Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

BIỆN PHÁP rèn kĩ NĂNG đọc TIẾNG VIỆT CHO học SINH CHẬM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ học hòa NHẬP tại các TRƯỜNG TIỂU học TRÊN địa bàn QUẬN LIÊN CHIỂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.34 KB, 8 trang )

BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH CHẬM
PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ HỌC HÒA NHẬP TẠI CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
SVTH: PHẠM THỊ QUỲNH NI
Lớp 04DB, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
GVHD: TS. LÊ QUANG SƠN
TÓM TẮT
Một trong những yếu tố góp phần quyết định chất lượng học tập của học sinh
Tiểu học (HS TH) là kĩ năng đọc Tiếng Việt (TV). Ngoài ra, dạy TV trong đó có
dạy Tập đọc cho HS Chậm phát triển trí tuệ (CPTTT) nói riêng và HS nói chung
là điều kiện không thể thiếu để qua đó phát triển trí tuệ cho các em. Trong đề tài
này, trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, chúng tôi khảo sát và đánh giá
thực trạng dạy học phân môn Tập đọc của HS CPTTT khối 4 ở các trường Tiểu
học Quận Liên Chiểu-Đà Nẵng. Từ đó chúng tôi đề xuất các biện pháp nâng cao
hiệu quả rèn luyện KN đọc TV cho HS CPTTT học lớp 4 ở các trường TH trên
địa bàn Quận Liên Chiểu-Thành phố Đà Nẵng.
1. Mở đầu:
Một trong những yếu tố góp phần quyết định chất lượng học tập của HS TH là
KN đọc TV. Đọc TV là phương tiện để HS lĩnh hội và tiếp thu được các môn
học khác. Dạy TV trong đó có dạy Tập đọc cho HS CPTTT nói riêng và HS nói
chung là điều kiện không thể thiếu để phát triển trí tuệ cho các em.
Năm học 2006-2007, Đà Nẵng có 888 HS khuyết tật tham gia hoà nhập ở 87/88
trường TH trên địa bàn. HS CPTTT là 502 em chiếm 56,53%. Theo những
nghiên cứu ban đầu cho thấy chất lượng học tập môn Tập đọc là không cao. Cụ
thể như số em chưa biết đọc lớn, số em chưa hiểu nghĩa của văn bản được đọc
khá lớn…Muốn khắc phục những hạn chế này, đòi hỏi chúng ta phải đánh giá
một cách chính xác KN đọc TV của HS CPTTT khối lớp 4 học hòa nhập để từ
đó có những biện pháp khắc phục. Có quá ít công trình nghiên cứu vấn đề đọc
TV của HS khuyết tật, đặc biệt vấn đề đọc TV của HS CPTTT lớp 4 đến nay
vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống và triệt để.
Chúng tôi chọn đề tài “Biện pháp rèn KN đọc Tiếng Việt cho học sinh CPTTT


học hòa nhập ở các trường Tiểu học trên địa bàn Quận Liên Chiểu, thành phố
Đà Nẵng” nhằm bước đầu tìm hiểu kĩ năng đọc TV của HS CPTTT học hòa
nhập ở các trường TH trên địa bàn Quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng và đề
ra các biện pháp để rèn KN này.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận:
2.1.1. Các khái niệm chính của đề tài
* CPTTT: Theo DSM-IV tiêu chí chẩn đoán bao gồm:1) Chức năng trí tuệ dưới
mức trung bình, tức là chỉ số trí tuệ đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần
trắc nghiệm cá nhân.2) Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số 10
lĩnh vực hành vi thích ứng 3) Hiện tượng CPTTT xuất hiện trước 18 tuổi.


