Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tư duy tiểu thuyết trong Gặp gỡ cuối năm và Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.11 KB, 92 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

TRẦN THỊ HỒNG HOAN

TƢ DUY TIỂU THUYẾT TRONG
GẶP GỠ CUỐI NĂM VÀ THƯỢNG ĐẾ
THÌ CƯỜI CỦA NGUYỄN KHẢI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2013


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

TRẦN THỊ HỒNG HOAN

TƢ DUY TIỂU THUYẾT TRONG
GẶP GỠ CUỐI NĂM VÀ THƯỢNG ĐẾ
THÌ CƯỜI CỦA NGUYỄN KHẢI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lý Hoài Thu


HÀ NỘI, 2013


3

LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn: PGS. TS. Lý Hoài Thu, người đã
hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này. Cô đã cung cấp tài liệu và truyền thụ
cho tôi những kiến thức mang tính khoa học và hơn nữa là phương pháp
nghiên cứu khoa học. Sự quan tâm, bồi dưỡng của cô đã giúp tôi tự tin và
giúp tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình hoàn thành luận văn cũng
như trong quá trình học tập và nghiên cứu của tôi. Đối với tôi cô luôn là tấm
gương sáng về tinh thần làm việc không mệt mỏi, lòng hăng say với khoa học,
lòng nhiệt tình quan tâm bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Nhân dịp này cho phép tôi được chân thành cảm ơn Ban Chủ Nhiệm
Khoa Ngữ Văn Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 và các thầy cô giáo đã tận
tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành khóa học.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Học viên

Trần Thị Hồng Hoan


4

LỜI CAM ĐOAN
Trong quá trình nghiên cứu luận văn về đề tài: Tƣ duy tiểu thuyết
trong Gặp gỡ cuối năm và Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, tôi đã
thực sự cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu đề tài để hoàn thành luận văn. Tôi xin
cam đoan luận văn này được hoàn thành là do sự nỗ lực của bản thân cùng với

sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình và hiệu quả của PGS. TS. Lý Hoài Thu. Đây
là đề tài không trùng với các đề tài khác và kết quả đạt được không trùng với
kết quả của các tác giả khác.

Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Học viên

Trần Thị Hồng Hoan


5

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 01
1.

Lí do chọn đề tài .................................................................................. 01

2.

Lịch sử vấn đề ...................................................................................... 03

3.

Mục đích nghiên cứu........................................................................... 08

4.

Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 08


5.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu...................................................... 09

6.

Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................... 09

7.

Đóng góp của đề tài ............................................................................. 09

8.

Cấu trúc của luận văn......................................................................... 10

PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ TƢ DUY TIỂU THUYẾT
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHẢI. ............. ..……11
1.1. Khái lƣợc chung về tƣ duy tiểu thuyết .............................................. 11
1.1.1. Tư duy ................................................................................................. 11
1.1.2. Khái lược về tiểu thuyết ..................................................................... 12
1.1.3. Tư duy tiểu thuyết .............................................................................. 14
1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải ............................................... 17
1.2.1. Những chặng đường sáng tác ........................................................... 17
1.2.2. Tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Khải trong bối cảnh tiểu thuyết
Việt Nam đương đại ..................................................................................... 20
CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT VÀ KẾT CẤU HAI TRONG TIỂU
THUYẾT GẶP GỠ CUỐI NĂM VÀ THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI CỦA
NGUYỄN KHẢI DƢỚI GÓC NHÌN TƢ DUY TIỂU THUYẾT ........... 32

2.1. Nhân vật trong hai tiểu thuyết của Nguyễn Khải ............................. 32
2.1.1. Vài nét về nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới ..... 32


