Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Cảm hứng về đất nước trong thơ Chế Lan Viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.95 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐỖ THU HƢỜNG

CẢM HỨNG VỀ ĐẤT NƢỚC TRONG THƠ
CHẾ LAN VIÊN
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớn dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam

HÀ NỘI, 2013


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực học hỏi, nghiên cứu của
bản thân, còn nhờ có sự chỉ bảo, giúp đỡ, động viên tận tình của quý thầy cô,
gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến Tiến sĩ
Nguyễn Văn Nam, người đã tận tâm hướng dẫn khoa học, giúp tôi giải quyết
các vấn đề trong đề tài, định hướng, gợi mở, truyền đạt cho tôi những kiến thức
vô cùng quý báu.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học
tập.
Xin cảm ơn Phòng Sau đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành và
bảo vệ luận văn này.
Sau cùng xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tôi


trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì khả năng và thời gian có hạn nên
đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự đóng góp ý
kiến chân thành của thầy cô và các bạn đồng nghiệp.

Hà Nội, tháng 12 năm 2013

Tác giả

Đỗ Thu Hường


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả đạt được của luận văn là trung thực, chưa
từng được công bố trong các công trình ngh
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Tác giả

Đỗ Thu Hường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 4

5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4
6. Bố cục luận văn ............................................................................................ 4
NỘI DUNG ...................................................................................................... 6
Chƣơng 1. Cảm hứng về đất nƣớc trong thơ ca Việt Nam nhƣ một truyền
thống và hành trình sáng tạo của Chế Lan Viên ......................................... 6
1.1. Cảm hứng về đất nước trong thơ ca Việt Nam .......................................... 6
1.2. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Chế Lan Viên ...................................... 24
Chƣơng 2. Những cảm hứng chủ đạo thể hiện tình yêu đất nƣớc trong
thơ Chế Lan Viên ......................................................................................... 33
2.1. Cảm hứng ca ngợi đất nước đau thương và anh hùng ............................ 34
2.2. Cảm hứng ca ngợi đất nước tươi đẹp ...................................................... 45
2.3. Cảm hứng phủ định các thế lực thù địch với đất nước ............................ 51
Chƣơng 3. Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng đất nƣớc trong thơ Chế Lan
Viên ................................................................................................................. 61
3.1. Sự kết hợp giữa trí tuệ và cảm xúc .......................................................... 61
3.2. Thể thơ .................................................................................................... 67
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu .......................................................................... 74
3.4. Hình ảnh và biểu tượng ............................................................................ 84
KẾT LUẬN ................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế Lan Viên là một tác gia lớn của Văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc
đời hoạt động nghệ thuật của ông bao trùm lên thế kỷ XX và để lại dấu ấn
đậm nét trong lịch sử văn học nước ta. Chế Lan Viên đã để lại một di sản khá
đồ sộ: làm thơ, viết văn, viết tiểu luận phê bình. Ông đã chiếm lĩnh được

nhiều đỉnh cao nghệ thuật ở những giai đoạn khác nhau: Giai đoạn Thơ Mới
với Điêu tàn; hoà bình với Ánh sáng và phù sa; thời chống Mỹ cứu nước với
Hoa ngày thường, Chim báo bão; Những bài thơ đánh giặc; giai đoạn đổi mới
với Di cảo thơ. Hiện ông để lại 15 tập thơ ( kể cả Di cảo thơ Chế Lan Viên, 3
tập), 7 tác phẩm văn xuôi, 8 tập tiểu luận phê bình…Nghiên cứu sâu về Chế
Lan Viên là một cách giúp ta hiểu thêm về nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nói đến thơ Chế Lan Viên, người đọc sau này có thể nghĩ ngay đến tập
thơ Điêu tàn viết bằng chất liệu của đầu lâu, xác chết, nấm mồ, xương khô ẩn trong tâm hồn một cậu học sinh tuổi 16, 17 ngồi cạnh tháp Chàm lẻ loi, bí
mật, người đọc lại không quên giọng thơ đậm màu sắc trí tuệ, giàu tính chính
luận sang sảng bay bổng của một nhà thơ lớn đại diện cho dân tộc đang chiến
đấu và chiến thắng trong thời kỳ chống Mỹ. Sau cách mạng, Chế Lan Viên
thực sự đem đến cho nền thơ hiện đại Việt Nam một tiếng nói riêng, một
“chất mặn” đặc biệt, tạo nên một phong cách đa dạng, độc đáo.
Chế Lan Viên là một nhà thơ có quá trình chuyển hoá sâu sắc, triệt để.
Trong quá trình chuyển hoá, ông là người thành công, “đã chín lại một mùa
thơ” trong thời đại bão táp cách mạng. Từ một nhà thơ tiền chiến lãng mạn,
ông đã thực sự trở thành nhà thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tâm hồn, tư
tưởng, quan niệm sáng tác của ông đã được ánh sáng của Đảng, của thế giới
quan mác xít và phù sa của đời bồi đắp, đổi thay. Quá trình chuyển mình của


