Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tiểu thuyết Vùng Sâu của Tô Nhuận Vỹ từ góc nhìn diễn ngôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.81 KB, 104 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
______________________

LÊ THỊ THANH HUYỀN

TIỂU THUYẾT VÙNG SÂU CỦA TÔ NHUẬN VỸ
TỪ GÓC NHÌN DIỄN NGÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI – 2013


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Quan niệm trước đây xem văn học là nghệ thuật ngôn từ, xem ngôn
từ chính là yếu tố quan trọng tạo nên đặc trưng riêng của văn học với các loại
hình nghệ thuật khác. Cách tiếp cận này hầu như chỉ tập trung chú ý vào đặc
trưng văn học, vào tính thẩm mĩ của văn học, mà thường đối lập văn học với ý
thức hệ xã hội. Lí thuyết diễn ngôn xem văn học là một diễn ngôn do các quy
tắc mang tính chất ý thức hệ của thời đại qui định. Nghiên cứu diễn ngôn tiểu
thuyết là một hướng nghiên cứu mới, một hướng tiếp cận khác. Nó không tập
trung nghiên cứu tiểu thuyết theo hướng xem xét phản ánh cái gì, việc phản
ánh có chân thực hay không mà chủ yếu đi vào nghiên cứu tác phẩm ở phương
diện tư tưởng, thế giới quan; nghiên cứu cách nhà văn kiến tạo nên thế giới


bằng các phương thức nghệ thuật.
1.2. Khi đặt vấn đề nghiên cứu tiểu thuyết Vùng sâu của Tô Nhuận Vỹ từ góc nhìn diễn ngôn tức là ta không chỉ nghiên cứu ngôn từ mà chủ yếu
nghiên cứu các quy tắc tư tưởng xã hội đã chi phối sáng tác của nhà văn. Ngôn
ngữ không chỉ là công cụ phản ánh mà chính là nội dung, là sự kiến tạo nội
dung. Bởi thực tiễn diễn ngôn “nói” như thế nào không chỉ phụ thuộc vào ngữ
học mà còn phụ thuộc vào hệ thống tri thức hợp thức và tính quyền lực của tri
thức đó. Văn học trong từng giai đoạn lịch sử chỉ được kiến tạo theo những hệ
tri thức nhất định.
Như vậy, có thể nói, cách nghiên cứu diễn ngôn mà chúng tôi sử dụng là
một hướng nghiên cứu mới dù nó không mâu thuẫn, không đối chọi cũng
không bác bỏ cách nghiên cứu trước đây. Cách nghiên cứu này cho phép xem
xét văn học ở những bình diện mới. Đây là kiểu nghiên cứu liên ngành, cho
thấy được mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tư tưởng; giữa văn học và
văn hóa, giữa tính xã hội và tính thẩm mĩ. Đây thực sự là một hướng đi có


3

nhiều triển vọng, mở ra sự phát triển của lịch sử văn hoá tư tưởng. Bởi lẽ việc
nghiên cứu văn học như một sản phẩm ngôn từ thuần tuý cũng cần thiết nhưng
ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của xã hội học văn học cho ta thấy rằng khó
có thể giải quyết những vấn đề của văn học chỉ thuần túy dựa trên những yếu tố
nội tại của văn bản mà cần phải đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn hơn của
những vấn đề văn hóa xã hội.
1.3. Tô Nhuận Vỹ là nhà văn được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn
học nghệ thuật cho bộ tiểu thuyết Dòng sông phẳng lặng và Ngoại ô. Ông là
người của sông Hương xứ Huế, giàu vốn sống và trải nghiệm về nghề báo,
nghiệp văn. Sau hành trình 45 năm cầm bút trong chiến tranh và hòa bình, Tô
Nhuận Vỹ đã để lại nhiều tác phẩm thu hút sự chú ý của người đọc: Người
sông Hương (Truyện ngắn 1970), Em bé làng Đạo (Truyện ngắn 1970), Làng

thức (Truyện ngắn 1973), Dòng sông phẳng lặng (Tiểu thuyết 1973 - 1982),
Ngoại ô (Tiểu thuyết 1983), Phía ấy là chân trời (Tiểu thuyết 1988). Sau hơn
20 năm, nhà văn mới trình làng cuốn tiểu thuyết Vùng sâu chủ yếu viết về vấn
đề hậu chiến.
Tiểu thuyết Vùng sâu hoàn thành vào tháng 10/2010 được giải thưởng
của Quỹ Phùng Quán với ghi nhận “Hấp dẫn và sâu sắc, phản ánh trung thực
nỗi đau nhân tâm thời hậu chiến ở Huế”. Tuy nhiên, đây là một tác phẩm mới,
chưa được công bố rộng rãi vì vậy những công trình nghiên cứu về tác phẩm
này chưa có. Chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: Tiểu thuyết Vùng sâu của Tô
Nhuận Vỹ - từ góc nhìn diễn ngôn là công trình nghiên cứu đầu tiên về tác
phẩm này.
2. Lịch sử vấn đề
Về nghiên cứu diễn ngôn ở Việt Nam
Thuật ngữ diễn ngôn không chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam những năm
gần đây. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về diễn ngôn, trong đó có cả các


4

sách dịch và giáo trình biên soạn như: Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của
David Nunam [40]; Phân tích diễn ngôn của Gallian Brown và George Yule
[8]; Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban [6]; Đỗ Hữu
Châu với Đại cương ngôn ngữ học [10]; Phân tích diễn ngôn – một số vấn đề
lý luận và phương pháp [21] của Nguyễn Hòa... Tuy nhiên, những công trình
này đều đặt diễn ngôn trong bối cảnh lý thuyết trước hậu cấu trúc, tiếp cận diễn
ngôn dưới góc độ dụng học, chú trọng phân tích ngôn ngữ, cắt nghĩa lời nói.
Một số nghiên cứu cụ thể như Khía cạnh văn hóa của ngôn ngữ [22] hay
Nghiên cứu diễn ngôn chính trị - xã hội (trên tư liệu tiếng Anh và tiếng Việt
hiện đại) [22] của Nguyễn Hòa, hay Tìm hiểu và phân tích diễn ngôn phê bình
[5] của Diệp Quang Ban... Những công trình trên không chỉ giúp làm rõ khái

niệm diễn ngôn trong văn học mà còn mở ra các hướng tiếp cận diễn ngôn văn
học cụ thể như ngôn ngữ học và phong cách học.
Lý thuyết diễn ngôn của Foucault ra đời tạo nên một dấu ấn đặc biệt
trong khoa học lý luận, đồng thời thu hút sự quan tâm lớn của nhiều nhà nghiên
cứu trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên
cứu đầy đủ về quan niệm diễn ngôn của Foucault được xuất bản, song cũng có
không ít các công trình nghiên cứu bàn về diễn ngôn có ý nghĩa quan trọng
trong lý luận. Đáng chú ý nhất là cuốn Diễn ngôn [32] của Sara Mills (Trần
Văn Toàn, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lương Thị Hiền, Đinh
Minh Hằng dịch). Cuốn sách đã đưa ra những phân tích cụ thể cho thấy sự phát
triển trong quan niệm của Foucault về diễn ngôn, đồng thời chỉ rõ việc sử dụng
ngôn ngữ chính là hình thức mã hóa của tri thức và quyền lực. Theo đó, cuốn
sách cũng đưa ra những phân tích quan trọng dựa trên việc áp dụng lý thuyết
diễn ngôn của Foucault vào phân tích xã hội học, nữ quyền luận, thuộc địa và
hậu thuộc địa. Ngoài ra, không thể không nhắc đến những công trình dịch và
nghiên cứu quan trọng như Văn học như một hình thức diễn ngôn - dịch và giới


