch”, giúp học sinh nói tiếng Anh hiệu quả hơn. Kết quả
nghiên cứu sẽ giúp em có thêm kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn để hoàn
thành tốt nhiệm vụ giảng dạy sau này. Bên cạnh đó, thành công của đề tài sẽ
góp phần nâng cao kỹ thuật nói tiếng Anh nói riêng và chất lượng môn tiếng
Anh nói chung.
2. Mục đích của đề tài
-

Điều tra việc sử dụng hoạt động đối thoại và đóng kịch ở trường
THPT Thoại Ngọc Hầu.

-

Tìm hiểu cách thức tổ chức hiệu quả cho học sinh đối thoại và đóng
kịch.

-


Cải thiện khả năng nói tiếng Anh cho học sinh THPT nói riêng và chất
lượng học tập môn tiếng Anh ở trường THPT nói chung.

5


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu : học sinh khối lớp 10 và các giáo viên tiếng Anh
ở trường THPT Thoại Ngọc Hầu .
- Đối tượng nghiên cứu : rèn luyện kỹ năng nói tiếng Anh của học sinh
qua hoạt động đối thoại và đóng kịch.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
- Tổ chức một số hoạt động cho học sinh đối thoại và đóng kịch nhằm
nâng cao khả năng nói tiếng Anh của các em khối lớp 10 trường
THPT Thoại Ngọc Hầu
5. Giả thuyết khoa học :
Qua tổ chức các hoạt động đối thoại và đóng kịch hiệu quả, thú vị sẽ
giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã học một cách năng động, sáng tạo
nhằm rèn luyện kỹ năng nói tiếng Anh.
6. Nhiệm vụ của đề tài :
- Nắm vững lý luận về phương pháp tổ chức các hoạt động đối thoại và
đóng kịch cho học sinh.
- Kết luận về tính thực tiễn và hiệu quả của hoạt động đối thoại và đóng
kịch .
- Đề xuất biện pháp vận dụng hiệu quả các hoạt động đối thoại và đóng
kịch .
7. Phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp đọc sách
+ Tìm hiểu tài liệu về phương pháp giảng dạy môn tiếng Anh

+ Tìm hiểu tài liệu về cách thức tổ chức các hoạt động đối thoại và
đóng kịch
- Phương pháp phỏng vấn
+Tìm hiểu quá trình tổ chức đối thoại và đóng kịch và hiệu quả của nó
+ Tổng kết những lý luận về cách thức tổ chức đối thoại và đóng kịch.
- Phương pháp điều tra phỏng vấn
+ Phát phiếu điều tra nhằm tìm hiểu thực trạng tổ chức hoạt động đốI
thoạI và đóng kịch cho học sinh lớp 10 của trường THPH THoại Ngọc
Hầu.
- Phương pháp quan sát

6


+ Dự giờ giáo viên tiếng Anh nhằm tìm hiểu việc tổ chức cho học sinh
đối thoại và đóng kịch trên lớp.
- Phương pháp thực nghiệm
+ Chọn nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
+ Giới thiệu làm mẫu cho các học sinh đối thoại và đóng kịch.
+ Quan sát quá trình thực hiện và kết quả của hai nhóm
+ Xử lý và đánh giá kết quả thực nghiệm .

7


PHẦN II

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

8



CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
[[U\\
I. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU :
1. Khái quát những nghiên cứu đã có về tổ chức hoạt động đối
thoại và đóng kịch
Từ khi áp dụng phương pháp giao tiếp (Communicative Approach) vào
giảng dạy trong các trường THPT, chất lượng học tập môn tiếng Anh đang dần
dần được cải thiện. Học sinh không còn học một cách thụ động theo phương
pháp giảng dạy cũ là chú trọng văn phạm và luyện dịch từ tiếng Anh sang tiếng
Việt và ngược lại. Thay vào đó học sinh được tạo cơ hội sử dụng ngôn từ nhiều
hơn nhằm phát triển đồng đều bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Học sinh được
làm quen những ngữ cảnh, tình huống có vấn đề đòi hỏi các em phải tư duy,
năng động và sáng tạo hơn trong quá trình sử dụng ngôn ngữ. Điều này đáp
ứng được yêu cầu của việc giảng dạy ngoại ngữ là giáo viên phải tạo được nhu
cầu sử dụng ngôn ngữ và phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh giúp
các em sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả và tự nhiên hơn thông qua các
hoạt động giao tiếp.
Vì thế trong những năm qua, đã có nhiều nghiên cứu về cách thức tổ
chức hoạt động trên lớp nhằm phát huy tính tích cực sử dụng tiếng Anh của
học sinh. Mục đích của các bài nghiên cứu đều hướng đến việc nâng cao chất
lượng giảng dạy môn Tiếng Anh ở các trường THPT vì đây là một trong những
yêu cầu cấp thiết để đạt được mục tiêu giáo dục THPT. Trong đó, những
nghiên cứu nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh THPT được nhiều giáo
viên quan tâm.
Nhìn chung những nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao kỹ năng nói cho
học sinh THPT tập trung vào các vấn đề như hoạt động nào có thể tiến hành
trên lớp đem lại hiệu quả nhiều nhất. Những hoạt động đó sẽ được tiến hành
như thế nào, làm sao có thể giải quyết được vấn đề thời gian. Những hoạt