* Kĩ năng đọc là khả năng vận dụng những tri thức và hiểu biết đã có vào trong
hoạt động đọc TV. KN này thể hiện ở hai mặt: Kĩ thuật đọc (gồm tốc độ đọc,
ngữ điệu đọc, KN đọc đúng) và khả năng thông hiểu (gồm KN nhận dạng chi
tiết trong bài đọc,KN hiểu nội dung bài đọc, KN ứng dụng bài đọc, KN sáng tạo
bài đọc).
2.1.2. Những vấn đề lí luận về dạy KN đọc cho HS CPTTT
a) Những vấn đề lí luận về dạy học hoà nhập trẻ CPTTT
- Đ iều chỉnh chương trình dạy học phù hợp với khả năng và nhu cầu của trẻ
CPTTT
Phương pháp điều chỉnh: đồng loạt, đa trình độ, trùng lặp giáo án, thay thế.
Hình thức điều chỉnh: Thay đổi hình thức hoạt động của HS, hình thức giảng
dạy của GV, phong cách giảng dạy của GV, nội dung và yêu cầu, hình thức đánh
giá, các yếu tố của môi trường học, cách giao nhiệm vụ và bài tập, cách trợ
giúp...
N ội dung điều chỉnh: thời gian, m ôi trường trong lớp học, những vấn đề cần
điều chỉnh trong các môn học, các biện pháp tự quản, kiểm tra bằng nhiều hình
thức, tài liệu và học liệu, giao bài tập, những biện pháp kích thích, động viên

HS học tập.
- H ọc hợp tác nhóm trong dạy học hòa nhập: GV tổ chức cho HS đối diện nhau
trong nhóm học tập, cùng trao đổi, chia sẻ, tìm tòi những kinh nghiệm, những
kiến thức hay giải quyết nhiệm vụ học tập được giao. Trong khi đó, GV bao
quát, theo dõi hoạt động của HS và sẵn sàng làm cố vấn, trọng tài hay hỗ trợ các
nhóm khi cần thiết.
- T hiết kế và tiến hành bài học hoà nhập có hiệu quả: Thiết kế tổng thể là khái
niệm để chỉ việc tính trước các kết quả và môi trường để khi thực hiện bài học,
giáo viên đã có sẵn các giải pháp dự kiến cho từng nội dung hoạt động của cả
trẻ bình thường và trẻ khuyết tật với các bước: tìm hiểu năng lực, nhu cầu và sở
thích của trẻ, xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung và phương pháp tiến hành
bài học, xác định nội dung bài học, x ác định, sắp xếp các hoạt động dạy - học
và phương pháp tiến hành, t hiết kế tiến trình giờ học. Mô hình Bloom là một
công cụ quan trọng giúp GV biên soạn và tiến hành bài học có hiệu quả. Cấu
trúc của bất kỳ giờ học nào cũng gồm các khâu: mở bài, giải quyết bài và kết
thúc bài. Toàn bộ các khâu đều phải bám sát theo mục tiêu, hướng vào mục tiêu.
b) Những vấn đề lí luận về dạy học phân môn Tập đọc lớp 4
- Đặc điểm tâm lí của trẻ CPTTT: cảm giác, tri giác, trí nhớ, chú ý, tư duy, ngôn
ngữ của trẻ đều có những khó khăn và thuận lợi mà chúng ta cần lưu ý khi rèn
KN đọc cho trẻ.
- Môi trường giáo dục hòa nhập trẻ CPTTT: t heo các chuyên gia nghiên cứu
giáo dục trẻ khuyết tật thì môi trường giáo dục hoà nhập có những ảnh hưởng
tích cực đối với trẻ CPTTT trên những phương diện sau: xoá bỏ mặc cảm; giao
tiếp phát triển nhanh; phát triển tính độc lập; học được nhiều hơn.


- Nhiệm vụ của dạy học Tập đọc là hình thành năng lực đọc cho HS, giáo dục
lòng ham đọc sách, phương pháp và thói quen làm việc với sách, trau dồi kiến
thức ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho HS.
- Phương pháp dạy học Tập đọc lớp 4 gồm nhóm phương pháp dùng lời, trực