5

thiệu những khái niệm cơ bản [35] và Ba cách tiếp cận diễn ngôn [33] của
Nguyễn Thị Ngọc Minh; Michel Foucault và nghiên cứu lịch sử của Nguyễn
Quốc Anh [1]; Foucault về diễn ngôn [14] và Mô hình phát triển kiến thức theo
Michel Foucault [13] của Cao Việt Dũng...
Tuy chưa có một giáo trình chính thức nào trình bày thống nhất và cụ thể
về lý thuyết diễn ngôn (theo Foucault), song những tiền đề trên thực sự là
những gợi mở đáng quý. Đã có nhiều công trình khoa học bắt đầu đưa ra lý
thuyết diễn ngôn và ứng dụng nghiên cứu trên những đối tượng văn bản cụ thể,
có thể kể đến: Về văn xuôi tính dục trong văn xuôi Việt Nam (từ đầu thế kỷ XX
đến 1945) [50] của Trần Văn Toàn; Nguyễn Thị Ngọc Minh với Diễn ngôn về

xứ thuộc địa trong tác phẩm “Người tình” của Marguerite Duras [34]; Diễn
ngôn lịch sử và văn hóa trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh [27] của
Nguyễn thị Diệu Linh; Ngô Thị Thanh với Diễn ngôn tính dục trong “The
diary of Shinjuku thief” của Nagisa Oshima [43]; Diễn ngôn trong truyện ngắn
kỳ ảo đầu thế kỷ [20] của Phạm Thị Minh Hòa; Diễn ngôn về giới trong
“Người tình” của Marguerite Duras [56] của Trần Thị Hoàng Yến,... Đặc biệt,
với những nghiên cứu sâu sắc trong dẫn nhập lý thuyết, hai công trình Diễn
ngôn thơ Việt Nam giai đoạn 1986 - 1991 [24] của Trần Thiện Khanh và Thơ
Trần Dần – nhìn từ lý thuyết diễn ngôn của M. Foucault [19] của Đinh Minh
Hằng đã là những hướng dẫn quan trọng cho đề tài của chúng tôi.
Về tiểu thuyết Vùng sâu và tác giả Tô nhuận Vỹ:
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 - 8- 1941
tại Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Sau khi học các trường học sinh
miền Nam, ông vào Đại học Sư phạm Hà Nội, rồi vào chiến trường Trị Thiên
Huế. Sau chiến tranh ông từng là Tổng thư kí hội văn nghệ Bình Trị Thiên,
Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Hiện nay là giám đốc Sở Ngoại Vụ Thừa
Thiên Huế. Tiểu thuyết Vùng sâu ra đời sau một thời gian dài ấp ủ và thai


6

nghén. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã từng “bật mí” rằng, đó chính là tiểu thuyết
“Mưa rơi trên cầu”, ông bỏ dở rồi làm lại vì những nhân vật mà ông đề cập có
một thực tế cuộc sống sâu sắc hơn, cần phải có những trang viết xứng tầm.
Tiểu thuyết Vùng sâu có chủ đề, luận đề rất quan trọng, trong đó đề cập đến sự
vô ơn đối với những người có công. Dù chiến tranh đã lùi xa gần 40 năm
nhưng đây vẫn là vấn đề nhức nhối. Do đây là một tác phẩm mới, chưa được
công bố rộng rãi nên những bài viết nghiên cứu, phê bình về tác phẩm này
chưa nhiều.
3. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài nghiên cứu: Tiểu thuyết Vùng sâu của Tô Nhuận Vỹ - từ góc nhìn
diễn ngôn nhằm mục đích:
Nghiên cứu lý thuyết diễn ngôn để làm điểm tựa tìm hiểu diễn ngôn
trong tiểu thuyết Vùng Sâu của Tô Nhuận Vỹ.
Từ tiểu thuyết Vùng Sâu luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu hai khuynh hướng
đặc trưng đó là diễn ngôn thế tục và diễn ngôn chấn thương .
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn trước hết là lí thuyết về diễn ngôn.
Chúng tôi không có tham vọng chiếm lĩnh tất cả kiến giải về diễn ngôn mà chỉ
đi vào tìm hiểu một số quan niệm tiêu biểu để xây dựng khái niệm diễn ngôn
làm điểm tựa cho quá trình nghiên cứu của mình.
Khi tiếp cận tiểu thuyết Vùng sâu của Tô Nhuận Vỹ từ diễn ngôn, chúng
tôi không có ý định bao quát toàn bộ thực thể này mà chủ yếu chỉ tập trung vào
hai khuynh hướng diễn ngôn mà luận văn nghiên cứu đó là Diễn ngôn thế tục
và Diễn ngôn chấn thương.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài, chúng tôi chủ trương phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau:


7

Phương pháp hệ thống: Hệ thống lại những quan điểm, luận điểm, hay
những vấn đề được đặt ra trong công trình nghiên cứu về diễn ngôn.
Phương pháp liên ngành: Diễn ngôn có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực
như chính trị, xã hội, văn hóa,... Vì vậy, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ
sử dụng phương pháp liên ngành để có được cái nhìn bao quát vấn đề.
Phương pháp xã hội học: Vùng sâu đề cập đến rất nhiều vấn đề mà xã
hội học quan tâm, chúng tôi sẽ soi chiếu tác phẩm dưới cái nhìn xã hội học để
việc nghiên cứu được trọn vẹn hơn.

Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thao tác như so sánh, thống kê, phân
tích tổng hợp...để rút ra những luận điểm đặc trưng và khái quát nhất cho vấn
đề.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu tác phẩm Vùng sâu dưới góc
nhìn diễn ngôn. Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng rằng đây sẽ là
một đóng góp nhỏ vào việc ứng dụng các lý thuyết mới trong việc phân tích và
tìm hiểu những diễn ngôn cụ thể.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tham khảo, Nội dung của
luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về diễn ngôn và trường tri thức chi phối diễn ngôn
trong tiểu thuyết Vùng sâu
Chương 2: Diễn ngôn thế tục trong tiểu thuyết Vùng sâu
Chương 3: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết Vùng sâu