động nào có thể khắc phục được một số khó khăn trong việc rèn luyện kỹ năng
nói tiếng Anh cho học sinh. Khó khăn trước hết là học sinh thường bị ức chế về
tâm lý như sợ nói sai, sợ giáo viên không hài lòng, hoặc sợ các bạn cười chê
dẫn đến việc không muốn phát biểu trên lớp hay không suy nghĩ xây dựng
đóng góp vào bài học và hoạt động. Thứ hai là khó khăn về việc tạo các mối
quan hệ giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh nhằm tạo môi trường học

9


tập phong phú. Thứ ba là khó khăn về thời gian trong quá trình tổ chức các
hoạt động rèn luyện kỹ năng nói. Hầu hết những khó khăn ấy được nhà sư
phạm nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp để khắc phục như tổ chức nhiều
hoạt động phong phú bao gồm vấn đáp, thảo luận, chơi trò chơi, kể chuyện, đối
thoại và đóng kịch.
Hoạt động đối thoại và đóng kịch đang được các nhà sư phạm trong
nước cũng như ngoài nước nghiên cứu và giới thiệu nhiều cách thức và hình
thức tổ chức sao cho việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh đạt hiệu quả cao
nhất và phù hợp với trình độ nhận thức và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
Hoạt động đối thoại và đóng kịch khi được tổ chức đúng phương pháp sẽ tạo
điều kiện cho học sinh nói tiếng Anh lưu loát và sáng tạo hơn. Hơn nữa, những
hoạt động này còn cải thiện được không khí học tập trên lớp sinh động và thú vị
hơn.
Tùy theo yêu cầu của bài học giáo viên có thể sử dụng hình thức đối
thoại với tình huống đơn giản hay phức tạp hơn để học sinh đóng kịch và thực
hành với nhau. Thông thường đối thoại có thể được sử dụng ở các giai đoạn
thực hành có kiểm soát, ít kiểm soát và đôi khi còn sử dụng ở giai đoạn thực
hành tự do. Riêng đốI với hoạt động đóng kịch thường được sử dụng ở các giai
đoạn thực hành ít kiểm soát và thực hành tự do vì hoạt động này khó hơn các
hoạt động khác. Giáo viên dựa vào nhận thức và trình độ của học sinh để lựa

chọn hình thức đối thoại phù hợp. Nếu hoạt động phù hợp, giáo viên sẽ giúp
học sinh có những bước luyện tập cơ bản từ đơn giản đến phức tạp, tạo được
cảm giác tự tin cho học sinh trong việc nói tiếng Anh. Hoạt động đối thoại và
đóng kịch bao giờ cũng diễn ra dưới hình thức hoạt động theo đôi, theo nhóm.
Ở các hoạt động này đòi hỏi học sinh phải làm việc, suy nghĩ nhiều hơn trong
việc diễn đạt ý tưởng của mình bằng tiếng Anh.
Mặt khác, hoạt động đối thoại và đóng kịch không chỉ áp dụng trong
những tiết dạy môn nói mà còn được sử dụng trong các tiết văn phạm và các
tiết học kỹ năng khác. Đối thoại và đóng kịch có thể giúp học sinh củng cố kiến
thức văn phạm, từ ngữ và khả năng phát triển tư duy sáng tạo. Nói tóm lại, hoạt
động đối thoại và đóng kịch kết hợp được nhiều kỹ năng giúp giáo viên cải
thiện được chất lượng học tập môn Tiếng Anh của học sinh đạt được mục đích,
yêu cầu đề ra.

10


2. Tổ chức cho học sinh đối thoại và đóng kịch ở trường THPT :
những yêu cầu đạt được và chưa đạt được
Vì những lợi ích của hoạt động đối thoại và đóng kịch trong việc rèn
luyện kỹ năng nói cho học sinh nói riêng và chất lượng học tập môn tiếng nói
chung, tôi muốn tìm hiểu hiệu quả những hoạt động này ở trường THPT, rút ra
bài học và giải pháp giúp tổ chức hoạt động đối thoại và đóng kịch hiệu quả
hơn.
Qua tìm hiểu thực tế, tôi nhận thấy giáo viên tiếng Anh ở trường THPT
có áp dụng hình thức đối thoại dù không thường xuyên và phần nào cũng cải
thiện được vấn đề tổ chức hoạt động cho học sinh rèn luyện kỹ năng nói. Tuy
nhiên, các hình thức tổ chức còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc tổ chức cho
học sinh đóng kịch trên lớp. Nguyên nhân trước hết là do hạn chế về thời gian.
Quá trình tổ chức cho học sinh đối thoại và đóng kịch mất nhiều thời gian từ