2

ông tiêu biểu cho quá trình đổi thay của một loạt các nhà Thơ Mới như: Xuân
Diệu yêu đương, Huy Cận sầu não, Hàn Mặc Tử điên loạn, Lưu Trọng Lư mơ
màng, Tế Hanh nhớ nhung…
Sau cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong giai đoạn chống Mỹ cứu
nước, thơ Chế Lan Viên đã chín trong một mùa gặt rộ. Qua thơ ông có thể
thấy được một số thành quả mà thơ chống Mỹ đã đạt được. Chế Lan Viên
thực hiện được những bước tổng hợp toàn diện các yếu tố nghệ thuật. Nhiều

bài thơ của ông là sự kết hợp nhuần nhị giữa các yếu tố anh hùng ca và trữ
tình, hiện thực và lãng mạn, cảm xúc và trí tuệ, trữ tình và châm biếm…Chủ
nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ Chế Lan Viên không phải là đường viền
quanh đề tài thơ, cũng như không phải là một yếu tố được chắp nối vào đề tài
để có thêm “tư tưởng tính”. Mà chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã làm nên
sức đẩy bên trong của mỗi bài thơ, làm nên linh hồn của tác phẩm nghệ thuật.
Bởi thế, qua thơ Chế Lan Viên ta bắt gặp một nét độc đáo của nền thơ Việt
Nam chống Mỹ: Tiếng nói anh hùng đã trở thành tiếng nói tự nhiên của tâm
hồn, chất trữ tình đã hoà quyện gắn bó với chất anh hùng ca. Những bài thơ
hào hùng giàu chất trí tuệ, giàu tính chính luận khi viết về Tổ quốc, nhân dân,
Đảng và lãnh tụ, về kẻ thù, tình yêu, đời thường…đã và đang sẽ mãi ngân
vang trong lòng người đọc.
Nói đến thơ Chế Lan Viên, người ta không quên nhắc tới thơ viết về
đất nước - một trong những mảng đề tài được ông quan tâm nhiều nhất. Cảm
hứng về đất nước trong thơ ca Việt Nam xưa nay vẫn được xem như một
truyền thống. Cũng giống như các thi sĩ khác, thơ ca Chế Lan Viên không
nằm ngoài truyền thống đó. Thơ viết về đất nước của Chế Lan Viên không chỉ
góp phần thể hiện nhân cách nhà thơ mà còn góp phần không nhỏ vào việc
hoàn thiện đầy đủ phong cách thơ Chế lan Viên.


3

Chế Lan Viên là một gương mặt độc đáo trong lịch sử văn học Việt
Nam hiện đại. Ngay từ tập thơ đầu tay Điêu tàn, Chế Lan Viên đã được đông
đảo bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình chú ý. Có nhiều bài viết đánh giá về
Điêu tàn từ các nhà thơ như Xuân Diệu, Bích Khê, Hàn Mặc Tử… đến các
nhà nghiên cứu như Hoài Thanh, Hoài Chân. Các tập thơ tiếp theo của Chế
Lan Viên như: Gửi các anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường- Chim báo
bão, Những bài thơ đánh giặc, Đối thoại mới cũng rất được quan tâm chú ý.

Nhiều bài viết, bàn luận, đánh giá xung quanh các tập thơ của ông như: Đọc
ánh sáng và phù sa (Xuân Diệu), Những biển cồn hãy mang đến trong thơ (Lê
Đình Kỵ), Chế Lan Viên những tìm tòi trong nghệ thuật thơ (Nguyễn Lộc),
Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên (Nguyễn Xuân Nam), Đối thoại
mới của Chế Lan Viên (Hoàng Lan), Con đường và tầm vóc thơ Chế Lan Viên
(Phạm Hổ), … Các bài viết này tiếp tục khẳng định tên tuổi và những đóng
góp của Chế Lan Viên cho nền văn học nước nhà.
Sau chiến tranh, đặc biệt là sau đổi mới, nhu cầu nhìn lại, đánh giá lại
nền văn học kháng chiến được đặt ra, các tác phẩm của Chế Lan Viên một lần
nữa lại được quan tâm chú ý. Nhất là sau khi vợ ông, bà Vũ Thị Thường cho
xuất bản 3 tập Di cảo thơ của ông thì sự chú ý của dư luận càng trở nên mạnh
mẽ hơn. Nhân các dịp kỉ niệm 10 năm, 15 năm, 20 năm ngày mất, hay 90 năm
ngày sinh của ông nhiều bài viết, đánh giá phê bình về thơ Chế Lan Viên lại
tiếp tục xuất hiện. Các bài viết này cho thấy sức sống, tính thời sự của các tác
phẩm thơ Chế Lan Viên. Năm 2000, Vũ Tuấn Anh đã cho ra đời công trình:
Chế Lan Viên - về tác gia và tác phẩm. Trong công trình này, tác giả đã tuyển
chọn và giới thiệu một cách hệ thống và khá toàn vẹn những công trình tiêu
biểu nghiên cứu về thơ văn Chế Lan Viên. Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ lấy thơ Chế Lan Viên làm đối tượng nghiên cứu cũng
có số lượng không hề nhỏ. Những luận án này đã cho chúng tôi nhiều gợi mở
khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu của mình.
Nghiên cứu, đánh giá, phê bình về Chế Lan Viên nhiều về số lượng, đa
dạng phong phú ở góc độ tiếp cận cũng như hình thức thể hiện. Tuy nhiên mảng
thơ viết về cảm hứng đất nước còn chưa được tìm hiểu và nghiên cứu một cách