quan, thực hành và kiểm tra đánh gia.
- Những yêu cầu về KN đọc ở lớp 4: đọc lưu loát và biết thể hiện giọng đọc phù
hợp với văn bản, hiểu được đề tài, nội dung văn bản, nhận ra các mối quan hệ
trong bài…tốc độ đọc là 90 tiếng/phút.
2.2. Thực trạng dạy học Tập đọc cho HS CPTTT lớp 4 Quận Liên Chiểu, thành
phố Đà Nẵng.
2.2.1. Dạy học trên lớp
Tất cả GV đều thực hiện tiết Tập đọc theo tiến trình qui định của Phòng Giáo
dục-Đào tạo Quận Liên Chiểu
Hiện nay, giáo viên sử dụng 4 nhóm phương pháp dạy học chính đó là: dùng lời
và dùng chữ; trực quan; thực hành; kiểm tra đánh giá.
2.2.2. Công tác hướng dẫn phụ huynh hướng dẫn HS học ở gia đình
Hầu hết GV cho biết họ đã hướng dẫn, nhắc nhở phụ huynh hướng dẫn HS
CPTTT khi học ở nhà. Tuy nhiên việc nhắc nhở, hướng dẫn ở đây đều mang
tính chung chung, chưa có sự hướng dẫn cụ thể, chi tiết. Hầu hết các phụ huynh
đều không biết gì về chương trình học của con và những khó khăn mà con họ
gặp phải ở phân môn Tập đọc. Nhìn chung, các em hầu như ít được quan tâm,
hướng dẫn học ở gia đình.
2.2.3. KN đọc TV của HS CPTTT lớp 4 Quận Liên Chiểu, Đà Nẵng
- Kĩ thuật đọc
Tốc độ đọc TV của HS CPTTT lớp 4 Quận Liên Chiểu-Thành phố Đà Nẵng là
khá tốt với tốc độ đọc TV trung bình là 89,5 tiếng/phút. Trong đó: 30% học sinh
có tốc độ đọc là 121,5 tiếng/phút, 70% học sinh có tốc độ đọc là 57,6 tiếng/phút.
Ngữ điệu đọc TV: đọc TV chưa đúng ngữ điệu. Trong đó: 10% HS đọc đúng
ngữ điệu, 60% HS đọc chưa đúng ngữ điệu, 30% HS đọc không có ngữ điệu
Kĩ năng đọc đúng TV: khi đọc TV phát âm còn chưa đúng. Trong đó: 10% HS
phát âm đúng, 60% HS phát âm chưa đúng, 30% HS phát âm không đúng.
Chúng tôi tiến hành tổng hợp và đánh giá kĩ thuật đọc TV của các em theo ba
mức độ: Cao-mức 3; Trung bình-mức 2; Thấp-mức 1. Nhìn chung, kĩ thuật đọc
TV của HS CPTTT lớp 4 Quận Liên Chiểu-Thành phố Đà Nẵng ở mức độ thấp

là chủ yếu.
Chúng tôi cũng tiến hành điều tra trên giáo viên với 8 câu hỏi:100% giáo viên
đều cho rằng trình độ đọc của HS là ở mức chậm. 80% giáo viên cho rằng HS
đọc còn đánh vần và chỉ có 20% cho rằng các em đã đọc trơn tiếng.
Những lỗi thường gặp của học sinh CPTTT: Có tới 100% HS CPTTT mắc lỗi
khi đọc. Trong nhóm mắc lỗi thì mắc lỗi về âm là nhiều hơn các dạng mắc lỗi


khác. Trong đó có một số HS khi đọc thường bỏ sót từ hoặc thêm từ. Các em
thường đọc sai các dấu hỏi/ngã, một số em khi đọc thêm dấu huyền…
Kĩ thuật đọc TV của HS CPTTT có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng tới mức
độ mắc lỗi khi đọc của các em. Cụ thể là, trong nhóm HS có kĩ thuật đọc TV
cao có tới 100% là mắc lỗi ở mức độ thấp. Trong khi đó, nhóm HS có kĩ thuật
đọc trung bình có 100% HS mắc lỗi ở mức độ trung bình và nhóm HS có kĩ
thuật đọc thấp có tới 60% HS mắc lỗi ở mức cao và 40% HS mắc lỗi ở mức độ
trung bình.
- Kĩ năng thông hiểu
Kĩ năng nhận dạng chi tiết trong bài đọc TV: ở mức nhận dạng chưa đầy đủ các
chi tiết trong bài đọc TV. Trong đó có 60% HS nhận dạng chưa đầy đủ, 40% HS
không nhận dạng được các chi tiết trong bài đọc TV.
Kĩ năng hiểu nội dung bài đọc TV là ở mức hiểu nội dung của đoạn trong bài
đọc TV. Trong đó không có HS nào hiểu được nội dung cả bài, 70% HS hiểu nội
dung của đoạn và 30% HS không hiểu nội dung của bài đọc TV.
Kĩ năng ứng dụng bài đọc TV: chưa biết ứng dụng bài đọc TV
Kĩ năng sáng tạo bài đọc TV: không có khả năng sáng tạo bài đọc TV
60% GV cho rằng các em không nhận dạng được. 60% cho rằng các em có khả
năng nhận dạng nhưng chưa đầy đủ. 100% GV cho rằng các em không hiểu nội
dung, ý nghĩa của đoạn, bài; không ứng dụng được việc hiểu nội dung của bài
đọc và không sáng tạo được nội dung bài đọc.
Kĩ thuật đọc TV của HS CPTTT có ảnh hưởng đến khả năng thông hiểu TV của