6
2.1.2. Nhân vật trong hai tiểu thuyết “Gặp gỡ cuối năm” và “Thượng đế
thì cười” của Nguyễn Khải .......................................................................... 35
2.2. Kết cấu trong hai tiểu thuyết của Nguyễn Khải ................................ 45
2.2.1. Vài nét về kết cấu tiểu thuyết ............................................................. 45
2.2.2. Kết cấu trong hai tiểu thuyết “Gặp gỡ cuối năm” và “Thượng đế
thì cười” của Nguyễn Khải .......................................................................... 46
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT VÀ KHÔNG GIAN THỜI GIAN TRONG HAI TIỂU THUYẾT GẶP GỠ CUỐI NĂM VÀ
THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI CỦA NGUYỄN KHẢI DƢỚI GÓC NHÌN
TƢ DUY TIỂU THUYẾT........................................................................... 52
3.1. Nghệ thuật trần thuật .......................................................................... 52
3.1.1. Điểm nhìn trần thuật.......................................................................... 52
3.1.2. Giọng điệu trần thuật ......................................................................... 56
3.2. Thời gian và không gian nghệ thuật ................................................... 68
3.2.1. Thời gian nghệ thuật.......................................................................... 69
3.2.2. Không gian nghệ thuật ...................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 83


7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tư duy nghệ thuật là yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng trong
hoạt động sáng tạo văn học. Nó phản ánh những nhận thức của nhà văn về thể
loại từ đó quy định đến hầu hết các yếu tố của sáng tạo nghệ thuật: từ quan

niệm về tác giả - tác phẩm - người đọc, quan niệm về hiện thực, về con người,
về thể loại đến việc lựa chọn vấn đề phản ánh và các yếu tố thuộc về thi pháp
thể loại. Những đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết luôn bắt nguồn từ những
đổi mới về tư duy thể loại. Nhận thức được vai trò quan trọng của tư duy thể
loại trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật chính là lí do đầu tiên đưa chúng tôi
đến với đề tài này.
1.2. Tiểu thuyết là một trong những thể loại có vai trò quan trọng góp
phần làm nên diện mạo của một nền văn học. Nó cũng là thể loại có những
biến chuyển mạnh mẽ nhất và “nòng cốt thể loại chưa hề rắn lại” (Bakhtin).
Hiện nay vấn đề tư duy thể loại hay đổi mới tư duy tiểu thuyết đang là một
trong những vấn đề thu hút sự quan tâm chú ý của không ít các nhà nghiên
cứu lý luận phê bình và những cuộc bàn luận xung quanh vấn đề này vẫn
chưa đi đến hồi kết. Những thập kỉ cuối của thế kỉ XX, giới nghiên cứu văn
học của nhiều nước trên thế giới đã có những cuộc bàn luận sôi nổi về các vấn
đề như: Tiểu thuyết có khủng hoảng hay không và nếu có thì vì sao khủng
hoảng? Tiểu thuyết có chết không và nếu có thì sao lại chết? Tiểu thuyết có
đang phát triển không và nếu có thì xu hướng phát triển của nó như thế nào?
Có phải tiểu thuyết đã cạn kiệt? Tiểu thuyết sẽ đi về đâu… Bên cạnh những
câu hỏi lớn về tiểu thuyết, hàng loạt những tên gọi tiểu thuyết mới xuất hiện:
Tiểu thuyết mới, tiểu thuyết mới mới, phản tiểu thuyết, siêu tiểu thuyết, tiểu
thuyết trừu tượng, tiểu thuyết tự sinh, tiểu thuyết phi lí…Đến nay thế kỉ XX


8
đã khép lại hơn một thế kỉ nhưng những câu hỏi ấy vẫn còn giữ nguyên tính
thời sự.
Hòa cùng xu hướng đó, cho đến thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, văn học
Việt Nam vẫn đang trăn trở tìm lời đáp cho câu hỏi: Tiểu thuyết Việt Nam
đang ở đâu? Có hay không vấn đề khủng hoảng trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại?... Hội thảo về Đổi mới tư duy tiểu thuyết Việt Nam năm 2002 của