8

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ DIỄN NGÔN VÀ TRƢỜNG TRI THỨC CHI PHỐI
DIỄN NGÔN TRONG TIỂU THUYẾT VÙNG SÂU
1.1. Khái quát về diễn ngôn
Thời gian gần đây, khái niệm diễn ngôn đã được sử dụng khá rộng rãi ở
nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực nghiên cứu văn học, song nội hàm của nó
thì vẫn chưa được làm sáng tỏ. Nhiều nhà khoa học xác nhận đó là khái niệm
còn bỏ ngỏ, mỗi người nghiên cứu sử dụng theo những cách biểu hiện riêng
của mình, người đọc phải dựa vào ngữ cảnh để hiểu cách dùng trong từng
trường hợp cụ thể. Vì thế, việc tìm cách xác định nó vẫn là một đòi hỏi bức

thiết của khoa học. Theo khảo chứng của Manfred Frank, diễn ngôn (discourse)
bắt nguồn từ tiếng La Tinh “discoursus”, mà từ này có gốc động từ là
“discoursere” có nghĩa là tán chơi, nói huyên thuyên. Như vậy, diễn ngôn là
một lối nói, cách nói, hoặc một lượt nói có độ dài không xác định, sự triển khai
không bị hạn định, bởi chủ ý nghiêm ngặt. Trong tiếng Pháp, “diễn ngôn” rất
gần với tán gẫu, nói chuyện phiếm, kể chuyện, cao đàm khoát luận... Theo
, diễn ngôn được hiểu là “sự giao tiếp tranh luận bằng
ngôn ngữ nói hay viết. Diễn ngôn còn có thể được gọi bằng tên khác như hội
thoại, tranh luận hay chuỗi lời nói”. Còn theo Collins Concise English
dictionary (1988) thì diễn ngôn được hiểu với những hàm nghĩa sau: “Thứ nhất
là sự giao tiếp bằng lời, nói chuyện hội thoại. Thứ hai là sự triển khai một vấn
đề nào đấy bằng cách nói hoặc viết theo một trật tự. Thứ ba, các nhà ngôn ngữ
học thường sử dụng thuật ngữ diễn ngôn để chỉ một đơn vị của văn bản - đơn
vị ngôn ngữ lớn hơn câu” [Dẫn theo Sara Mills/32,1]. Trên diễn đàn
, Longman đưa ra định nghĩa diễn ngôn trên cơ sở
của ba nét nghĩa: “Thứ nhất một bài phát biểu hoặc một đoạn viết quan trọng


9

về một vấn đề cụ thể. Thứ hai là một cuộc trò chuyện hoặc một cuộc thảo luận
quan trọng giữa mọi người. Thứ ba là ngôn ngữ được sử dụng trong một kiểu
loại đặc biệt của văn nói hoặc văn viết”. Tác giả cuốn The Routledge
dictionany of literary terms khẳng định rằng: “Cho đến nửa sau thế kỷ 20,
thuật ngữ “diễn ngôn” vẫn mang ý nghĩa cơ bản là sự trình bày một vấn đề cụ
thể bằng cách nói hay viết theo một trật tự trước sau”. Các ý nghĩa khác xa
nhau, xung đột, mâu thuẫn nhau, do đó chưa có nội hàm thuật ngữ khoa học
xác định.
1.1.1. Một số hướng tiếp cận diễn ngôn
Theo tài liệu nghiên cứu Ba hướng tiếp cận định nghĩa diễn ngôn [33]

của Nguyễn Thị Ngọc Minh – một trong những tác giả nghiên cứu và giới thiệu
lí thuyết diễn ngôn mới vào Việt Nam: “Con đường thông minh nhất khi tiếp
cận thuật ngữ này là đặt nó vào những bối cảnh, nét nghĩa nào được khai triển
và sáng tạo thêm.”. Theo đó, tác giả đã khái quát và đưa ra ba hướng tiếp cận
định nghĩa, chúng tôi xin lược trích lại như sau:
1.1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học
Nền tảng của hướng tiếp cận ngôn ngữ học về diễn ngôn là những luận
điểm của F.de Sausure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Sự ra đời của
cuốn giáo trình này đã đánh dấu một bước ngoặt trong nghiên cứu ngôn ngữ:
chuyển từ nghiên cứu sự biến đổi của ngôn ngữ qua các thế hệ sang nghiên cứu
bản chất của ngôn ngữ như một hệ thống tĩnh tại, khép kín. Trong công trình
này, Saussure phân biệt ngôn ngữ và lời nói. Ngôn ngữ là một hệ thống, một
kết cấu tinh thần trừu tượng, khái quát trong khi lời nói là sự vận dụng ngôn
ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể, bởi các cá nhân cụ thể. Ngôn ngữ là bản thể
xã hội, thuộc về cộng đồng trong khi lời nói thuộc về cá nhân. Ngôn ngữ là
những cấu trúc tiên nghiệm và bất biến trong khi lời nói là bình diện sinh


10

thành. Ông chỉ ra đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, sản
phẩm của xã hội kết đọng lại trong óc mỗi người chứ không phải là lời nói.
Sự đối lập lời nói/ ngôn ngữ trong quan điểm của Saussure đã làm nền
tảng cho sự phân biệt giữa discourse (diễn ngôn) và text (văn bản). Văn bản
(text) là cấu trúc ngôn ngữ mang tính chất tĩnh, còn diễn ngôn (discourse) là
cấu trúc lời nói mang tính động. Trên cơ sở đối lập này, vào những năm 1960,
ngôn ngữ học đã rẽ sang hai hướng: một hướng đi sâu nghiên cứu cấu trúc nội
tại của các văn bản như một hệ thống chỉnh thể, khép kín và biệt lập và hướng
còn lại, chuyên nghiên cứu cấu trúc diễn ngôn trong mối quan hệ với ngữ cảnh
phát ngôn, nhân vật phát ngôn... Cả hai khuynh hướng này đều được hình

thành trong bối cảnh sự phát triển và cực thịnh của chủ nghĩa cấu trúc, vì thế
chúng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của trào lưu lí thuyết này. Tuy nhiên, trong
các công trình nghiên cứu thuộc hai khuynh hướng này, không phải lúc nào
diễn ngôn và văn bản cũng được phân biệt một cách rạch ròi.
Cũng thời kì này, khi ngôn ngữ học của Saussure và chủ nghĩa cấu trúc
của Bloomfield phát triển đến giai đoạn cực thịnh, người ta bắt đầu cảm thấy
sự chật chội và hạn hẹp của ngôn ngữ học lấy câu làm đơn vị lớn nhất đề xuất
nghiên cứu đơn vị ngôn ngữ lớn hơn câu. Từ đây, nghiên cứu văn bản trở thành
một khuynh hướng nghiên cứu hết sức rầm rộ. Văn bản được coi như sự nối dài
của câu và người ta dùng những công cụ phân tích cấu trúc câu để phân tích
văn bản.
Trong cuốn Nhập môn nghiên cứu cấu trúc truyện kể, Roland Barthes có
tham vọng khái quát sự đa dạng, muôn hình vạn trạng của các thể loại tự sự của
các nền văn hóa, các lớp người, các nhóm xã hội vào một số mô hình nhất
định. Giống như Saussure trước hiện tượng nhiều dạng của hoạt động lời nói,
ông chỉ ra nguyên tắc để phân loại và cơ sở để mô tả chúng là “hệ thống ẩn của
các đơn vị cơ sở và quy tắc liên kết chúng lại”. Năm 1968, trong Ngữ pháp kể