các em. Biểu hiện là, trong 100% HS có kĩ thuật đọc TV thấp thì 50% có khả
năng thông hiểu thấp và 50% có khả năng thông hiểu trung bình.
2.2.3. Nguyên nhân thực trạng kĩ năng đọc Tiếng Việt của học sinh CPTTT khối
lớp 4 học hoà nhập ở các trường Tiểu học trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Thứ nhất , các đặc điểm của bản thân trẻ đã gây cho trẻ nhiều khó khăn khi rèn
luyện kĩ năng đọc TV. Trẻ CPTTT tri giác các đối tượng chậm hơn trẻ bình
thường nhất là tri giác thị giác. Trẻ CPTTT khó khăn trong việc phân biệt hóa
như phân biệt các chữ cái, vần, âm gần giống nhau, kể cả việc phân biệt các âm
gần giống nhau. Trẻ không thể chú ý, tập trung vào việc gì đó trong thời gian
dài. So với trẻ cùng độ tuổi thì trẻ CPTTT có sự phát triển ngôn ngữ chậm hơn,
nên trẻ khó khăn khi học phân môn Tập đọc. Do ghi nhớ ý nghĩa không tốt, trẻ
CPTTT khó khăn trong việc hiểu từ dẫn đến khó hiểu câu, đoạn, bài tập đọc.
Thứ hai , GV chưa thực sự hiểu trẻ và có những biện pháp hỗ trợ phù hợp. Cách
dạy phân môn Tập đọc của GV đứng lớp chưa đáp ứng được nhu cầu, sở thích
của trẻ, chưa phát huy được điểm mạnh của trẻ. 100% giáo án của GV không
thể hiện các hỗ trợ, không có sự tham gia của trẻ CPTTT. Cụ thể, 100% GV
không soạn thảo các mục tiêu riêng cho HS trong tiết học, chưa sử dụng các
phương pháp điều chỉnh trong dạy học trẻ CPTTT. 100% GV cho rằng nguyên
nhân chính xuất phát từ chính bản thân trẻ CPTTT như: các em lười học, trí nhớ
kém, khó nhớ, mau quên…


Thứ ba , gia đình trẻ chưa quan tâm tích cực đến việc học của trẻ.
2.3. Biện pháp rèn kĩ năng đọc Tiếng Việt của học sinh CPTTT học hoà nhập ở
các trường Tiểu học trên địa bàn Quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Một số định hướng trong việc rèn KN đọc cho HS CPTTT
- Cơ sở khoa học để tổ chức dạy học Tập đọc: Đọc được xem như là một hoạt
động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng một bộ mã gồm hai
phương diện. Thứ nhất, đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữâm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh.
Quá trình này gọi là quá trình đọc thành tiếng. Thứ hai, đó là sự vận động của tư

tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ-nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ
và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu được nội dung
những gì được đọc. Quá trình này gọi là quá trình đọc hiểu. Mục đích của đọc
thành tiếng là chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh các kí hiệu văn tự
thành kí hiệu âm thanh. Khi đọc hiểu, mục đích của người đọc là làm rõ nghĩa
các kí tự, làm rõ nội dung và đích thông báo của văn bản. Lúc này quá trình đọc
không chỉ là sự vận động của trí tuệ. Nên đọc có ý thức là một yêu cầu quan
trọng của đọc, trở thành một KN của đọc.
- Một số định hướng trong việc rèn KN đọc cho HS CPTTT:
+ Để luyện đọc đạt hiệu quả cao thì việc tổ chức luyện đọc phải có mục tiêu rõ
ràng, tường minh, trực quan và lượng hóa được; cường độ luyện tập phải cao,
nghĩa là về nguyên tắc, luyện tập càng nhiều càng tốt và một nội dung luyện tập
phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên những ngữ liệu khác nhau, được củng
cố nhiều lần để thành kĩ xảo; khi luyện tập phải lựa chọn ngữ liệu (từ ngữ, câu,
đoạn) để luyện đọc sao cho tiết kiệm thời gian luyện tập; trong khi luyện tập cần
phối hợp đồng bộ, tối đa các biện pháp luyện đọc.
+ Vận dụng các thuyết đa năng lực của Howard Gardner, lý thuyết về lĩnh vực
nhận thức, lĩnh vực tình cảm và tâm vận động, lý thuyết về làm cho trẻ thông
minh và nhạy cảm hơn (MISC) vào dạy học Tập đọc cho trẻ CPTTT nhằm giúp
GV trong việc thiết kế bài học tổng thể, tạo hứng thú học tập cho HS, xây dựng
các mục tiêu về hành vi của trẻ.
2.3.2. Các biện pháp rèn KN đọc Tiếng Việt của học sinh CPTTT học hoà nhập
ở các trường Tiểu học trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.3.2.1. Nhóm biện pháp điều chỉnh hoạt động dạy học
Điều chỉnh mục tiêu dạy học: mục tiêu tiết học cho từng HS CPTTT rất đa dạng
trong phạm vi, mức độ nhuần nhuyễn trong từng giờ học so với mục tiêu chung
của cả lớp. Cụ thể là HS CPTTT phải nắm bắt cũng một nội dung, nhưng ở
những mục tiêu nhận thức khác nhau, đòi hỏi thời gian không giống nhau, cách
thể hiện những gì nắm bắt được khác nhau. Vì vậy cần xác định mục tiêu chung
cho cả lớp và mục tiêu riêng cho trẻ CPTTT. Mục tiêu đó phải là mục tiêu hành

vi. 100% GV cho rằng biện pháp này phù hợp và rất phù hợp. 100% GV đều
cho rằng biện pháp này khả thi.


Rèn KN đọc TV thông qua trò chơi học tập : trò chơi học tập giúp HS lĩnh hội
tri thức và KN khác nhau mà không có chủ định từ trước. Ở trò chơi học tập có
sự tự nguyện và bình đẳng giữa các HS, mọi HS đều có vị trí, nhiệm vụ như
nhau khi tham gia vào trò chơi. Khi chơi HS cảm nhận được một cách trực tiếp
kết quả hành động của mình. Kết quả này mang lại niềm vụ vô hạn, thúc đầy
tính tích cực, mở rộng củng cố và phát triển vốn hiểu biết ở các em. Để thực
hiện biện pháp này, GV cần có KN thiết kế và tổ chức các trò chơi học tập cho
HS CPTTT. Nhìn chung phần lớn GV cho rằng biện pháp này phù hợp và rất
phù hợp (73%). Hầu hết GV đều cho rằng biện pháp này khả thi và rất khả thi.
(73%).
Sử dụng các phương pháp đặc thù cho trẻ CPTTT: các phương pháp này giúp
cho HS khuyết tật dễ dàng tiếp nhận thông tin theo đặc điểm riêng của các em,
nó giúp giảm bớt những hạn chế do khuyết tật mạng lại cho các em trong quá
trình học tập, sinh hoạt và còn nhằm phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật. 66%
GV cho rằng biện pháp này phù hợp và 34% GV cho rằng rất phù hợp. Hầu hết
GV đều cho rằng biện pháp này khả thi. (93% khả thi, 7% rất khả thi)
Hỗ trợ cá biệt: hỗ trợ cá biệt dựa trên cách tiếp cận phân hoá trong giảng dạy để
phù hợp với các loại học lực, sự khác biệt cá nhân của HS. Sử dụng phương
pháp hỗ trợ cá biệt cho HS khuyết tật trong lớp hoà nhập sẽ khơi dậy, phát huy
tiềm năng của cá nhân, tôn trọng nhu cầu lợi ích và khả năng của các em...,
chuyển giao những kiến thức trừu tượng khó hiểu trở thành những kiến thức gần
gũi, dễ tiếp nhận với khả năng của trẻ. 74% GV cho rằng biện pháp này phù hợp
và 26% GV cho rằng biện pháp này rất phù hợp. Hầu hết GV đều cho rằng biện
pháp này khả thi. (85% khả thi, 15% rất khả thi)
Đổi mới hệ thống phương pháp dạy học Tập đọc bằng hệ thống bài tập: Ở
trường Tiểu học, dạy TV là tổ chức hoạt động lời nói. Đối với HS, có thể xem