khâu chuẩn bị một bài đối thoại hay đóng kich đến khâu thực hiện. Trong khi đó
phải đảm bảo tiến độ giảng dạy và nội dung chương trình nên giáo viên gặp
nhiều khó khăn khi thực hiện các hoạt động này. Bên cạnh đó sách giáo khoa
hiện nay tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng đọc và văn phạm nên việc tổ
chức đối thoại và đóng kịch khó thực hiện theo yêu cầu. Kết quả là việc sử
dụng các hình thức đối thoại hay đóng kịch ở trường THPT vẫn chưa được
phong phú và chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng ngôn ngữ của học sinh
trong hoạt động giao tiếp.
Mặc dù có những nghiên cứu cách thức tổ chức hoạt động đối thoại và
đóng kịch nhưng phần lớn được tiến hành trong những lớp học ở các trường
Cao Đẳng và Đại Học còn ở trường THPT là phạm vi ít người thực hiện. Chính
vì những lý do đã nêu tôi quyết định nghiên cứu đề tài này với mong muốn khắc
phục khó khăn trên. Đề tài này có thể giúp cho bản thân tôi cũng như các bạn
sinh viên thực tập nhận ra được hiệu quả của các hoạt động đối thoại và đóng
kịch và tiến đến việc áp dụng các hoạt động đó trong quá trình giảng dạy sau
này. Đồng thời, đề tài này có thể giúp giáo viên tiếng Anh căn cứ vào đặc điểm
của học sinh mình lựa chọn hình thức hoạt động đối thoại và đóng kịch nhằm
cải thiện được khả năng nói tiếng Anh của học sinh.

11


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI :
1. Các vấn đề về giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp :
a.Khái niệm về giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp :
Giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp là quá trình giáo viên tạo mọi điều kiện
cho học sinh phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đồng thời giúp cho học
sinh cũng cố kiến thức văn phạm, chức năng và vốn từ ngữ của học sinh (“A
Methodology Course for English Language Teachers”,1994, trang 6).
b.Vai trò và đặc điểm của giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp :

Theo Roger Scott, “giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp đảm bảo tác động qua
lại giữa giáo viên và học sinh trong lớp học được diễn ra dưới hình thức ứng
khẩu, đối đáp và là điều kiện tiên quyết cho hoạt động giao tiếp”
(Communication

in

the

classroom,

Applications

and

Methods

for

a

Communicative Approach,1980, trang 71). Điểm trọng tâm của việc giảng dạy
ngôn ngữ thay đổi từ việc yêu cầu mức độ chính xác đến khả năng lưu loát
trong khi giao tiếp. Để làm được điều này người học phải làm quen tình huống,
đảm nhận các vai để giao tiếp với nhau. Những gì học sinh nói phụ thuộc vào
vai trò và tình huống mà họ đảm nhận, phụ thuộc vào mục đích giao tiếp và sự
đóng góp ý kiến của người tham gia đối thoại. Thông qua hoạt động giao tiếp
giáo viên có thể biết được trình độ, khả năng nhận thức và nhu cầu của người
học trong việc sử dụng ngôn ngữ .
Vai trò của giáo viên và học sinh trong việc dạy bài và học ngôn ngữ

cùng thay đổi. Thay vì trước đây giáo viên phải đưa ra những gợi ý và bài tập
cho phù hợp với yêu cầu về cấu trúc ngữ pháp cho học sinh luyện tập một cách
máy móc, nhưng bây giờ giáo viên phải tạo ra được những tình huống, ngữ
cảnh để hoạt động giao tiếp có thể diễn ra. Vì thế giáo viên phải đảm đương
nhiều vai trò : vai trò của người làm mẫu và hướng dẫn ngôn ngữ mục tiêu
(target language): vai trò của người tổ chức điều khiển hoạt động giao tiếp và là
người mà học sinh có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ. Giáo viên cần phải tạo ra
được nhiều tình huống giao tiếp để học sinh có thể luyện tập với nhau. Quá
trình giao tiếp sẽ diễn ra dưới các giai đoạn : Warm up Æ Presentation Æ
Practice Æ Production .
Để hoạt động giao tiếp diễn ra một cách tự nhiên và hiệu quả trên lớp,
giáo viên có thể đưa ra hình thức đối thoại và đóng kịch để học sinh thực hành

12


trong điều kiện hoạt động giao tiếp diễn ra giống như giao tiếp thật trong đó có
rất ít sự khống chế và kiểm soát về ngôn ngữ và lời nói của học sinh .
Hoạt động giao tiếp diễn ra dưới hình thức đối thoại và đóng kịch có đặc
điểm như sau :
- Ngôn ngữ được sử dụng có mục đích.
- Tạo được nhu cầu giao tiếp cho học sinh
- Khuyến khích học sinh sử dụng ngôn ngữ sáng tạo, độc lập, đóng góp ý kiến
và thể hiện quan điểm riêng của mình.
- Nội dung ngôn ngữ được chú trọng hơn là sự chuẩn xác về ngôn ngữ.
(Nguyễn Hạnh Dung, “Phương pháp dạy và học hiệu quả”, NXBGD1998, trang
54)
Những đặc điểm trên được thể hiện đầy đủ qua các hoạt động đối thoại và
đóng kịch.
2. Đối thoại