11

truyện , Todorov cho rằng, mặc dù số lượng truyện kể là vô hạn, song cách đưa
ra truyện kể và lý giải truyện kể của người đọc ở mọi nơi, mọi thời đại đều có
điểm tương đồng. Ông không quan tâm đến việc phân tích các văn bản văn học
cụ thể, mà theo ông, mỗi tác phẩm văn học là một ví dụ, là chất liệu nghiên cứu
thuộc tính chung, trừu tượng của văn học. Trên cơ sở đó, việc phân tích văn
bản văn học bao gồm phân tích các phương diện: phương diện ngữ nghĩa (được
phát triển thành hai nhóm: nhóm các yếu tố cùng hiện diện trong một văn bản
và nhóm các yếu tố vắng mặt); phương diện từ (gồm các dạng nói về mức độ
tồn tại và các sự kiện được miêu tả trong văn bản và thời tức là quan hệ giữa

hai trục thời gian: trục vốn có của văn bản tác phẩm và trục thời gian của sự
kiện, nhân vật hư cấu trong một thế giới vốn được tổ chức phức tạp hơn nhiều,
và cuối cùng là cách nhìn mà từ nó các sự kiện được tri giác); phương diện cú
pháp (các cấu trúc văn bản như sự tổ chức thời gian, tổ chức không gian) [53].
Trong diễn ngôn tự sự (Narrative discourse), trên cơ sở phân biệt “discourse”
và “story”, G.Gennette cho rằng diễn ngôn tự sự là cách thức trình bày một câu
chuyện. Tác giả đã phân chia diễn ngôn tự sự thành các phạm trù ngữ pháp
như: thời, thức, và giọng. Trong đó, thời và thức nằm ở cấp độ mối quan hệ
giữa hoạt động kể và diễn ngôn tự sự, giữa hoạt động kể và câu chuyện [17].
Cũng trong giai đoạn này, khái niệm diễn ngôn bắt đầu được sử dụng
rộng rãi và đặc biệt trở thành một khái niệm trung tâm trong trường phái phân
tích diễn ngôn (hay còn gọi là nghiên cứu diễn ngôn), một hướng nghiên cứu
có phạm vi và ảnh hưởng rộng rãi, bao trùm rất nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ
học, xã hội học, tâm lý xã hội học, nghiên cứu văn học...
Theo tác giả Diệp Quang Ban, “Trong cách hiểu ngắn gọn nhất, phân
tích diễn ngôn là một cách tiếp cận phương pháp luận đối với việc phân tích
ngôn ngữ bên trên bậc câu, gồm các tiêu chuẩn như tính kết nối, hiện tượng hồi
chiếu... Nếu như ngữ pháp văn bản chuyên nghiên cứu văn bản một cách biệt


12

lập, hoàn toàn tách rời khỏi ngữ cảnh thì phân tích diễn ngôn nhằm làm nổi bật
mối quan hệ chặt chẽ giữa kết cấu ngôn từ bên trong văn bản với những yếu tố
ngoài văn bản (hay còn gọi là ngôn vực). Các yếu tố này bao gồm trường
(field) (hoàn cảnh bao quanh diễn ngôn), thức (mode) (vai trò của ngôn ngữ
trong tình huống), không khí chung (tennor) (các vai xã hội trong giao tiếp).
Như vậy là, dưới cái nhìn của các nhà cấu trúc, tất cả các hành động của
con người và các cơ cấu tổ chức của xã hội đều liên quan đến ngôn ngữ, và có
thể được tìm hiểu như một hệ thống gồm các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với

nhau. Mỗi yếu tố trong hệ thống chỉ có ý nghĩa khi nó được đặt trong một cấu
trúc tổng thể. Nói cách khác, các cấu trúc tổng thể sẽ quy định ý nghĩa và chức
năng của những yếu tố cấu thành nên nó. Và diễn ngôn cũng là một cấu trúc
khép kín, nội tại, được cấu thành từ những yếu tố bất biến là các phạm trù ngữ
pháp như thời, thức, thể, giọng, ngôi... Cách tiếp cận này đã khiến cho nhà
nghiên cứu, khi phân tích diễn ngôn, đặc biệt chú trọng đến phương diện cấu
trúc và nỗ lực tìm kiếm những mô hình ngôn ngữ mang tính chất tĩnh – cơ chế
ẩn tàng của tổ chức ngôn từ trong văn bản cũng như diễn ngôn.
1.1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học
Có thể coi Mikhail Bakhtin là người khởi nguồn cho một truyền thống
mới trong nghiên cứu diễn ngôn. Tư tưởng về diễn ngôn của Bakhtin có vai trò
như một bản lề, hay một cầu nối bắc từ quan niệm về diễn ngôn của ngôn ngữ
học cấu trúc sang quan niệm diễn ngôn của các trường phái lý luận hậu hiện
đại.
Công trình nghiên cứu thể hiện tập trung nhất quan điểm của Bakhatin
về diễn ngôn là Tiểu luận “Vấn đề các thể loại lời nói” viết vào khoảng những
năm 1952 – 1953. Nếu như hướng tiếp cận ngôn ngữ học về diễn ngôn được
hình thành trên cơ sở ngôn ngữ học Saussure thì hướng tiếp cận phong cách


13

học về diễn ngôn lại được phát triển dựa trên nền tảng đối lập với những quan
điểm của Saussure về ngôn ngữ.
Diễn ngôn, hay lời nói, là khái niệm trung tâm trong quan điểm của
Bakhtin về ngôn ngữ. Ông cho rằng, diễn ngôn là ngôn ngữ trong chỉnh thể
sống động, cụ thể, là ngôn ngữ trong sử dụng, trong bối cảnh xã hội, của những
giọng xã hội mâu thuẫn và đa tầng. Diễn ngôn là lãnh thổ chung của người nói
và người nghe, khu vực tiếp xúc giữa ta và người. Diễn ngôn là mảnh đất giao
cắt, hội tụ, tranh biện của những tư tưởng, quan niệm khác nhau về thế giới.

Bởi thế, Bakhtin nhấn mạnh, đối thoại là bản chất của diễn ngôn. Mỗi người
nói không phải là người nói đầu tiên, mà đều là người trả lời, là người đối thoại
với hàng ngàn người trước đó. Người nghe không phải là người lắng nghe một
cách thụ động mà là người chủ động hồi đáp. Mỗi đối tượng của phát ngôn đều
đã từng được bàn bạc, soi sáng, đánh giá nhiều lần, theo những cách khác nhau,
hay nói cách khác, các quan điểm, thế giới quan, các xu hướng khác nhau giao
cắt, tán đồng, đối địch với nhau ngay trên đối tượng ấy.
Trong thực tế, các phát ngôn thường cấu kết với nhau và được tổ chức
trong những hình thức ổn định mà ông gọi là các thể loại lời nói. Thể loại lời
nói là những loại hình phát ngôn tương đối bền vững, được sản sinh ra trong
một phạm vi sử dụng ngôn ngữ cụ thể, là một chỉnh thể bao gồm ba bình diện:
nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu. Bằng phạm trù thể loại lời nói,
Bakhtin đã thể hiện sự phê phán của ông đối với phong cách học truyền thống
và đề xuất, muốn nghiên cứu phong cách ngôn ngữ hay phong cách cá nhân,
không thể không đi sâu tìm hiểu các thể loại lời nói. Bởi “thực chất phong cách
ngôn ngữ hay phong cách chức năng chẳng phải là gì khác, mà chính là phong
cách thể loại ở những lĩnh vực nào đó trong hoạt động giao tiếp của con
người”, và “mọi thay đổi lịch sử của các phong cách ngôn ngữ đều gắn với sự
thay đổi của các thể loại lời nói” [5].