4

đầy đủ và có hệ thống. Trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu:
“Cảm hứng về đất nước trong thơ Chế Lan Viên” nhằm góp phần nhỏ bé trong

việc tìm hiểu sự nghiệp thơ ca của ông.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là đi sâu tìm hiểu thơ viết về đất nước của Chế Lan
Viên với những đặc sắc riêng, để thấy được đóng góp của nhà thơ vào thơ ca
Việt Nam hiện đại nói chung và thơ viết về quê hương đất nước Việt Nam nói
riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là thơ viết về đất nước của Chế
Lan Viên.Trên cơ sở tìm hiểu về cảm hứng đất nước trong thơ Chế Lan Viên,
luận văn tập trung đi vào khảo sát toàn bộ mảng đó trong sự nghiệp sáng tác
của nhà thơ.
4. Đóng góp của Luận văn
Luận văn nghiên cứu cảm hứng về đất nước trong thơ Chế Lan Viên ở
cả hai phương diện nội dung và hình thức. Từ đó ghi nhận sự đóng góp của
nhà thơ vào thơ ca Việt Nam hiện đại
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tất cả các bài thơ viết về đất nước của
Chế Lan Viên nằm rải rác ở các tập thơ khác nhau trong cả hai giai đoạn trước
cách mạng tháng Tám 1945 và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Luận văn
tiến hành phân tích những đặc trưng tiêu biểu của thơ viết về đất nước của thi
nhân. Đồng thời tổng hợp, khái quát hoá các kết quả phân tích để rút ra các
kết luận cần thiết.
5.2. Phương pháp so sánh


5

Luận văn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu các sáng tác của Chế
Lan Viên qua các thời kỳ, sáng tác của Chế Lan Viên với các nhà thơ khác để

thấy rõ nét độc đáo, đặc sắc và đóng góp của Chế Lan Viên trong thơ ca dân
tộc.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cảm hứng đất nước trong thơ ca Việt Nam và hành trình
sáng tạo của Chế Lan Viên.
Chương 2: Những cảm hứng chủ đạo thể hiện tình yêu đất nước trong
thơ Chế Lan Viên.
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng đất nước trong thơ của Chế
Lan Viên.


6

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CẢM HỨNG VỀ ĐẤT NƢỚC TRONG THƠ CA VIỆT NAM
NHƢ MỘT TRUYỀN THỐNG VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
CỦA CHẾ LAN VIÊN
1.1. Cảm hứng về đất nƣớc trong thơ ca Việt Nam nhƣ một truyền thống
Lòng yêu nước vốn là truyền thống tinh thần tốt đẹp bao đời của dân
tộc Việt Nam. “Đó là thứ của quý, bấy lâu nay phải cất giấu kín đáo trong
rương, trong hòm nay nhờ cách mạng được đem ra trưng bày trong tủ kính,
trong bình pha lê” (Hồ Chí Minh). Kế thừa truyền thống yêu nước của dân
tộc, nhiều thế hệ người cầm bút luôn hướng về quê hương, đất nước. Vì thế,
cảm hứng về đất nước trong văn học Việt Nam nói chung và trong thơ ca Việt
Nam nói riêng xưa nay được xem như một truyền thống.
Cảm hứng về đất nước trong thơ ca Việt Nam không phải đến thời kỳ
văn học hiện đại mới xuất hiện. Từ thủa còn chưa có văn học thành văn, đất

nước đã gợi cảm hứng dạt dào cho nhân dân ta, những người lao động bình
thường trở thành thi sĩ. Có biết bao bài ca dao về tình yêu quê hương, đất
nước mãi còn ngân vang trong lòng người đọc:
- Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô
- Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi tới đó thời không muốn về
- Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có Cù Lao Xanh
Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
…………….


7

Trong văn học dân gian, những câu hát về tình yêu quê hương, đất
nước thường gợi nhiều hơn tả, hay nhắc đến tên núi, tên sông, tên những vùng
đất với những đặc sắc về hình thể, cảnh trí, lịch sử, văn hóa của từng địa
danh… Tình yêu đất nước trong văn học dân gian thường gắn liền với tình
yêu quê hương làng xóm.
Tiếp nối truyền thống yêu nước từ trong văn học dân gian, cảm hứng về
đất nước trong văn học trung đại trở thành một trong những cảm hứng chủ
đạo.Văn học trung đại Việt Nam nếu hình dung như một thứ quả màu vàng,
một vụ quả bội thu thì mảnh đất gieo trồng của nó đầy máu, mồ hôi và cả ước
mơ của người gieo hạt. Thế hệ ông cha chúng ta đã cần mẫn xới vun bằng
tình yêu của mình với mảnh đất ấy. Sự nghiệp giữ nước gian khổ mà vinh
quang, và ý thức trách nhiệm của người cầm bút đã đem đến văn học trung
đại một cảm hứng lớn: cảm hứng yêu nước. Cảm hứng này như một mạch

ngầm chảy xuyên suốt lịch sử văn học dân tộc. Từ văn học dân gian đến văn
học viết, từ văn học trung đại đến văn học hiện đại không ở đâu, không lúc
nào mạch ngầm ấy ngừng chảy. Dù với những diện mạo khác nhau, cách thể
hiện khác nhau song có thể khẳng định chủ nghĩa yêu nước là cảm hứng lớn
nhất của văn học Việt Nam. Trong văn học trung đại ngay từ những tác phẩm
đầu tiên như Quốc tộ (Pháp Thuận), Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) ta đã
thấy dấu ấn của cảm hứng này.
Có thể nói, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam thể hiện
trước hết ở lòng tự hào dân tộc. Chúng ta đã từng thấy dõng dạc vang lên
trong bài thơ thần của Lý Thường Kiệt là tiếng nói đầu tiên như âm vang từ
khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm chủ. Nước là
của vua, vua là tượng trưng cho chủ quyền của nước:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời


8

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Niềm tự hào ấy còn được tiếp nối trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc
cũng như lịch sử văn học. Tự hào vì đất nước hùng vĩ tươi đẹp, tự hào về đất
nước anh hùng hiên ngang, tự hào vì đất nước đã được dựng xây bởi biết bao
thế hệ:
Ngọc nhĩ hàn quang tẩm quảng đã,
Tản Viên tễ sắc chiếu Thăng Long
Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp
Ông Trọng từ thâm vận đạm nùng
(Phạm Sư Mạnh – Họa Minh sứ đề Nhĩ Hà)
(Ánh sáng mát lạnh của dòng sông chảy quanh như vành tai ngọc thấm

vào cánh đồng rộng lớn,
Sắc đẹp rực rỡ của ngọn núi tròn như chiếc tán tròn chiếu xuống kinh
đô rồng bay
Núi lớp lớp vây quanh thành cổ Văn Lang
Mây đậm nhạt che đền thắm Ông Trọng)
Trong thơ trung đại, cảm hứng yêu nước còn thể hiện ở tinh thần quyết
chiến, quyết thắng quân xâm lược. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này qua
thơ các thi sĩ thời Trần, thơ Nguyễn Trãi…Một trong những thành tựu quan
trọng của thơ thời Trần là đã thể hiện được chủ nghĩa yêu nước, ý chí quật
cường chống quân xâm lược của dân tộc ta. Chính cảm hứng này đã tạo ra
Hào khí Đông Á trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc. Hào khí ấy vang
lên hùng tráng mà tha thiết qua khúc ca khải hoàn Tụng giá hoàng kinh sư của
Trần Quang Khải:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan


9

Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang sơn.
Bài thơ làm sống dậy một không gian trận mạc chiến trường, đao kiếm
với ngựa thét quân reo ngất trời tráng khí. Một trong hai trận ấy do đích thân
Trần Quang Khải chỉ huy. Chương Dương, Hàm Tử nằm trong hệ thống chiến
thắng mở màn có ý nghĩa chiến lược cho cuộc phản công thắng lợi, mạnh và
nhanh, cường độ lớn và tốc độ phi thường đã tạo cho lời thơ khí thế hùng
tráng, thiêng liêng.
Yêu nước, căm thù giặc tất yếu phải chiến đấu đến cùng cho lí tưởng
ấy. Trong thơ trung đại Việt Nam dường như vẫn còn văng vẳng tiếng mài
giáo dưới ánh trăng của Đặng Dung (Cảm hoài), cái múa giáo đầy thách thức

của Phạm Ngũ Lão. Sự mất còn của non sông đã đặt gánh nặng lên vai con
người thời cuộc với thử thách nặng nề: giết giặc cứu nước. Vậy nên trong
Thuật hoài Phạm Ngũ Lão đã xây dựng được hình tượng một con người tràn
đầy khí thế, tầm vóc. Ở đó có cả sức mạnh của tướng sĩ ba quân trong cuộc
kháng chiến chống Nguyên Mông, đồng thời đó cũng là sức mạnh của cả dân
tộc. Từ suy ngẫm khái quát về tư thế, tầm vóc và sức mạnh của dân tộc
chuyển sang suy ngẫm về bổn phận và trách nhiệm của cá nhân trước cộng
đồng, Phạm Ngũ Lão đã có cách khơi gợi thật khéo léo: nếu đấng nam nhi
còn vương nợ tức là chưa có công trạng gì với núi sông thì sẽ luống thẹn khi
nghe chuyện Vũ Hầu. Đúng là cái thẹn của một của một nhân cách lớn, cái
xấu hổ lớn lao rất đáng trân trọng của Phạm Ngũ Lão. Ông xấu hổ với bản
thân, với cộng đồng nhất là với một nam nhi thời loạn. Đến như Gia Cát
Lượng, một con người đã từng xuất thế để quên đi sự đời nhưng cũng dời liều
cỏ giúp Lưu Bị chấn hưng nhà Hán thời Tam Quốc, còn với sĩ phu đời Trần,
trước tình thế Tổ quốc ngàn cân treo sợi tóc há chỉ đứng nhìn và bình thản hay
sao?