a. Đối thoại là gì ?
Đối thoại là một mẫu đàm thoại giữa hai người trở lên. Nó có thể là cuộc
đàm thoại diễn ra thật sự trong đời sống hay là cuộc đàm thoại do giáo viên tạo
ra để truyền đạt một vấn đề ngôn ngữ (Ron Forseth, Carol Forseth,
“Methodology Handbook for English Teachers in Vietnam”, 1994, trang 105)
b. Những thuận lợi của bài đối thoại :
Theo Ron Forseth và Carol Forseth việc sử dụng các hình thức đối thoại
có những thuận lợi sau ( “Methodology Handbook for English Teachers in
Vietnam”, 1994, trang 105):
- Đối thoại là hoạt động có sự tác động qua lại. Học sinh có thể học hỏi
lẫn nhau. Khi sử dụng ngôn ngữ hiếm khi chỉ có người nói còn người khác
nghe, cả hai người phải cùng trao đổi với nhau và diễn đạt theo cách riêng của
mình. Trong quá trình đối thoại học sinh nói lưu loát hơn sẽ là động lực cho học
sinh yếu hơn cố gắng và ra sức rèn luyện để theo kịp bạn mình và ngược lại
học sinh giỏi cũng không ngừng rèn luyện dưới tác động của bạn bè. Chính vì
những ảnh hưởng qua lại đó học sinh có động lực để cải thiện dần khả năng
nói tiếng Anh.
- Đối thoại tổng hợp được các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Thông
thường trước khi thực hành một đối thoại giáo viên tổ chức cho học sinh nghe
bài đối thoại hoặc giáo viên đọc. Sau đó học sinh đồng thanh đọc bài đối thoại.

13


Bước kế tiếp là giáo viên gọi từng đôi hay từng nhóm thực hành bài đối thoại.
Cuối cùng là học sinh có thể được giáo viên yêu cầu viết phần tiếp theo để mở
rộng và kết thúc cho bài đối thoại. Chẳng hạn, ở bài đối thoại sau đây, học sinh
A và B đang thảo luận về ngày lễ Lao động.
A : In what country was the first May Day celebrated?
B: Great Britain. But the US is the country where May Day was born.

A: Oh really? It sounds interesting. I never imagined that !
B: Yes, that’s right .
Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tiếp tục mở rộng bài đối thoại về
những hoạt động được tổ chức vào ngày Lễ Lao Động ở nước mình. Như vậy,
học sinh được rèn luyện đầy đủ các kỹ năng từ nghe, đọc, nói đến viết.
- Thêm vào đó, đối thoại còn tạo cơ hội để trình bày cấu trúc ngữ pháp trong
từng ngữ cảnh .
Ví dụ :
Tuấn : What are you going to do tonight?
Lan : I’m going to do my homework
Tuấn : What are you going to do tomorrow?
Lan : It is Sunday.I’m going to visit my friend .
Then we are going to see a moive
Thông qua bài đối thoại trên giáo viên nhằm mục đích giới thiệu cấu trúc
BE GOING TO cho học sinh thực hành .
Thuận lợi cuối cùng của đối thoại là nó giúp cho giai đoạn thực hành có
kiểm soát tiến hành hiệu quả hơn và tạo cơ hội cho hoạt động giao tiếp phát
triển tốt hơn bằng cách tổ chức cho học sinh đối thoại .
c. Các bước chuẩn bị khi thiết kế một bài đối thoại:
Trong quá trình giảng dạy, việc tổ chức cho học sinh đối thoại còn phải
phụ thuộc vào trình độ nhận thức của học sinh và yêu cầu của bài học. Mặc dù
có nhiều quyển sách giáo khoa có bài đối thoại mẫu để sử dụng trong lớp
nhưng chúng không phải lúc nào cũng phù hợp với từng lớp và trình độ của
học sinh. Do đó, ỵêu cầu giáo viên phải có năng lực thiết kế một bài đối thoại
cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, nội dung và cấu trúc ngữ
pháp của bài học để đạt được mục đích giảng dạy của mình. Khi thiết kế bài đối
thoại, giáo viên cần lưu ý các điểm sau:

14



- Xác định ngôn ngữ mục tiêu (target language) mà giáo viên muốn truyền đạt
cho học sinh. Ngôn ngữ mục tiêu có thể là một cấu trúc ngữ pháp, từ ngữ, khái
niệm để đạt được mục đích đã đề ra. Ngôn ngữ mục tiêu phải được diễn đạt rõ
ràng thông qua bài đối thoại để giúp cho học sinh xác định được mình cần phải
nắm vấn đề gì và như thế nào.
- Tạo ra được những tình huống thật và những vấn đề xảy ra trong cuộc sống
để học sinh thảo luận với nhau. Chẳng hạn như một học sinh đến lớp trể,những
công việc hằng ngày,thảo luận về tầm quan trọng của sức khoẻ, dự tính trong
tương lai v.v…
- Xác định được đối tượng tham gia vào cuộc đối thoại. Nói cách khác là giáo
viên phải xác định được cuộc đối thoại sẽ diễn ra giữa những người nào, làm
nghề gì, quan hệ với nhau như thế nào để học sinh có thể tham gia tự nhiên
hơn khi diễn đạt ngôn ngữ .
- Viết một bản phác thảo về bài đối thoại. Điều này giúp cho giáo viên có được
những ý chính cần thiết cho nội dung bài đối thoại. Khi phác thảo trước bài đối
thoại, giáo viên có thể điều chỉnh trật tự những lời nói cho logic và bổ sung
thêm những ý cần thiết để nội dung bài đối thoại phong phú hơn (Ron Forseth,
Carol Forseth, “Methodology Handbook for English Teachers in Vietnam”, 1994,
trang 106).
d.Các bài đối thoại mẫu :
Theo Nguyễn Hạnh Dung, (“Phương pháp dạy tiếng Anh trong trường phổ
thông”, NXBGD1998, trang 58) có các mẫu đối thoại sau:
d1.Mẫu đối thoại có gợi ý ( Scripted dialogue)
Là hình thức đối thoại yêu cầu học sinh thay thế thông tin giáo viên cung
cấp nhằm mục đích mở rộng nội dung bài đối thoại phong phú hơn. Mẫu đối
thoại này thường được sử dụng ở giai đoạn thực hành có kiểm soát và ít kiểm
soát .
Ví dụ : bài đối thoại nói về những dự tính ( talking about plans)diễn ra giữa Tom
và Susan