Hội Nhà Văn được tổ chức phần nào cũng để tìm lời đáp cho những vấn đề
nóng bỏng của hiện trạng tiểu thuyết đương đại.
Đi tìm đáp án cho hàng hoạt câu hỏi trên, góp thêm một cái nhìn mới,
một nhận định mang tính lí luận và hệ thống về tiểu thuyết Việt Nam đương
đại (thông qua tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Khải) là nhiệm vụ và cũng là
mục đích lớn nhất mà luận văn đặt ra. Để trả lời cho những câu hỏi trên, việc
nghiên cứu về tư duy tiểu thuyết là một vấn đề có tính cấp thiết và có ý nghĩa
lý luận cũng như thực tiễn.
1.3. Trong số những nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng cho quá
trình đổi mới văn học sau 1975, chúng ta phải kể đến Nguyễn Khải. Với hơn
nửa thế kỷ sáng tác, Nguyễn Khải đã để lại một sự nghiệp văn học tương đối
lớn, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền văn xuôi hiện đại và
đương đại. Những đóng góp ấy đã được ghi nhận bởi sức sống, sự hấp dẫn từ
các tác phẩm của ông với độc giả và được cụ thể hoá qua những phần thưởng
cao quý như: Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam (năm 1982 và năm
1988); giải thưởng văn học ASEAN (năm 2000); giải thưởng Hồ Chí Minh
đợt II (năm 2000). Là nhà văn sớm định hình phong cách nghệ thuật riêng
nhưng Nguyễn Khải đã không sáng tác theo một khuynh hướng nào cố định
mà ông luôn viết và thể nghiệm những hướng đi mới, cách viết mới. Đó là lý
do bạn đọc thường nhận ra sau mỗi tác phẩm của ông một Nguyễn Khải vừa
quen mà vừa lạ. Người ta quen nhắc đến ông với một phong cách văn xuôi


9
triết luận, đậm tính thời sự, tính thông tấn… Tuy nhiên, ngoài những đặc
điểm nêu trên, những tiểu thuyết của Nguyễn Khải giai đoạn sau năm 1978
còn thể hiện một tư duy tiểu thuyết rõ nét. Đó là một nét đẹp mới, góp phần
quan trọng làm nên diện mạo riêng của nhà văn và diện mạo chung của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
Năm 1984, Nguyễn Khải khiến bạn đọc bất ngờ khi cho ra mắt cuốn tiểu

thuyết Gặp gỡ cuối năm thì đến năm 2002, ở độ tuổi ngoài 70 nhà văn còn gây
xôn xao dư luận với tiểu thuyết Thượng đế thì cười. Đây là hai tác phẩm có ý
nghĩa quan trọng, khép lại toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, là sự tổng kết cả
đời văn và cả một đời người. Với vị trí đặc biệt đó, Gặp gỡ cuối năm và
Thượng đế thì cườikhông chỉ có ý nghĩa với chính nhà văn mà còn là tác phẩm
được đông đảo bạn đọc đón nhận. Đã có không ít công trình nghiên cứu, khóa
luận, luận văn về hai tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Khải nhưng chưa có công
trình nào tập trung nghiên cứu về tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn
Khải. Đó chính là hướng mở để chúng tôi thực hiện đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến liên quan đến vấn đề tư duy tiểu
thuyết
Năm 2002, cuộc hội thảo khoa học về Đổi mới tư duy tiểu thuyết đã đặt
ra nhiều vấn đề về tư duy tiểu thuyết:
* Nhà văn Hoàng Quốc Hải cho rằng: Đổi mới tư duy tiểu thuyết là đổi
mới tư duy của chính nhà văn.
* Nhà thơ Phạm Đức kêu gọi: Muốn đổi mới tư duy tiểu thuyết, trước
hết phải đổi mới tư duy tiếp nhận văn học.
* Nhà văn Hoàng Công Khanh lưu ý bạn đồng nghiệp về một số “ngón
nghề” hiện nay của việc sáng tác tiểu thuyết. Đó là cần viết một cách mới lạ,
có tốc độ, ngẫu hứng, tự nhiên, tránh gò gẫm.