việc giải bài tập TV là hình thức chủ yếu của hoạt động TV. Các bài tập TV là
một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp HS
có năng lực ngôn ngữ, phát triển tư duy. Nhìn chung phần lớn GV cho rằng biện
pháp này phù hợp và rất phù hợp (73%). Hầu hết GV đều cho rằng biện pháp
này khả thi và rất khả thi. (73%).
Chuyển những nội dung khó thành những nhiệm vụ, bài tập phù hợp có những
nội dung dạy đọc, thoạt nhìn có vẻ là quá cao so với sức HS nhưng các em vẫn
chiếm lĩnh được nếu chúng ta biết chuyển những nội dung này thành những
nhiệm vụ, bài tập phù hợp. 85% GV cho rằng biện pháp này phù hợp và 11%
GV cho rằng biện pháp này rất phù hợp. Hầu hết GV đều cho rằng biện pháp
này khả thi. (85% khả thi, 15% rất khả thi)
Dạy tiết cá nhân: Nhằm mục đích rèn những kĩ năng còn hạn chế cho HS mà
không làm ảnh hưởng đến quá trình học tập chung của lớp. Phần lớn GV cho
rằng biện pháp này phù hợp và rất phù hợp (92%). 89% GV cho rằng biện pháp
này khả thi và rất khả thi.


Tạo hứng thú, động cơ cho việc đọc: chỉ khi trẻ có hứng thú, động cơ thì việc
đọc mới mang lại hiệu quả cao.GV nên chọn những ngữ liệu đọc phù hợp với sở
thích của trẻ CPTTT. Việc luyện đọc thành tiếng phải được tiến hành đồng thời
với việc luyện đọc hiểu. 100% GV cho rằng biện pháp này phù hợp và rất phù
hợp. 97% GV cho rằng biện pháp này khả thi và rất khả thi.
Giao những nhiệm vụ phù hợp: nhằm giúp trẻ có thể hoàn thành được nhiệm vụ
được giaotrong quá trình dạy học, GV cần chọn những nội dung nào mà trẻ
CPTTT có thể thực hiện được. 100% GV cho rằng biện pháp này phù hợp và rất
phù hợp. 100% GV cho rằng biện pháp này khả thi.
Tạo cho trẻ cơ hội thành công : so với bạn bè cùng lớp, trẻ CPTTT ít có cơ hội
thành công trong mọi hoạt động. Tạo cho trẻ cơ hội thành công sẽ củng cố cho
trẻ lòng tin rằng trẻ vẫn có thể thành công. 12% GV cho rằng biện pháp rất phù
hợp và 88% GV cho là phù hợp. Nhìn chung hầu hết GV đều cho rằng biện