Target language : Thì hiện tại tiếp diễn
Tom : Say, Susan. What are you doing tonight?
Would you like to (1)_____________________?
Susan : Oh, sorry. I can’t. I’m going to (2)_____________late tonight.
Tom : Well, how about tomorrow night ? Are you doing anything then ?

15


Susan : No, I’m not. What are you planning to do ?
Tom : I’m going to (3) ________________.Would you like to come ?
Susan : Sure , I’d love to
* Những gợi ý thay thế :
(1)

(2)

- go out

- Work

- go to the concert

-

- visit David

house

My


(3)
- watch the film

grandmother’s - watch a football match
- come to a disco

- Mary’s birthday
- have a Chinese meal

- Write an essay

- come to a concert

Bài đối thoại trên có thể thực hiện theo các bước sau :


Giáo viên chép bài đối thoại lên bảng



Giáo viên làm mẫu bằng cách đọc bài đối thoại có thêm thông tin được
bỏ trống .



Học sinh lắng nghe và ghi nhớ lặp lại những thông tin đã nghe được sau
đó gọi một số học sinh thực hành.




Gợi ý thêm thông tin và yêu cầu học sinh thực hành .
Ở bài đối thoại này giáo viên có thể mở rộng thêm bằng cách sau khi

cho học sinh luyện tập theo mẫu đối thoại. Giáo viên chia nhóm và cho các học
sinh nói với nhau về những dự tính của mình .
d2. Mẫu đối thoại chưa hoàn chỉnh (semi – scripted dialogue)
Mẫu đối thoại này đòi hỏi học sinh phải có sử dụng tiếng Anh một cách
sáng tạo hơn, không hoàn toàn lệ thuộc vào giáo viên. Giáo viên không cung
cấp những thông tin để học sinh thêm vào mà chỉ gợi ý một số vấn đề có liên
quan và từ ngữ cần thiết cho bài đối thoại bằng cách đặt câu hỏi gợi ý để học
sinh trả lời. Học sinh có thể diễn đạt ý kiến của mình một cách linh hoạt .
Ví dụ : Target language : Conditional sentences / type 2 ( Câu điều kiện loại 2)
Teacher : What would you do if you were a billionaire ?
Student : If I were a Billionaire , I ______________________
Teacher : That sounds good __________________________ ?
Student : No, I wouldn’t . But I ___________ because my house is very old

16


Teacher : What would you do next ?
Student : I __________________________
Teacher : And would you ___________ for homeless people if they ________
Student : _____ sure, I would .
d3. Khung hội thoại ( díscourse chain)
Đây là hình thức đối thoại diễn tả quá trình diễn biến logic giữa nhiệm vụ
này đến nhiệm vụ khác hoặc gợi ý cho từng sự việc diễn ra liên tiếp yêu cầu
phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa những người tham gia vào cuộc đối thoại
Ví dụ 1 : Hôm nay là ngày chủ nhật, bạn mời bạn bè tham gia , một số các hoạt

động theo khung gợi ý sau :
Bạn

Bạn của bạn

Chào hỏi

Đáp lại

Mời bạn đi xem phim

Từ chối + đưa ra lý do

Mời bạn đi dã ngoại

Đồng ý

Đề nghị thời gian và nơi chốn

Không đồng ý về thời gian
+ Thỏa thuận thời gian

Tạm biệt

Tạm biệt

Ví dụ 2 : Để thực hành các mẫu câu hỏi về nơi chốn, hỏi đường và đưa ra
những lời chỉ dẫn. Giáo viên có thể phác thảo mẫu đối thoại giữa 3 người .