14

Như vậy, nếu phát ngôn mang đậm sắc thái cá nhân, thể hiện phong cách
của các chủ thể phát ngôn khác nhau, thì thể loại lời nói đại diện cho phong
cách ngôn ngữ của mỗi thời đại, mang tính chất cộng đồng, xã hội, là cái có
trước, chi phối phát ngôn của các cá nhân. Mối liên hệ giữa phát ngôn như là
đơn vị lời nói của các thể và thể loại lời nói như là cái kho lưu trữ giữ các phát
ngôn của cộng đồng, thời đại cũng cho thấy bản chất đối thoại của diễn ngôn/
lời nói. Qua mối quan hệ tác động giữa hai yếu tố này, Bakhtin nhấn mạnh tính

chủ thể của diễn ngôn, song ông cũng cho thấy quyền lực của ngôn từ đối với
tư duy và giao tiếp của con người - đó là một thứ quyền lực trong suốt, vô hình,
ẩn sâu trong vô thức cộng đồng và len lỏi vào từng ngõ ngách mỗi phát ngôn
cụ thể của con người.
Nếu giáo trình ngôn ngữ học của Saussure đánh dấu một sự thay đổi hệ
trọng trong ngôn ngữ: chuyển từ nghiên cứu sự biến chuyển của ngôn ngữ
trong lịch sử sang nghiên cứu ngôn ngữ như một hệ thống tĩnh tại, biệt lập và
khép kín, thì với một quan niệm mới diễn ngôn, Bakhtin đã đưa ngôn ngữ học
rẽ sang một bước ngoặt mới: chuyển từ nghiên cứu ngôn ngữ như một thể tĩnh
tại, khép kín và biệt lập sang nghiên cứu ngôn ngữ trong giao tiếp, trong thực
tiễn đời sống đa dạng và sinh động. Nếu Saussure nhấn mạnh đến tính cấu trúc
của ngôn ngữ thì Bakhtin đặc biệt quan tâm đến tính đối thoại của lời nói. Nếu
các lý thuyết văn học được triển khai trên nền tảng ngôn ngữ học cấu trúc có
xu hướng đồng quy các văn bản/ diễn ngôn vào những mẫu số chung thì lý
thuyết văn học của Bakhtin nhằm chỉ ra sự phức tạp, đa diện và biến đổi không
ngừng của các văn bản/ diễn ngôn trong lịch sử. Quan niệm về tính lịch sử, tính
xã hội này của diễn ngôn sau này sẽ gặp gỡ, hay cũng có thể nói, sẽ đặt nền
tảng cho một sự chuyển hướng cực kì quan trọng trong tư duy lý thuyết thế kỉ
XX: trào lưu giải cấu trúc.


15

1.1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học
Trung tâm điểm của hướng tiếp cận thứ ba này là những quan niệm về
diễn ngôn của Michel Foucault, người được coi là ông tổ của các lý thuyết hậu
hiện đại và có ảnh hưởng lớn nhất đến nghiên cứu diễn ngôn từ sau những năm
1960. Trước tác của ông bao trùm lên rất nhiều lĩnh vực trong khoa học xã hội
và nhân văn, đề cập đến những chủ đề khác biệt nhau như chứng điên và văn
minh, kỷ luật và hình phạt, tính dục...đến nỗi khó có thể xác quyết ông là một

nhà lịch sử, nhà văn hóa học, nhà triết học, chính trị học hay xã hội học. Những
vấn đề mà ông đặt ra cũng như cách thức tư duy của ông đã làm xô lệch đường
phân giới giữa các ngành khoa học, và làm điểm tựa cho sự phát triển của
nhiều ngành khoa học mới. Khái niệm diễn ngôn tuy không được giới thuyết
một cách hệ thống trong một công trình lý thuyết cụ thể nào của ông, song lại
là một mắt xích, một chìa khóa quan trọng đến mức nếu không hiểu khái niệm
này, thì người đọc khó có thể tiếp cận toàn bộ các trước tác khổng lồ với những
tư tưởng khá dị biệt của ông. Tuy nhiên, bởi không thể tiếp cận toàn bộ các
công trình nghiên cứu phức tạp của Foucault, nên chúng tôi chủ yếu tóm lược
và diễn giải những luận điểm chính trong quan niệm của ông về diễn ngôn dựa
trên những tổng thuật có uy tín, và tiểu luận Trật tự diễn ngôn - một tiểu luận
tập trung rất nhiều những tư tưởng quan trọng của Foucault về thuật ngữ này.
Theo Sara Mills trong Discourse, có thể thấy ba cách định nghĩa khác
nhau về diễn ngôn trong các trước tác của Foucault. Thứ nhất, diễn ngôn được
coi là tất cả các nhận định nói chung, đó là tất cả các phát ngôn hoặc văn bản
có nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực. Thứ hai, diễn ngôn là
một nhóm các diễn ngôn cụ thể, được quy ước theo một cách thức nào đó và có
một mạch lạc hoặc một hiệu lực nói chung, “được nhóm lại với nhau bởi một
áp lực mang tính thiết chế nào đó, bởi sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay
bởi chúng cùng hành động theo một cách gần giống nhau” [32]. Ví dụ, diễn


16

ngôn nữ giới là một nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là nhằm phản
kháng lại diễn ngôn về phụ nữ của đàn ông, diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc là
nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là áp đặt quyền lực thực dân lên
những xứ sở thuộc địa... Thứ ba, diễn ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số
các nhận định và chi phối việc vận hành của chúng [32].
Quan niệm thứ ba về diễn ngôn là quan niệm có ảnh hưởng lớn nhất đến

các nhà nghiên cứu sau này. Ở đây, diễn ngôn không chỉ được coi như “một cái
gì tồn tại cố hữu, tự thân và có thể được phân tích một cách cô lập” [32], mà là
những quy tắc và cấu trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và những văn bản cụ
thể. Đó là một hệ thống của “ những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, cách thức
tư duy và hành xử, những cái được hình thành trong một bối cảnh xã hội cụ
thể” [32], có một hiệu lực chung đối với cách suy nghĩ và nói năng của mỗi
nhóm người cũng như mỗi cá nhân. Hay nói cách khác, nó là một thứ khuôn
khổ cho phép và giới hạn nhận thức và phát ngôn của chủ thể về thế giới, thậm
chí về bản thân. Cách định nghĩa thứ ba này cho thấy bản chất thuộc về các
thiết chế, bản chất bị chi phối bởi luật lệ của diễn ngôn, nó cho thấy các diễn
ngôn không được tạo ra từ hư không, mà sinh mệnh của nó chịu sự chi phối
mạnh mẽ của các thiết chế, và đằng sau nó là bàn tay vô hình của quyền lực.
Lời nói và suy nghĩ của con người không phải là sự biểu hiện một cách tự do
những tư tưởng cá nhân, mà bị định hình và nhốt chặt vào trong một thứ khuôn
khổ có trước. Có thể làm sáng tỏ điều này qua ví dụ sau đây: Diễn ngôn về nữ
giới được sản sinh và lưu hành trong thời trung đại Việt Nam là hệ thống tư
tưởng, quan niệm, những quy định về hành xử được hình thành trong bối cảnh
thiết chế Nhà nước nam quyền. Bối cảnh thiết chế này đã tạo nên một khung
diễn ngôn, trong đó quy định những đặc điểm của nữ tính như là khiêm cung,
chịu đựng phụ thuộc, yếu đuối (công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức). Khung
diễn ngôn này lại chi phối cách tư duy và phát ngôn của con người, khiến cho