10
Rõ ràng, đổi mới tư duy tiểu thuyết là yếu tố quyết định tương lai của
tiểu thuyết.
Ngoài ra, Tư duy tiểu thuyết còn được bàn đến trong rất nhiều công
trình nghiên cứu khác nhau. Nổi lên là một số công trình sau:
1. Nguyễn Thị Hải Phương (2011), Những trăn trở về đổi mới tư duy
tiểu thuyết của các nhà văn Việt Nam hiện nay (nhân đọc Đổi mới tư duy tiểu

thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2002),
2. Nguyễn Bích Thu (2011), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam
thời kì đổi mới,
3. M. Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, NXB
Đà Nẵng.
4. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư
dịch, Trường viết văn Nguyễn Du - Hà Nội.
5. Bùi Việt Thắng (2006), Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội Nhân
Dân
6. Phùng Văn Tửu (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi
đổi mới, NXB Khoa học Xã hội.
7. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975: một cái
nhìn khái quát, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2).8.
8. Nguyễn Thị Bình (2005), Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết
Việt Nam những năm gần đây, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 11).9.
9. Hoàng Quốc Hải (2002), Lại bàn về đổi mới tư duy,
.
10. Cao Thị Hồng (2009), Đổi mới tư duy xung quanh vấn đề văn học
và hiện thực, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 168, tr.72 - 77.
11. Mai Hương (2011), Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số
cây bút văn xuôi, .


11
Qua việc khảo sát tư liệu, chúng tôi bước đầu nhận thấy việc nghiên
cứu về tư duy tiểu thuyết là một trong những yêu cầu có tính bức thiết. Vấn đề
đổi mới tư duy tiểu thuyết cũng đã vẽ lên bức tranh toàn cảnh về hiện trạng
tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, sự đầu tư nghiên cứu về tư duy
tiểu thuyết vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
2.2. Những bài viết liên quan đến hai tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Khải

Số lượng tác phẩm và chất lượng sáng tạo nghệ thuật suốt nửa thế kỷ đã
xếp ông vào vị trí xứng đáng của nền văn học nước nhà. Từ những sáng tác ra
đời mới vào nghề như: Xung đột, Mùa lạc,Nguyễn Khải được giới nghiên cứu
phê bình đánh giá là một ngòi bút thông minh, sắc sảo trong khám phá và nắm
bắt hiện thực, sự mẫn cảm với cái hằng ngày, với những gì đang diễn ra, với
những vấn đề hôm nay đã khiến những trang viết sắc sảo, đầy “chất văn xuôi”
của Nguyễn Khải không những luôn luôn có độc giả mà còn khơi gợi được
hứng thú tranh luận, trở thành nơi “giao tiếp đối thoại” với đông đảo bạn đọc.
Cùng với sự ra đời của hàng loại tác phẩm nghệ thuật khẳng định tài
năng sáng tác của Nguyễn Khải, người đọc còn có thể tìm thấy một số lượng
khá lớn, khá phong phú những bài nghiên cứu, phê bình về Nguyễn Khải
được công bố dưới nhiều dạng khác nhau và đề cập tới nhiều phương diện
khác nhau của sáng tác Nguyễn Khải.
Nghiên cứu một cách khái quát và toàn diện về tác gia, tác phẩm
Nguyễn Khải có bài viết của Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà văn việt Nam 1945
- 1975 (tập 2), của Đoàn Trọng Huy trong Giáo trình Văn học Việt Nam 1945
- 1975 (phần tác giả). Ngoài ra còn phải kể đến “lời giới thiệu” của Vương
Trí Nhàn trong tuyển tập Nguyễn Khải (3 tập) và bài Nguyễn Khải:Một đời
gắn bó với thời đại và dân tộc của Bích Thu.
Những công trình trên đã đưa đến cho người đọc một hình dung khá cụ
thể về Nguyễn Khải cả ở sự nghiệp sáng tác, giá trị tác phẩm cùng với phong