17



Bạn : Hỏi thăm 1 nơi

Khách qua đường (1)

Khách qua đường (2)

Không biết + nêu lý do

Hỏi lại “Pardon”

Bạn : Cám ơn + kết

Bạn hỏi lại 1 lần nữa

Thực hành đối thoại
Khách qua đường (2) : trả lời

Bạn kết thúc cuộc đối thoại
Mẫu đối thoại theo khung hội thoại có thể được viết theo nhiều dạng
khác nhau sao cho phù hợp với trình độ học sinh, yêu cầu bài học và làm tăng
sự hứng thú cho học sinh khi diễn đạt.
Mẫu đối thoại này có thể được sử dụng giai đoạn thực hành có kiểm
soát, ít kiểm soát và ngay cả ở giai đoạn thực hành tự do. Nó giúp cho giáo
viên biết được khả năng sử dụng ngôn ngữ, kiểm tra được kiến thức về ngôn
ngữ có liên quan trong một tình huống cụ thể và rèn luyện khả năng hoạt động
độc lập của học sinh trong giao tiếp.
Để khung hội thoại diễn ra theo yêu cầu của giáo viên, khi trình bày
khung hội thoại lên bảng, giáo viên cần gợi ý tình huống, câu nói và từ ngữ có

liên quan đến ngữ cảnh trong khung hội thoại.
d4. Đối thoại theo hình ảnh gợi ý ( picturecues dialogue)
Ngoài các hình thức đối thoại trên, giáo viên có thể sử dụng hình ảnh để
học sinh dựa vào đó thảo luận với nhau theo yêu cầu của giáo viên. Khi chọn
hình ảnh giáo viên phải chú ý đến nội dung và các tình huống trong hình sao
cho phù hợp với ngôn ngữ mục tiêu cần giảng dạy. Hoạt động đối thoại thông
qua những hình ảnh minh hoạ sẽ tập trung được sự chú ý và hứng thú của
họcsinh (Penny Ur, “A Course in Language Teaching”, trang 125).

18


Ví dụ 1 : đối thoại bằng cách mô tả hình ảnh

(Cambrige University Press 1996)
Căn cứ vào bức tranh ở trên , giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đối thoại
như sau :


Mỗi nhóm hoặc từng đôi được cung cấp một bức tranh. Giáo viên có thể
gợi ý một số thông tin trong hình và yêu cầu học sinh hỏi và trả lời về
đặc điểm hoặc hoạt động của những nhân vật trong tranh. Giáo viên cho
thời gian học sinh chuẩn bị và sau đó gọi từng nhóm, từng đôi lên trước
lớp trình bày .

Ví dụ 2: Thảo luận về sự khác nhau hoặc giống nhau giữa hai hoặc nhiều bức
tranh

( Cambridge University Press 1996)


19


Đây cũng là hình thức đối thoại. Giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh làm
việc theo từng đôi. Mỗi thành viên trong một đôi được cung cấp một bức tranh
khác với bạn của mình. Giáo viên yêu cầu học sinh được đưa cho bạn mình
xem mà họ phải hỏi và trả lời với nhau để tìm ra điểm khác biệt giữa hai bức
tranh .
e. Những yêu cầu khi thực hiện đối thoại :
Các mẫu đối thoại trên là những hình thức cơ bản. Giáo viên có thể sử
dụng trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh tuỳ theo mục đích
giảng dạ, khả năng nhận thức và diễn đạt ngôn ngữ của học sinh. Trong quá
trình thực hiện giáo viên phải kiểm tra cách phát âm, sự hiểu biết và hình thức
diễn đạt. Ở bước giới thiệu bài đối thoại, giáo viên phải giải thích tình huống rõ
ràng, cung cấp từ ngữ cần thiết liên quan đến ngữ cảnh. Giáo viên cũng cần
đảm bảo là học sinh nắm được yêu cầu như sử dụng mẫu câu theo ngôn ngữ
mục tiêu.
Hơn nữa, trong giai đoạn thực hành giáo viên phải đảm bảo quá trình
đối thoại diễn ra theo từng bước từ hoạt động có kiểm soát, ít kiểm soát đến
thực hành tự do và diễn ra theo trình tự giáo viên với cả lớp, giáo viên với học
sinh và học sinh với nhau thực hành từ open pairs đến closed pairs hay thảo
luận theo nhóm.
2. Đóng kịch
a. Khái niệm
Đóng kịch là cuộc đối thoại phát sinh giữa hai người hay nhiều người
đang đặt mình vào vai của người khác hoặc tưởng tượng mình đang ở trong
hoàn cảnh khác bên ngoài lớp học. đóng kịch thường sử dụng ở giai đoạn thực
hành tự do (Ron Forseth, Carol Forseth, “Methodology Handbook for English
Teachers in Vietnam”, 1994, trang 108).
Trong hoạt động đóng kịch yêu cầu học sinh đặt ngôn ngữ trong phạm vi

sử dụng cụ thể mặc dù việc sử dụng ngôn ngữ đó diễn ra chưa hoàn thiện
nhưng xét về mặt ý nghĩa có thể chấp nhận được và thỏa mãn được nhu cầu
diễn đạt ngôn ngữ theo cách riêng của mình hơn là chỉ đơn giản lập lại những
câu nói đã được giáo viên cung cấp.
b. Những thuận lợi của hoạt động đóng kịch :
Khi tổ chức cho học sinh đóng kịch, giáo viên sẽ có được những thuận
lợi sau :