17

trong các trước tác thời trung đại, từ văn học, đạo đức, tôn giáo, pháp luật...,
trong bất cứ văn bản nào, người ta cũng nhận thấy một công thức miêu tả phụ
nữ quen thuộc: ca ngợi những đức tính hi sinh, chịu đựng, phụ thuộc của người
phụ nữ (Kiều bán mình chuộc cha được ca ngợi là hiếu, Huyền Trân công chúa
bị gả cho vua Chăm pa được tôn vinh là trung...); miêu tả người phụ nữ như

một nạn nhân thụ động và bất lực của xã hội (trong Người con gái Nam Xương,
người phụ nữ chỉ có cách tự vẫn để bảo toàn danh tiết, trong lịch sử, đầy rẫy
những câu chuyện nói rằng khi nhà vua bị băng hà, các cung nữ đều bị chôn
sống...); miêu tả người phụ nữ như một đối tượng tri thức hoàn toàn thụ động,
im lặng, hay nói cách khác tiếng nói của họ gần như bị tẩy xóa khỏi toàn bộ
nền văn hóa trung đại.
Như vậy, ba cách tiếp cận ngôn ngữ học, phong cách học và xã hội học
này đã cung cấp ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn: diễn ngôn như là
cấu trúc của ngôn ngữ/lời nói, diễn ngôn như là lời nói – tư tưởng hệ, và diễn
ngôn như là công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực. Ba quan niệm
này nảy sinh trên nền tảng những cách cắt nghĩa khác nhau về bản chất, vai trò
của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ học được phát triển trên nền tảng tư tưởng của
Saussaure nhấn mạnh đến tính hệ thống, khép kín, tĩnh tại của diễn ngôn thì
các nhà tư tưởng như M. Bakhtin, M. Foucault lại khẳng định tính chất sinh
thành, đa dạng, năng sản của diễn ngôn. Nếu Bakhtin đặc biệt chú ý đến tính
liên chủ thể của diễn ngôn thì Foucault đề cập đến tính phi chủ thể của diễn
ngôn, sự biến mất của chủ thể người trong mê cung của các diễn ngôn. Ba quan
điểm tiếp cận này đều có sức lan tỏa và ảnh hưởng rất lớn đến gần như toàn bộ
lý thuyết văn học và ngôn ngữ trong thế kỉ XX.


18

1.1.2. Diễn ngôn theo Foucault
1.1.2.1. Quan niệm diễn ngôn của Foucault
Foucault quan niệm về sự đối đầu thường trực giữa ham muốn và thiết
chế: ham muốn coi diễn ngôn là một cái gì đó trong suốt, bình yên, có độ mở
vô tận, nơi những người khác đáp lại trông chờ của ham muốn, nơi các chân lý
lần lượt tự mình đứng dậy, ham muốn chỉ cần làm một việc là thả mình mặc
cho nó đưa đi như một con thuyền trên mặt nước, trong khi đó với thiết chế thì

diễn ngôn nằm trong trật tự của các luật lệ, luôn được giám sát, có một vị trí
được ấn định sẵn, và nếu như diễn ngôn có một quyền lực nào đó thì là bởi
thiết chế tạo cho. Thế nhưng, cả thiết chế và ham muốn đều chỉ đưa ra hai lời
đáp ngược nhau cho cùng một nỗi lo lắng: lo lắng về việc diễn ngôn là gì ở
trong thực tại vật chất và điều được phát ngôn hoặc viết ra: nỗi lo lắng này bắt
nguồn từ việc sự tồn tại của diễn ngôn là sự tồn tại mang tính chất tạm thời, rồi
sẽ bị xóa nhòa, nhưng bị xóa nhòa trong bao lâu là việc không thuộc về chúng
ta; sự lo lắng này bắt nguồn từ việc cảm nhận được rằng ở dưới cái hành động
diễn ngôn rất thường hằng này lại có những quyền lực và hiểm nguy rất khó
hình dung, bởi qua những từ ngữ được sử dụng lờ mờ hiện lên rất nhiều cuộc
tranh đấu, những chiến thắng, những vết thương, những sự thống trị, những sự
phục tùng.
Diễn ngôn tạo ra tri thức. Sức mạnh tri thức không có sẵn, mà do một
nhóm người nào đó dựng lên. Nhóm người này đặt ra các tiêu chuẩn để quyết
định điều gì đúng, điều gì sai và cũng chính họ quyết định sử dụng cái gì để
định nghĩa, và sự định nghĩa của họ với tính cách tri thức sẽ có sức mạnh tác
động đến nhiều người khác, quy định và chỉnh đốn hành vi của người khác.
Chúng ta chấp nhận một cách vô thức hay có ý thức những quan niệm của họ
vì họ có một quyền lực nào đó để tạo ra niềm tin. Như thế người nào dựng nên
chân lí, tạo ra tri thức, quyết định tri thức thì người đó có quyền lực, xác lập


19

được quyền thế đối với người khác, có sức mạnh để “tác động lên con người
nói chung” và có thể dễ dàng tuyên bố rằng mình hiểu biết nhất - hiểu về chúng
ta hơn cả chúng ta” [16]. Foucault đưa ra các ví dụ thực tiễn như: bác sĩ có
quyền xác lập quyền thế của mình với người bệnh, nhà tâm lý học đoạn quyền
định nghĩa về người điên, nhà tội phạm học đưa ra tiêu chuẩn nhận diện những
kẻ tội phạm, nhưng nhìn chung ít khi nào chúng ta được nghe người điên nói

về nhà tâm lí học, kẻ tội phạm nói về nhà tội phạm học, người bệnh nói về bác
sĩ, điều đó cũng có nghĩa là quyền được phát ngôn không thuộc về họ, những gì
họ nói ra đều không phù hợp với chuẩn tri thức, là những kẻ không có quyền
lực. Quyền lực chủ yếu vẫn được tạo ra qua sự vận hành ngôn ngữ.
Chính con người tạo ra ý nghĩa của thế giới và lọc thế giới qua ngôn
ngữ. Con người tạo ra các kí hiệu, các diễn ngôn, các mã, đến lượt mình, các
diễn ngôn lại tạo hình cho cấu trúc xã hội. Cũng có thể nói như vậy đối với
ngôn ngữ, ngôn ngữ tạo ra hệ tư tưởng thống trị, rồi đến lượt mình hệ tư tưởng
thống trị lại tạo ra các cá nhân. Chẳng hạn các nhà tâm lý học, tâm thần học tạo
ra diễn ngôn về chứng điên, định nghĩa về chứng điên, rồi lại những diễn ngôn
về chứng điên đó - trong quá trình vận hành - sẽ ngày càng có quyền có lực với
con người, kể cả nhóm người tạo ra chúng. Foucault chú ý đến vai trò của diễn
ngôn trong việc chuẩn hóa, và thiết lập những quan hệ quyền lực đối với con
người. Quyền lực có sức mạnh tác động, điều khiển hành động của con người.
Con người, với tính cách chủ thể, được tạo ra bởi quyền lực và các cơ chế
khách thể hóa của sự chuyển hóa.
Quan điểm của Foucault được các nhà hậu cấu trúc phát triển, với xác tín
cho rằng trong xã hội hiện đại có sự đấu tranh giành “quyền lý giải” giữa các
hệ thống tư tưởng khác nhau. Do đoạt được phương diện thông tin đại chúng,
hệ tư tưởng thống trị, đã áp đặt ngôn ngữ và lối nghĩ của mình cho các cá nhân,
chính hệ tư tưởng không để cho cá nhân đó có được phương thức phù hợp để tổ