10

Múa giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùm khí nuốt Sao ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Có thể nói một bối cảnh lịch sử đặc biệt cùng với hào khí của con
người thời đại đã mang đến cho văn học yêu nước thời Trần một bộ mặt riêng
đặc sắc không thể trộn lẫn với bất kỳ giai đoạn văn học nào. Những chiến
thắng oanh liệt trước quân Nguyên Mông mạnh như vũ bão khiến nhiều đất
nước đã phải khuất phục càng làm cho niềm tự hào dân tộc, ý chí tự tôn, tự
lực tự cường lên cao. Văn học thời kỳ này chủ yếu là những tác phẩm mang

cảm hứng yêu nước thể hiện sâu sắc không khí thời đại.
Tiếp nối hào khí Đông A với niềm tự hào dân tộc sâu sắc là những áng
thơ văn bất hủ của văn học triều Lê sau chiến thắng quân Minh oanh liệt,
trong đó không thể không nhắc tới Nguyễn Trãi với những tác phẩm kiệt xuất
của ông. Bình Ngô đại cáo chính là một áng thiên cổ hùng văn vừa tố cáo kẻ
thù tàn ác vừa thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước. Đó là niềm tự hào dân tộc,
là ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù, là lòng căm thù giặc tột độ, là tư tưởng
nhân nghĩa lấy dân làm gốc để dựng xây đất nước thái bình dài lâu. Sau
những năm tháng kháng chiến chống giặc, nhà thơ Ức Trai trở về với cuộc
sống điền viên tình yêu nước lại được thể hiện ở những cung bậc khác:
Bui một tấm lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen
Hay:
Bui có một niềm ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.
Tình yêu đất nước hài hòa trong tình yêu thiên nhiên cảnh vật:


11

Dục Thúy vũ đình, phong tự ngọc
Đại An triều tướng, thủy như thiên
(Vọng doanh)
(Núi Dục Thúy mưa tan đỉnh tựa ngọc
Cửa Đại An triều nỏi nước như trời)
Điều đặc biệt là Nguyễn Trãi thường hay gắn thiên nhiên kỳ vĩ của đất
nước với lịch sử hào hùng của dân tộc:
Sóc phong suy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình phầu sơn khúc khúc

Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
(Bạch Đằng hải khẩu)
(Gió bấc thổi trên mặt nước, hơi biển rùng rợn
Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Đằng
Như cá sấu bị chặt, cá voi bị mổ, núi đứt khúc lại khúc
Như mũi qua chìm cây kích gãy, bờ chồng tầng lại tầng)
Cái làm sông Bạch Đằng trở nên kì vĩ không phải chỉ bởi cảnh vật tự
nhiên mà còn bởi những chiến tích của ông cha đã in bóng trên dòng sông ấy.
Với Nguyễn Trãi chính những chiến công kia mới là vẻ đẹp của Bạch Đằng.
Có thể nói thơ văn Nguyễn Trãi chính là sự hội tụ của những ánh hào quang
quá khứ, là sự tiếp nối của cảm hứng yêu nước đã được khơi nguồn từ các
giai đoạn trước. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi đồ sộ và đa dạng nhưng
những tác phẩm thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tấm lòng với dân tộc
với nhân dân là những tác phẩm đặc sắc và chiếm phần lớn gia tài nghệ thuật
của ông.
Đến giai đoạn sau các triều đại phong kiến gặp nhiều khủng hoảng, đất
nước với sự phân chia đàng trong – đàng ngoài, với các cuộc nội chiến liên


12

miên cảm hứng yêu nước vẫn là một nội dung lớn của văn học song nó không
ở bình diện thứ nhất mà thay vào đó là cảm hứng nhân đạo, thế sự. Tuy vậy
mạch ngầm ấy vẫn chảy. Ở thế kỉ XVI, XVII và nửa đầu XVIII chúng ta thấy
xuất hiện dòng thơ vịnh sử, thơ đi sứ thể hiện cảm hứng yêu nước một cách
sáng tạo, uyển chuyển. Thơ vịnh sử thường ngợi ca những nhân vật lịch sử,
những ông Vua hiền, nặng về mục đích giáo huấn, phê phán những tên bạo
chúa, gian thần thể hiện nhân sinh quan và đạo lý chính nghĩa thời đại. Các
bài thơ đi sứ thì khéo léo thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Tinh kỳ ảnh diệu sơn sơn nguyệt

Cổ giác thanh huyên thụ thụ phong
Nam phục phiên ly thiên lý tráng
Bắc phương tỏa thược nhất phương hùng
(Lạng Sơn hình thế - Nguyễn Tông Khuê)
(Bóng cờ xí chói lọi núi non như có ánh trăng
Tiếng trống ốc ầm rung cây cối tưởng chừng nổi gió
Làm phên giậu cõi Nam, ngàn dặm mạnh
Là then khóa cửa Bắc một phương hùng)
Qua dòng văn học này một lần nữa chúng ta thấy được cảm hứng yêu
nước với các nhánh, mạch của nó chảy qua các giai đoạn văn học khác nhau
trong những hình thái khác nhau nhưng đều thể hiện chung một tình cảm cao
đẹp đã trở thành truyền thống của người Việt Nam đó là tình yêu đất nước.
Ngay cả ở nửa sau thế kỷ XVIII, giai đoạn mà chủ nghĩa nhân đạo
chiếm bình diện thứ nhất thì tinh thần yêu nước vẫn là một dòng chảy không
ngừng. Trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương ta đâu chỉ thấy hình ảnh người
phụ nữ tài hoa, cá tính, khát khao sống, khát khao yêu, khát khao hạnh phúc
mà còn có cái tự hào về bản thân về dân tộc:


13

Nghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Cái nghé mắt trông ngang ấy là cái nghé mắt của một người phụ nữ tự
chủ kiêu hãnh và cũng là cái nhìn coi thường tướng giặc của một người con tự
hào về dân tộc. Tình yêu đất nước ở giai đoạn này được biểu hiện thông qua
những bài thơ tố cáo hiện thực xã hội, thể hiện sự cảm thương với những lầm

than của người dân. Ta bắt gặp đâu đó trong những bài thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, trong những vần thơ của Cao Bá Quát tình cảm yêu nước sâu
nặng thầm kín. Từ đó có thể khẳng định một lần nữa tình yêu đất nước là một
cảm hứng vô tận với các nhà thơ ở mọi thời kỳ mọi hoàn cảnh.
Đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của con
người Việt Nam lại bật lên mạnh mẽ. Không thể cầm gươm tham gia nghĩa
quân như các sĩ phu yêu nước khác, Nguyễn Đình Chiểu đã đánh giặc bằng
ngòi bút:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Nỗi lo lắng và niềm đau xót cho ách nước, nạn dân ngày càng trở nên
sâu sắc hơn. Mỗi bữa thấy, mỗi ngày trông kẻ thù trước mắt lấn thêm một
bước, Đồ Chiểu đau đớn như bị cắt đi một phần máu thịt. Cảm hứng bao trùm
bài Chạy giặc là sự sửng sốt, nỗi bàng hoàng, lo lắng cho vận nước nạn dân:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay….
Cho nên tinh thần quyết chiến, quyết thắng không chỉ biểu hiện nơi
trận mạc sa trường. Nó còn là lẽ sống, một hạnh phúc được sẵn sàng xả thân


14

cho Tổ quốc. Tư thế của Đặng Dung là tư thế của một kẻ anh hùng, một chí
trai thời loạn:
Vai khiêng trái đất mong phù chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây..
Trong thơ, chúng ta nhận thấy dường như còn có những nỗi buồn sâu
kín của con người trước sự đổi thay của đất nước, những cảnh trớ trêu trong
xã hội, nạn chiến tranh, cát cứ, xâm lựơc. Đó là trường hợp Sông lấp (Tú
Xương), Hội Tây (Nguyễn Khuyến)…Nghe tiếng ếch vẳng bên tai mà Tú

Xương giật mình. Cái giật mình của Tú Xương là cái giật mình chứa bao đau
xót trước hiện thực phũ phàng. Đó là cái giật mình của lòng yêu nước, của
tinh thần dân tộc sâu kín được ấp ủ, nung nấu nhưng không có cách nào giải
tỏa được:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
(Sông lấp)
Còn với Nguyễn Khuyến thì sao? Ông xót xa trước những trò lố lăng,
xúc phạm đến danh dự dân tộc do thực dân Pháp bày ra. Bài Hội Tây đã thể
hiện sâu sắc nỗi đau đó:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.
Tình yêu nước thầm kín được Tam Nguyên Yên Đổ gửi gắm qua bài
thơ. Dẫu chỉ là vịnh cảnh thu mà sao lòng người thấy man mác một nỗi buồn:
Nhân hứng cũng vừa toàn cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào


15

Cái thẹn với ông Đào là cái thẹn của một con người không thể làm gì
cho đất nước trong một hoàn cảnh mới. Nguyễn Khuyến không thể trực tiếp
đánh giặc như những chí sĩ theo phong trào Cần vương, cũng không thể dùng
ngòi bút đánh giặc như Đồ Chiểu, không chịu ở lại làm quan, thoái lui ở ẩn
Nguyễn Khuyến mang theo một tâm trạng nhiều day dứt trăn trở. Sự trăn trở
day dứt đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước mà bất lực trước thời cuộc.
Không chỉ có vậy, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại còn thể hiện
ở việc các nhà thơ ca ngợi cảnh đẹp của quê hương đất nước. Trong thơ, thiên

nhiên đất nứớc Việt Nam hiện lên thật đẹp đẽ, tráng lệ giàu đường nét, màu
sắc. Với thơ thời Trần, qua cảnh trí thiên nhiên các thi sĩ đã gửi vào đó tình
yêu quê hương đất nước của mình. Nguyễn Trung Ngạn khi đi sứ cũng đã viết
nên những vần thơ xúc động về tình yêu quê hương đất nước với những
phong vị riêng của một vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về
(Quy Hứng)
Kể cả một chiếc lá đỏ thưa, một cánh cò chao liệng, một tiếng chuông
vẳng trong mây trời, một tiếng sáo, thuyền câu ngoài bến đậu…Tất cả đều trở
thành nguồn thi hứng cho các thi sĩ thời Trần:
Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến đậu
Trăng rơi đầy nước, móc đầy sông
Còn Nguyễn Trãi, cảnh đẹp thiên nhiên, khí trời lúc sang xuân thật
huyền hồ đầy âm thanh, màu sắc. Xuân về mang theo sự tươi tốt với những
làn mưa. Cỏ ở bến xanh như màu khói bao la bát ngát:


16

Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Bến đò xuân đầu trại)
Cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam đã thể hiện ở nhiều
khía cạnh phong phú và sâu sắc. Đất nước, dân tộc là nỗi niềm khắc khoải
không nguôi trong tâm hồn con người Việt Nam nói chung và các thi sĩ nói
riêng. Vậy nên, ở mỗi nhà thơ có cách khai thác, cảm nhận khác nhau song lại
là vẫn sự thống nhất và làm nên một cảm hứng yêu nước lớn. Chính cảm

hứng ấy đã làm nên cái độc đáo riêng và giá trị của thơ Việt Nam thời trung
đại. Yêu nước trong văn học trung đại gắn với trung quân với tư tưởng phong
kiến nên mang một màu sắc riêng khác biệt với tinh thần yêu nước trong văn
học dân gian. Tình yêu đất nước gắn với các tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo
và đặc biệt là Nho giáo sau này. Tuy nhiên tựu chung tình yêu nước được thể
hiện bằng niềm tự hào dân tộc, về lịch sử văn hiến lâu đời của đất nước, lồng
trong tình yêu thiên nhiên, ca ngợi những chiến công, những nhân vật lịch sử
vĩ đại. Đó là ý chí quyết tâm chiến đấu với kẻ thù, lòng căm thù giặc sâu sắc,
là tư tưởng trung quân tấc đất ngọn rau ơn chúa (Nguyễn Đình Chiểu). Chủ
nghĩa yêu nước phát triển trong dòng văn học viết có những dạng khác nhau
tùy theo hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể. Nhưng nó đã đi cùng quá trình
hình thành và phát triển của văn học trung đại với những khúc thăng trầm
riêng.
Sang đầu thế kỷ XX, văn học hình thành và phát triển trong sự chi
phối của bối cảnh lịch sử xã hội nói chung (lịch sử dân tộc nằm trọn vẹn trong
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp) và sự chi phối
của Tân thư nên văn học giai đoạn này không thuần nhất mà chia thành nhiều
xu hướng. Trong đó có xu hướng văn học yêu nước và cách mạng (văn học


17

bất hợp pháp). Tiêu biểu cho xu hướng văn học này phải kể đến các sáng tác
của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu…
Cảm hứng về đất nước trong thơ ca đầu thế kỷ XX được biểu hiện rõ
qua nội dung yêu nước của các tác giả trong xu hướng văn học này. Đó là tấm
lòng yêu nước nhiệt tình sôi nổi. Yêu nước là yêu non sông gấm vóc, yêu dân
tộc anh hùng, yêu truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, là niềm tự
hào về các chiến thắng của tổ tiên. Yêu nước là tinh thần chiến đấu hi sinh vì
Tổ quốc, là lòng căm thù giặc sâu sắc. Cảm hứng về đất nước còn thể hiện

qua những trăn trở, nghĩ suy cho vận mệnh của đất nước:
Nước ta mất bởi vì đâu
Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân
Một là vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai
(Hải ngoại huyết thư-Phan Bội Châu)
Phan Bội Châu đã cụ thể hóa những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
mất nước, từ đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc trong suốt thời gian bị giam cầm trong nhà lao của
Tưởng Giới Thạch cũng không lúc nào nguôi nghĩ về quê hương, đất nước.
Người luôn trăn trở về tương lai, vận mệnh của dân tộc:
Một canh, hai canh, lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được)


18

Cảm hứng về đất nước trong văn học đầu thế kỷ XX được hình thành
từ truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, nó được biểu hiện trong văn học giai đoạn này với những đặc trưng
riêng góp phần làm nên đặc trưng của cả một thời kỳ văn học.
Cách mạng tháng Tám thành công, là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc,
mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử đất nước. Cách mạng đã khơi nguồn và
làm bừng dậy những cảm hứng thơ ca mới mẻ, mãnh liệt, làm thay đổi hẳn
sắc diện và giọng điệu của nền thơ.

Cảm hứng nổi bật và bao trùm trong thơ ca lúc này là niềm vui sướng,
tự hào dến mức say mê, nồng nhiệt trước cuộc tái sinh màu nhiệm (Hoài
Thanh) của đất nước và con người Việt Nam. Sức sống dồi dào của đất nước
được cảm nhận qua hình ảnh đồng quê bình dị:
Nước non sinh lực dồi dào
Còn căng ngọn mạ dào dào mọc lên
(Đồng quê -Xuân Việt)
Thâm Tâm say sưa ngắm nhìn vẻ đẹp mới mẻ của cảnh vật rất thân
thuộc ở làng quê được hồi sinh :
Nắng hồng trĩu xuống cây rơm
Sáng nay mùa cốm dậy thơm đầy làng
Lúa vươn thân hút ánh vàng
Nguồn tươi vồng nở thu sang mát lành
(Mùa thu mới)
Cảm hứng về đất nước là cảm hứng bao trùm và sâu rộng nhất trong
thơ ca thời kháng chiến chống chống Pháp. Cảm hứng ấy được biểu hiện cụ
thể thành muôn nghìn trạng thái tình cảm trong thơ. Đó là tình cảm thiết tha
và nỗi nhớ da diết về một quê hương Kinh Bắc trù phú, tươi đẹp đang bị giày
xéo dưới gót giày quân xâm lược (Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm), hay