20


- Đóng kịch giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ được tự nhiên hơn. Không
gian trong lớp tạo ra cho học sinh cảm giác tự nhiên khi thực hành tiếng nước
ngoài. Sự tự nhiên trong quá trình đóng kịch thể hiện qua việc học sinh không
cần phải sử dụng ngôn ngữ theo các mẫu câu của giáo viên mà các em có thể
diễn đạt theo ý của mình.
- Đóng kịch là hình thức cần thiết giúp cho học sinh phát triển óc tưởng
tượng và khả năng sáng tạo từ đó việc sử dụng ngôn ngữ sẽ được tự nhiên
hơn. Học sinh có thể tưởng tượng mình là một khách hàng đang mua hàng hoá
trong một cửa hiệu và bạn mình sẽ đóng vai trò người bán hàng. Như thế hoạt
động giao tiếp sẽ thú vị và sinh động hơn.
- Đóng kịch giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ tự do hơn. Học sinh không
phụ thuộc vào mẫu câu, cách diễn đạt theo một mẫu đối thoại nào mà chỉ cần
căn cứ vào tình huống giáo viên đưa ra và phát triển cuộc đối thoại theo cách
diễn đạt riêng. Mặc dù những câu nói của học sinh có thể chưa hoàn chỉnh,
chính xác nhưng các em có thể tự điều chỉnh, bổ sung qua góp ý của bạn bè và
bản thân tự nhận thức được. Chẳng hạn khi giáo viên yêu cầu học sinh diễn
đạt lời từ chối trong ngữ cảnh bạn bè mời đi cắm trại. Mỗi học sinh đều có cách
diễn đạt khác nhau như “ I really can’t. I’m sorry”, “Oh, I’d like to, but I can’t go”
hoặc “I wish I could but I really need to…” (Http:// exchanges.state.gov/

education/ engteaching/ pragmatics/ kondo.htm).
- Đóng kịch giúp cho học sinh có cảm giác tự tin hơn, không có cảm
giác sợ sệt khi giao tiếp với người khác. Thật vậy, nếu học sinh có thể thủ vai
một người nào đó thì họ sẽ vượt qua sự mắc cỡ và nỗi lo lắng bởi vì khi ấy học
sinh có cảm giác mình không là mình mà đang hoá thân vào người khác.
- Đóng kịch giúp cho học sinh có cơ hội nói nhiều về sự việc xảy ra trong
các lĩnh vực đời sống hơn là chỉ nói về chính mình hay nói về nội dung trong
bài học. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho học sinh học hỏi được nhiều hơn như mở
rộng được vốn từ, vốn hiểu biết của mình .
- Đóng kịch sẽ thu hút người khác quan sát và lắng nghe, nói cách khác
là thu hút được sự chú ý của tất cả các học sinh. Người tham gia đóng kịch biết
được một số lượng khán giả đang theo dõi mình sẽ tạo động lực cho họ ra sức
diễn đạt ý tưởng phong phú hơn, thu hút sự chú ý của người khác. Bên cạnh
đó giáo viên có thể kiểm soát được lớp học tốt hơn.

21


Như vậy hoạt động đóng kịch trên lớp góp phần làm cho việc giảng dạy
ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên hiệu quả hơn mặc dù bản thân các vai học
sinh biểu hiện không thật nhưng hoạt động giao tiếp sẽ diễn ra rất tự nhiên xuất
phát từ nhu cầu trao đổi thông tin, khả năng sáng tạo của học sinh.
c. Những điều cần lưu ý khi tổ chức hoạt động đóng kịch :
Khi đọc các tài liệu về việc tổ chức hoạt động đóng kịch, tôi nhận thấy có
nhiều hướng dẫn và yêu cầu trong quá trinh tổ chức. Trong chừng mực nào đó
tôi muốn giới thiệu một số bước khi chuẩn bị cho hoạt động đóng kịch (Http://
iteslj.org/ techniques/ kodotchigova – roleplay.html).
Bước 1 : Chọn tình huống
Giáo viên nên chọn hoạt động đóng kịch tạo cơ hội cho học sinh thực
hành những gì họ đã học. Bên cạnh đó, hoạt động này phải phù hợp với những

tình huống xảy ra trong cuộc sống, trong sách vở hay phim ảnh. Đây là những
yếu tố quan trọng để góp phần thiết kế một hoạt động đóng kịch hiệu quả .
Bước 2 : Giai đoạn thiết kế :
Trong quá trình thiết kế một hoạt động đóng kịch, giáo viên cần xem xét
trình độ sử dụng ngôn ngữ của học sinh (Livingstone, 1983). Giáo viên phảI có
khả năng đơn giản hóa và làm cho hoạt động đóng kịch thích hợp với từng đối
tượng vì ở hoạt động đóng kịch đòi hỏi khả năng sử dụng ngôn ngữ sâu và
phức tạp hơn.
Bước 3 : Chuẩn bị về ngôn ngữ
Điều này có nghĩa là giáo viên phải tiên đoán được những câu nói nào,
những từ ngữ nào cần thiết để tiến hành hoạt động đóng kịch và giáo viên phải
giới thiệu, gợi ý trước những từ ngữ cần thiết. Tùy theo trình độ của học sinh
mà giáo viên có thể gợi ý nhiều hay ít. Chẳng hạn đối với học sinh có trình độ
thấp, giáo viên có thể gợi ý tình huống xảy ra trong một hiệu sách giữa người
mua và người bán như “How do you greet your customer?” hay “What will the
salesperson say?”. Với sự hướng dẫn như thế của giáo viên sẽ giúp cho học
sinh cảm giác tự tin hơn trước khi đóng vai.
Bước 4 : Chuẩn bị các sự kiện :
Ở bước này giáo viên cung cấp cho học sinh những thông tin cụ thể và
sự mô tả các vai rõ ràng. Thí dụ như ở tình huống đóng kịch xảy ra trong một
nhà hàng người phục vụ phải làm những việc như yêu cầu thực khách gọi món
ăn, giới thiệu thức ăn và người đóng vai thực khách sẽ nhận xét món ăn v..v..