20

chức lấy kinh nghiệm sống của bản thân nó bằng cách tước mất ngôn ngữ cần
thiết của nó. Chủ nghĩa hậu cấu trúc nhận thấy ngôn ngữ bị đồng nhất với tư
duy, ý thức của con người bị đánh đồng với văn bản, nội dung thông báo bị
đồng nhất với hình thức thông báo.
Foucault đã vạch ra bản chất quyền lực nằm ẩn sâu dưới những lớp áo

khoác khoa học, tri thức, văn minh và cho thấy tri thức hay diễn ngôn chẳng
qua chỉ là những sản phẩm cũng như công cụ để thực thi quyền lực. Chúng làm
dấy lên một tinh thần hoài nghi đối với những thứ xưa nay vẫn được thừa nhận
là bẩm sinh, căn tính, tất nhiên như tính dục, bệnh điên, sự bất thường... Và bởi
thế chúng khuyến khích và chỉ đường cho những lực lượng thiểu số, ngoại vi
như phụ nữ, những dân tộc thuộc địa, kẻ đồng tính luyến ái, người da màu...,
những lực lượng đã đánh mất quyền phát ngôn, có thể giành quyền lên tiếng và
giải cấu trúc những tri thức đã áp đặt quyền uy lên tư duy và hành xử của con
người [33].
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa tri thức và quyền lực trong diễn ngôn
Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault
thì diễn ngôn là một mắt xích không thể thiếu để tìm hiểu hai yếu tố này. Với
Foucault, cả tri thức và quyền lực đều chỉ có thể được tạo ra, được hiện thực
hóa, được vận hành và phân phối bởi diễn ngôn. “Ở một trình độ căn bản, khi
một đứa bé học nói, cùng một lúc, nó nhận được tri thức và những luật lệ căn
bản về giáo dục của nó. Ở một trình độ chuyên biệt hóa hơn, tất cả những
ngành khoa học nhân văn, ngay lúc mô tả nhân loại thì đồng thời định nghĩa
luôn nhân loại, và chúng cùng nhau hoạt động trong những tổ chức như bệnh
viện tâm thần, nhà tù, máy móc, trường học, tòa án, để có những tác động
chuyên biệt và hệ trọng lên con người” [16].
Quyền lực, đối với Foucault, không đơn giản chỉ là sự cưỡng bức, cái
ngăn trở sự tự do và ý nguyện của người khác, mà là “điều kiện tạo thành tất cả


21

mọi lời nói”, cái không chỉ cấm người ta nói mà còn cho phép người ta được
phát ngôn. Quyền lực cũng không đơn giản chỉ là quyền lực nhà nước, được
xác định bằng các quan hệ kinh tế, mà “được phân tán rải rác trong các mối
quan hệ xã hội”, có mặt ở khắp mọi nơi, ví như trong các cuộc thăm bệnh của

bác sĩ đối với bệnh nhân, cuộc nói chuyện của ông chủ đối với thư kí, trong bài
giảng của thầy giáo đối với học sinh... Quyền lực không phải chỉ là sự trấn áp
từ bên trên mà còn là sự phản kháng từ bên dưới, điều này được Foucault phát
biểu qua mệnh đề nổi tiếng: “ở đâu có quyền lực, ở đó có đấu tranh” [32].
Quyền lực không phải chỉ hiện hữu bằng pháp luật mà xuyên thấm và điều
khiển cách tư duy và hành xử, cách nói năng giao tiếp của con người. Foucault
cụ thể hóa sự hiện hữu của quyền lực bằng hình ảnh nhà tù hình tròn, nơi đó,
tất cả các phạm nhân đều cảm thấy bị giám sát bởi một con mắt vô hình. Ở bất
cứ nơi đâu, lúc nào, ta cũng có thể nhận thấy bàn tay vô hình của quyền lực, cái
áp đặt và kiểm soát chủ thể trong từng thời khắc.
Foucault chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa diễn ngôn và quyền lực. Ông
nói: “Diễn ngôn có thể vừa là một công cụ, vừa là hệ quả của quyền lực; đồng
thời, cũng là một vật cản, một khối chướng ngại vật, một mũi kháng cự và một
điểm bắt đầu cho chiến lược đấu tranh. Diễn ngôn làm lan truyền và sản sinh
quyền lực, nó củng cố chính nó, nhưng cũng hủy hoại nó và phơi bày nó, làm
cho nó yếu đi và khiến nó có thể gây trở ngại cho chính nó” [32]. Ông nghe
thấy trong một diễn ngôn sự xung đột và giao tranh giữa ham muốn và thiết
chế. Và ông nhận thấy trong quá trình tạo lập, vận hành của diễn ngôn, sự can
thiệp của bàn tay quyền lực: những nguyên tắc loại trừ, sự bình luận thực chất
là những cách thức chi phối của quyền lực đối với tư duy và phát ngôn của con
người.
Foucault cho rằng tri thức là sản phẩm được tạo ra bởi các diễn ngôn. Và
bởi đằng sau diễn ngôn là quyền lực, cho nên, tri thức mà chúng ta có là kết


22

quả của các mâu thuẫn về quyền lực. Và diễn ngôn là chiến trường nơi diễn ra
các cuộc giao tranh nhằm giành quyền phát ngôn chân lý, quyền tuyên bố cái gì
được coi là tri thức. Toàn bộ tri thức mà chúng ta có, thực chất là kết quả của

quá trình chinh phục các đối tượng, dùng quyền lực để áp đặt thước đo chuẩn
mực lên đối tượng. Ví dụ, tri thức về các dân tộc thuộc địa có thể nói, được tạo
ra trong quá trình xâm lược và nhằm duy trì quyền lực của các đế quốc. Ngày
nay, xem lại một số những tài liệu dân tộc học của Pháp về Việt Nam, chúng ta
có thể thấy hình ảnh Việt Nam được kiến tạo với những đặc điểm như: một thứ
thiên nhiên hoang dã, bí ẩn và thù địch cần được chinh phục và chế ngự, một
chủng tộc xấu xí, mông muội, cần được khai hóa văn minh, những phong tục kì
quái và lạc hậu cần được cải sửa, một lịch sử với đầy những nghi vấn cần được
xác minh... Những cái được coi là tri thức này vừa là kết quả của công cuộc
khai thác thuộc địa, vừa là công cụ để duy trì quyền lực của Pháp ở Việt Nam
[33].
1.1.2.3. Cấu trúc cấu thành và vận hành diễn ngôn
Diễn ngôn được cấu thành và vận hành bởi các cấu trúc nội tại và ngoại
tại của nó. Trong Diễn ngôn, Sara Mills chỉ rõ cấu trúc nội tại gồm: tri thức hệ,
nhận định, diễn ngôn/các diễn ngôn, thư khố, sự loại trừ bên trong diễn ngôn;
và cấu trúc ngoại tại: bình luận, những nghi thức, tác giả. Trong đó, cấu trúc
nội tại (hay cơ chế bên trong) chi phối việc cấu thành, còn cấu trúc ngoại tại
(hay cơ chế bên ngoài) chi phối việc vận hành của diễn ngôn.
Tri thức hệ, theo diễn giải của Sara Mills, là “tập hợp các cấu trúc diễn
ngôn nói chung mà bên trong tập hợp này, một nền văn hóa xác định nên
những ý niệm của nó”, và có thể được hiểu như “một nền tảng của những tư
tưởng mà trên đó, tại một thời điểm cụ thể, một số nhận định này, mà không
phải những nhận định khác được coi là tri thức”. Tri thức hệ “bao hàm tổng
cộng các cấu trúc diễn ngôn hình thành như là kết quả từ sự tương tác của


23

nhiều loại diễn ngôn đang lưu hành và được ủy quyền tại một thời điểm xác
định”, bao hàm “các phương pháp luận mà một nền văn hóa mặc nhiên dựa vào