19

một “Xứ Đoài mây trắng lắm” (Mắt người Sơn Tây – Quang Dũng), một mùa
thu Hà Nội với hương cốm mới và “Những phố dài xao xác heo may” trong
thơ Nguyễn Đình Thi, mảnh đất miền Đông trong thơ Xuân Miễn, Đồng Tháp
Mười trong thơ Nguyễn Bính…Đó là tình cảm gắn bó tiền tuyến với hậu
phương, quân với dân như cá với nước đã được nói lên rất chân thực và cảm
động trong thơ Hoàng Trung Thông (Bao giờ trở lại), Hồng Nguyên (Nhớ),
trong một lời quê chân chất của Hồ Vy. Nó cũng thấm sâu vào tình mẹ con

của những người mẹ nông dân với những đứa con Vệ quốc quân (Bầm ơi, Bà
bủ - Tố Hữu) và nỗi nhớ thương mong đợi của người vợ với người chồng đi
chiến đấu (Thăm lúa – Trần Hữu Thung). Đó là nghĩa tình gắn bó và lòng biết
ơn sâu nặng của người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc qua bao
năm tháng cùng chia sẻ đắng cay ngọt bùi, là tình đoàn kết miền ngược với
miền xuôi, là lòng kình yêu vô vàn của nhân dân, chiến sĩ với lãnh tụ của dân
tộc mà gần gũi thân thiết bởi “Người là cha, là bác, là anh”. Cảm hứng về đất
nước còn thể hiện ở tinh thần tự hào dân tộc. Kế tiếp truyền thống ấy từ trong
lịch sử, ở thời đại cách mạng giải phóng cho quần chúng thì lòng tự hào dân
tộc luôn gắn liền với ý thức làm chủ của nhân dân. Đã không ít lần trong thơ
kháng chiến vang lên những lời khẳng định đầy tự hào:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
(Nguyễn Đình Thi)
- Của ta trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ sông này của ta
- Mây của ta, trời thắm của ta
( Tố Hữu).
Một biểu hiện nữa không thể thiếu của cảm hứng về đất nước đó là
cảm hứng phủ định các thế lực thù địch với đất nước. Lòng căm thù giặc sâu


20

sắc, ý chí chiến đấu và tinh thần lạc quan tin tưởng vào ngày mai toàn thắng
được thể hiện rõ trong văn học thời kỳ này.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa bình lập lại,
miền Bắc được giải phóng, từng bước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng
thời nhân dân cả nước ta phải tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài giành thống
nhất Tổ quốc. Hoàn cảnh đó dã mở ra những đề tài và nguồn cảm hứng mới

cho thơ: Cảm hứng về sự hồi sinh của đất nước gắn liền với cảm hứng về lao
động xây dựng, với niềm vui và niềm tự hào của con người lao động làm chủ.
Bên cạnh đó, cảm hứng về đất nước trong thơ ca thời kỳ này còn được biểu
hiện qua tình cảm của miền Bắc hướng về miền Nam ruột thịt và khát vọng
thống nhất đất nước. Cùng với cảm hứng về cuộc sống mới, về sự hồi sinh
của đất nước, vể miền Nam và đấu tranh thống nhất, thơ cũng đã khai thác
cảm hứng lịch sử, chủ yếu là về cuộc kháng chiến chống Pháp:
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thơ ca Việt Nam mang những diện
mạo mới và những đặc trưng riêng, với những thành tựu đặc sắc. Chủ nghĩa
yêu nước là nguồn cảm hứng lớn bao trùm và thấm sâu trong mọi tác phẩm
thơ ca. Kế tục truyền thống yêu nước của nền thơ dân tộc, chủ nghĩa yêu nước
trong thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ được phát triển tới những chiều cao
và độ sâu mới, và được biểu hiện hết sức phong phú và đa dạng. Đã bao nhiêu
lần trong thơ thời kì này vang lên những tiếng gọi tổ quốc, khi thì hào hùng
trang nghiêm, lúc lại thiết tha sâu lắng:
Ôi tổ quốc giang sơn hùng vĩ
Đất anh hùng của thế kỉ hai mươi
(Miền nam – Tố Hữu)


21

Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
(Sao chiến thắng – Chế Lan Viên )
Không chỉ cảm nhận tổ quốc bằng tình cảm, thơ còn khám phá, phát hiện
về tổ quốc bằng nhận thức sâu sắc, bằng sức mạnh tư tưởng của thời đại. Đất

nước được nhìn nhận trong tính toàn vẹn và trong những chiều kích dài rộng
của không gian và thời gian. Đất nước là núi sông hùng vĩ, trời biển bao la:
Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang
Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa
(Lê Anh Xuân)
Đất nước còn hiện hữu trong những điều thân thuộc, gần gũi:
- Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
- Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Ở thời kỳ này, thơ ca đặc biệt coi trọng sự phát hiện về đất nước trong
thời gian lịch sử và bề sâu văn hóa. Ý thức về lịch sử, chủ yếu là lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước, đã mở rộng và làm sâu sắc hơn cho quan niệm
về đất nước, dân tộc. Ta luôn bắt gặp trong thơ những từ ngữ và hình ảnh về
thời gian lịch sử, về bốn nghìn năm đất nước: “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”
(Tố Hữu), “Ta sống cùng tổ quốc bốn nghìn năm, mà ta chưa hiểu hết” (Chế
Lan Viên). Chưa bao giờ lịch sử đấu tranh của dân tộc lại được làm sống dậy
với tất cả niềm tự hào và say sưa như trong thơ ca thời kỳ này.
Đất nước dân tộc còn được nhìn nhận trong tương quan với nhân loại,
với thời đại để khẳng định sứ mệnh của dân tộc Việt Nam. Các nhà thơ đã tạo
dựng những hình tượng thật lớn lao kỳ vĩ về tổ quốc trong không gian và thời


×