22


Khi mô tả những đặc điểm của các vai sẽ giúp cho học sinh biết được mình cần
phải nói những gì cần thiết cho nội dung hoạt động đóng kịch phong phú hơn.
Bước 5 : Giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động đóng kịch
Khi tiến hành hoạt động đóng kịch, giáo viên có thể kêu gọi sự tình

nguyện của học sinh lên trình bày trước lớp sau khi đã cho thời gian học sinh
chuẩn bị trên lớp. Đôi lúc giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị ở
nhà đối với những tình huống khó và phức tạp.
Trong khi hoạt động đóng kịch diễn ra, vai trò của giáo viên chỉ được thể
hiện một cách thầm lặng . Giáo viên quan sát và lắng nghe học sinh thực hành
và ghi chép những lỗi của học sinh. Trong qua trình ghi chép lỗi của học sinh
giúp giáo viên nhận được những thông tin phản hồi từ đó chuẩn bị tốt hơn ở lần
thực hành sau.
Bước 6 : Giai đoạn kết thúc : (Follow_up)
Trong giai đoạn kết thúc, giáo viên nên để cho học sinh nhận xét và tìm
ra lỗI cho nhau trước khi giáo viên có thể chỉ ra những chổ cần cảI tiến trong
các bài đối thoại. Theo Livingstone (1983), sau khi đóng kịch xong, học sinh
thường có xu hướng hài lòng về những gì mình đã thể hiện. Học sinh nghĩ rằng
họ đã sử dụng ngôn ngữ một cách khá hoàn chỉnh và cụ thể. Cảm giác này mất
đi nếu giáo viên nêu ra hết những lỗi của họ và phân tích chúng. Điều này sẽ
làm cho học sinh mất đi sự tự tin và hứng thú khi thực hiện những hoạt động
đóng kịch tiếp theo. Thay vào đó giáo viên nên hỏi ý kiến của học sinh về hoạt
động đóng kịch và tiếp nhận một cách vui vẻ những nhận xét đó. Mục đích của
việc thảo luận là nêu ý kiến về những gì đã xảy ra trong vở kịch và học sinh học
tập được những gì.
d. Một số hình thức tổ chức cho học sinh đóng kịch :
Sau đây là một số hình thức tổ chức hoạt động đóng kịch, giáo viên có
thể dựa vào đó để thiết kế cho học sinh của mình rèn luyện.
d1. Học sinh đóng vai có gợi ý chi tiết
Ví dụ : Trong ngữ cảnh một người khách du lịch vừa mới đến thăm thành phố
và gọi xe taxi để đến nơi anh (cô) ấy muốn. Giáo viên có thể cho những gợi ý
sau :
- Vai người lái taxi :

23



Bạn là tài xế taxi :
* Chào khách và hỏi xem anh (cô) ấy muốn đi đâu
* Nói giá cả . Bình luận về thời tiết. Hỏi xem hành khách có thích thời tiết hôm
nay không?
* Trả lời câu hỏi của hành khách. Khoe con trai của bạn vừa mới giành được
giải thưởng trong cuộc thi bơi lội ở trường. Hỏi xem hành khách có thích bơi lội
không?

- Vai người khách được lịch :

Bạn là khách đi xe taxi
* Chào hỏi tài xế và nói nơi bạn muốn đi. Hỏi giá
* Trả lời câu hỏi tài xế và hỏi anh ta thích thời tiết như thế nào ?
* Nói rằng bạn rất thích bơi lội và bạn đã học bơi cách đây 10 năm khi bạn đi
Pháp với gia đình .

d2. Học sinh đóng vai theo tình huống :
Ví dụ 1 : Đi mua sắm
A: Bạn là một khách hàng trong siêu thị. Bạn đang tìm đĩa hát tiếng Anh
mà bạn của bạn rất thích. Bạn muốn mua đĩa hát ấy để tặng cho cho bạn mình
nhân ngày sinh nhật.
B: Bạn là nhân viên siêu thị. Bạn nói đĩa hát ấy đã bán hết và gợi ý cho
khách hàng một số đĩa hát và đề nghị sẽ chọn giúp khách hàng .
Ví dụ 2 : Giáo viên có thể đưa ra tình huống cho học sinh xử trí
Nhân vật : Paul và Jack
Tình huống : Paul vừa đến văn phòng và chợt nhớ là mình đã quên tắt
bếp. Paul goi điện nhờ người hàng xóm, Jack, giúp đỡ vì anh ấy có cùng chìa
khóa mở được cánh cửa của căn hộ.

Những trường hợp đóng kịch trên đây giáo viên có thể sử dụng để tổ
chức cho học sinh rèn luyện kỹ năng nói tiếng Anh. Với đối tượng học sinh ở

24


×