đó để có thể tư duy về một số chủ đề nhất định” [32]. Về mặt chức năng, tri
thức hệ có vai trò như “một thứ khung khổ vừa cho phép con người nhận thức
thế giới, vừa giới hạn tư duy con người, đồng thời nó là một bộ lọc” [33]. Như
trong bài viết về nghệ sĩ Trịnh Thị Minh-Hà, Hoàng Ngọc Tuấn đã chỉ ra tri
thức hệ chi phối nhận định của con người về một hiện tượng:
“Trịnh Thị Minh-Hà là một nghệ sĩ Mỹ hay một nghệ sĩ Việt Nam?
- Nếu chị là một người nghệ sĩ tầm thường, Chị hẳn bị xem là nữ nghệ sĩ
Việt nam thuộc về cộng đồng Việt ở Mỹ.
-Nếu chị là một nghệ sĩ trung bình và đạt được chút ít công nhận từ
chính mạch của Mỹ, chị hẳn bị xem là một nữ nghệ sĩ Mỹ gốc Việt.
- Nếu chị là một nghệ sĩ trên trung bình và đạt được một vài công nhận
đáng kể trong chính mạch của Mỹ, chị hẳn được xem là nữ nghệ sĩ Mỹ.
- Nếu chị là một nghệ sĩ ưu tú và đạt được sự sông nhận của quốc tế, chị
hẳn được xem là nghệ sĩ Mỹ” [2, tr. 20].
Trong phân tích này, chữ nữ (vấn đề giới) và chữ Việt Nam (vấn đề
chủng tộc) bị thay đổi dần theo cấp bậc tài năng của người nghệ sĩ, từ đó cho
thấy tác động của diễn ngôn nam quyền và diễn ngôn thuộc địa tới tri thức cụ
thể như thế nào.
Foucault còn cho rằng tri thức hệ có sự đứt gãy, nó khiến cho cái được
coi là tri thức ở một thời điểm này lại không được coi là tri thức ở một thời
điểm khác. Ông đưa ra ví dụ minh họa về ý nghĩa được gán cho các sự kiện
trong mối quan hệ với một trật tự thần thánh: Ở châu Âu thời hiện đại sơ kỳ,
mọi sự kiện đều được diễn dịch theo một hệ thống tư tưởng kết nối trần thế với
một trật tự siêu nhiên hoặc tôn giáo. Do đó, cái mà bây giờ được xếp vào nhóm
các hiện tượng tự nhiên, như một cơn bão lớn chẳng hạn, vào thời đó, sẽ được


24

phân loại theo ý nghĩa của nó trong cái hệ thống tượng trưng lớn hơn này, có

thể là một điềm gở hoặc một dấu hiện thể hiện sự tức giận của thần thánh. Các
sự kiện thụ nghĩa từ vị trí của chúng trong hệ thống vũ trụ này, trong khi đó, ở
châu Âu thế kỉ XXI, không một ý nghĩa siêu nhiên rộng hơn nào được gắn cho
những trận bão nữa. Các yếu tố cấu thành hình thức đặc thù này của tri thức đã
thay đổi; và trong khi thông thường chúng ta nghĩ rằng nhận thức này do sự
tiến bộ trong khoa học và tư tưởng thế tục đem đến thì Foucault lại cho rằng
chính các hệ thống tri thức cấu thành nên các tri thức hệ hiện thời của chúng ta
rồi cũng sẽ trở nên giả tạo và xa lạ với các thế hệ tương lai. Xem xét các tri
thức thịnh hành trong các thời đại và các nền văn hóa quá khứ dễ dàng hơn vì
cơ chế tư duy trong nền văn hóa đương thời đã được bình thường hóa. Điều
này có nghĩa, sự biến đổi của lịch sử tri thức không đơn thuần chỉ là sự biến đổi
hướng đến tiến bộ, mà chỉ đơn giản là sự chuyển từ hệ tri thức này sang hệ tri
thức khác.
Thứ hai là nhận định. Dreyfus và Rabinow cho rằng, với tư cách là đơn
vị đầu tiên hình thành nên khối diễn ngôn, “nhận định không phải là một phát
ngôn hay một mệnh đề, không phải một thực thể tâm lý hay logic, cũng không
phải một sự kiện hay một hình thức lý tưởng” [32]. Một câu trên thực tế có thể
là vài nhận định khác nhau, phụ thuộc vào ngữ cảnh diễn ngôn mà nó xuất
hiện.
Foucault trình bày: “Ở một cấp độ nhất định của vi lịch sử, người ta có
thể nghĩ rằng một khẳng định như “các loài tiến hóa” hình thành nên cùng một
nhận định ở cả Darwin và Simpson; ở cấp độ lớn hơn, và nghĩ đến những
trường sử dụng bị giới hạn hơn, (chủ nghĩa Tân Darwin đối lập với bản thân hệ
thống của Darwin), chúng ta thấy trước mình là những nhận định khác nhau.
Sự bất biến của nhận định, sự bảo tồn bản sắc của nó nhờ tính độc nhất của sự


25

kiện phát ngôn, sự nhân bội của nó nhờ bản sắc của các hình thức được kiến

tạo bởi hoạt động của trường sử dụng mà nó được định vị trong đó”.
Foucault cho rằng nhận định có vai trò là đơn vị cấu thành nên diễn
ngôn. Nhận định là những phát ngôn có một hiệu lực thiết chế nào đó, được
hiệu lực hóa bằng một hình thức quyền uy nào đó. Và hiệu lực thiết chế, quyền
uy bên trong, đứng sau nhận định mới chính là cái khiến cho nhận định đó có
được chấp nhận hay không.
Thứ ba là các diễn ngôn. Các diễn ngôn là tập hợp các nhận định được
phê chuẩn, mang một thứ lực được định chế hóa nào đó, điều đó có nghĩa là
chúng có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mà cá nhân hành động và suy nghĩ. Cái
tạo nên biên giới của một diễn ngôn rất không rõ ràng. Tuy nhiên, ta có thể nói
rằng các diễn ngôn là các nhóm nhận định có một thứ lực giống nhau – chúng
được nhóm lại với nhau bởi một áp lực định chế nào đó, bởi sự tương tự giữa
xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động theo một cách gần giống
nhau. Ví dụ, diễn ngôn về nữ tính thuộc tầng lớp trung lưu ở thế kỷ XIX bao
hàm một loạt những nhận định đồng chất (chẳng hạn, những phát ngôn, văn
bản, điệu bộ, hành vi được chấp nhận như là sự mô tả bản chất người phụ nữ
thời Victoria: Khiêm cung, giàu trắc ẩn, vị tha) và tạo nên những giới hạn mà
người phụ nữ trung lưu có thể hiện thực hóa cảm quan của chính họ về bản sắc.
Có những diễn ngôn khác thách thức tri thức này (chẳng hạn, các diễn ngôn
của chủ nghĩa nữ quyền) nhưng diễn ngôn về tính nữ này là thứ tri thức đã
được phê chuẩn bởi các thiết chế trong thời đại Victoria - nhà Thờ, hệ thống
giáo dục, v.v... Thứ tri thức này cùng tác hoạt với các thiết chế đó để đặt ra
ranh giới của những hình thức khả hữu về tính nữ của tầng lớp trung lưu.
Thứ tư là thư khố. Thư khố là tập hợp các diễn ngôn nhằm giới hạn cái
gì được nói, đáng để biết và nhớ. Thư khố là cái kho lưu trữ những từ vựng, cú


×