pháp này khả thi.
2.3.2.2. Nhóm biện pháp điều chỉnh sự phối hợp với gia đình
Nâng cao nhận thức cho gia đình trẻ CPTTT về vai trò của họ trong việc chăm
sóc, giáo dục con: nhằm giúp gia đình trẻ nhận thức đúng đắn về vai trò của họ
trong việc chăm sóc, giáo dục con. Từ đó, gia đình sẽ hợp tác tích cực với nhà
trường trong việc giáo dục con nói chung và rèn kĩ năng đọc TV cho con nói
riêng. 100% GV cho rằng biện pháp này phù hợp và rất phù hợp. 97% GV cho
rằng biện pháp này khả thi và rất khả thi.
Phối hợp với gia đình lên kế hoạch hỗ trợ trẻ CPTTT: trẻ CPTTT cần sự hỗ trợ
nhất là ở gia đình. Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với gia đình
lên kế hoạch hỗ trợ trẻ CPTTT. 54% GV cho rằng biện pháp này rất phù hợp.
46% GV cho rằng phù hợp. Nhìn chung hầu hết GV đều cho rằng biện pháp này
khả thi và rất khả thi. Tuy vậy có 3% GV cho rằng biện pháp này không khả thi.
2. Kết luận và khuyến nghị
3.1. Kết luận:
- Theo kết quả điều tra cho thấy rằng kĩ năng đọc TV của HS CPTTT lớp 4 học
hoà nhập ở trường Tiểu học Quận Liên Chiểu-Thành phố Đà Nẵng ở mức độ
trung bình và chậm (87%). Học sinh CPTTT khó khăn trong việc nhận diện từ,
các em đọc hay bị bỏ chữ, bỏ hàng, không phân biệt dấu, ngắt nghỉ không
đúng... Về kĩ năng đọc hiểu, các em hầu như không nhận diện chi tiết được, các
em không hiểu nội dung của đoạn, bài, các em không hề có khả năng ứng dụng
hay sáng tạo các bài đọc Tiếng Việt.
- Nguyên nhân thực trạng phát triển kĩ năng đọc TV của HS CPTTT lớp 4 học
hoà nhập ở trường Tiểu học Quận Liên Chiểu-Thành phố Đà Nẵng: do đặc
điểm tâm lí của học sinh CPTTT; do giáo viên chưa có các biện pháp rèn kĩ
năng đọc TV cho học sinh thực sự hiệu quả.
- Đề xuất 12 biện pháp rèn kĩ năng đọc Tiếng Việt của HS CPTTT lớp 4 học hoà
nhập ở trường Tiểu học Quận Liên Chiểu-Thành phố Đà Nẵng là điều chỉnh
mục tiêu dạy học; sử dụng các phương pháp đặc thù cho trẻ CPTTT; hỗ trợ cá



biệt; đổi mới hệ thống phương pháp dạy học Tập đọc bằng hệ thống bài tập;
chuyển những nội dung khó thành những nhiệm vụ, bài tập phù hợp; dạy tiết cá
nhân, tạo hứng thú, động cơ cho việc đọc; nâng cao nhận thức cho gia đình trẻ
CPTTT về vai trò của họ trong việc chăm sóc, giáo dục con…
3.2. Khuyến nghị:
- Các cấp lãnh đạo tạo mọi sự quan tâm, điều kiện để cho giáo viên được trang
bị kiến thức về giáo dục hoà nhập trẻ CPTTT. Các cơ sở, viện nghiên cứu cần
có những sự quan tâm sâu sắc hơn như hỗ trợ sách vở, tài liệu về giáo dục đặc
biệt…cho các trường Tiểu học và cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức và trình
độ về giáo dục đặc biệt.
- Nhà trường cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất như phương tiện dạy học, điều
kiện phòng ốc…Nên có tổ chuyên môn về giáo dục đặc biệt trong trường nhằm
trao đổi, chia sẻ các khó khăn, kinh nghiệm khi dạy học hoà nhập trẻ CPTTT
nói riêng và trẻ khuyết tật nói chung. Nhà trường cần tạo ra sự hợp tác tích cực
giữa nhà trường-gia đình
- Sở giáo dục đào tạo cần có sự kiểm tra đánh giá một cách đồng bộ kết quả
giáo dục hoà nhập
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ GDĐT (2005), Giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật bậc tiểu học, Dự án
phát triển giáo viên tiểu học, Hà Nội.
[2] Ths. Nguyễn Xuân Hải (2004), Dạy học một số chủ đề theo hướng tiếp cận
năng lực cá nhân cho trẻ chậm phát triển trí tuệ lớp 1, Trung tâm nghiên cứu
chiến lược và phát triển chương trình giáo dục chuyên biệt, Viện chiến lược và
chương trình giáo dục.
[3] Huỳnh Thị Thu Hằng (2005), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục,
Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP, Đại học Đà Nẵng
[4] Lê Phương Nga (2001), Dạy học Tập đọc ở Tiểu học, NXB Giáo dục.
[5] Nguyễn Quốc Thái (2006), Kĩ năng đọc Tiếng Việt của học sinh dân tộc lớp
2 huyện Thuận Châu-Sơn La, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Toàn văn Khóa luận tốt nghiệp, Phạm Thị Quỳnh Ni, lớp 04DB



×