12
cách riêng của ông. Hầu hết các tác phẩm đều khẳng định: Nguyễn Khải là
một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam sau 1945.
Những tiểu thuyết của Nguyễn Khải đã tạo được sự chú ý của công
chúng độc giả. Các bài viết đã tập trung khẳng định những đặc điểm cơ bản
trong sáng tác của Nguyễn Khải: Khả năng phát hiện vấn đề, ý thức tìm tòi lật
xới hiện thực, kiểu nhân vật tư tưởng, sở trường tổ chức đối thoại, nghệ thuật

kể chuyện hấp dẫn. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến những bài viết có liên
quan đến vấn đề tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Khải qua Gặp gỡ
cuối nămvàThượng đế thì cười.
Trong một cuộc bàn luận về sáng tác Nguyễn Khải nhân đọc tiểu thuyết
Gặp gỡ cuối năm, hai nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân và Trần Đình Sử cùng
đi tìm nguyên nhân: vì sao sáng tác của Nguyễn Khải gây được sự chú ý của
độc giả. Theo Lại Nguyên Ân thì người đọc thích Nguyễn Khải bởi “chất văn
xuôi”. Đó là tính hiện thực của tác phẩm Nguyễn Khải khi viết về những “con
người, những sự việc, những vấn đề của hôm nay”, “đề tài nhằm thẳng vào
đời sống hiện tại”. Cái hiện tại, cái hôm nay luôn là trung tâm chú ý của nhà
văn Nguyễn Khải. Nhất trí với ý kiến đó, Trần Đình Sử chỉ ra rằng: “Cái nhìn
tỉnh táo của Nguyễn Khải giúp người đọc nhận thức cuộc sống và con người
một cách đích thực”.
Cũng đề cập đến tư duy tiểu thuyết, Nguyễn Thị Bình trong bài viết
Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyếtđã chỉ ra tài năng của Nguyễn Khải “giỏi
phát hiện ra những vấn đề ẩn sau các sự vật, hiện tượng tưởng như thật đơn
giản, quen thuộc”, “là người kể chuyện có duyên, hài hước hóm hỉnh” [3, tr.
69-75].
Nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy trong bài viết Vài đặc điểm phong
cách nghệ thuật Nguyễn Khải đã nhận ra tính chất đa giọng điệu trong sáng
tác Nguyễn Khải: “nhà văn thường đứng ở nhiều góc độ, nhiều bình diện để


13
tả và kể. Không chỉ kể bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn truyện,
tác giả còn biết biến hóa thành nhiều giọng khác nhau” [16, tr. 92-93]. Như
vậy, yếu tố giọng điệu - một trong những đặc trưng của tư duy tiểu thuyết
cũng được nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy đề cập đến.
Vương Trí Nhàn trong bài viết Trở lại cái thời lãng mạn - về tiểu
thuyết Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải cho rằng: “Thượng đế thì cười

vẫn là cuốn sách trong đó một con người mang quá khứ của mình ra để kể với
bạn đọc”. Ở bài Khi Nguyễn Khải cười cùng thượng đế (Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, số 607/ 2004), tác giả Nguyễn Quốc Trung lại có những đánh giá
rất cao về tác phẩm. Ông cho rằng: “tác phẩm trong một chừng mực nào đó
đã góp thêm một cách thể hiện mới”. Ngoài ra, Nguyễn Quốc Trung cũng đặc
biệt nhấn mạnh đến những cách tân về ngôn ngữ và giọng điệu của tác phẩm.
Trên cơ sở khảo sát các bài viết, các bài nghiên cứu về hai tiểu thuyết
Nguyễn Khải, chúng tôi có thể rút ra một số nhận xét sau:
* Số lượng các bài viết này rất nhiều, đăng tải dưới dạng điểm sách
hoặc phê bình. Loại bài viết này phần lớn nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận
về nội dung hay nghệ thuật, về những phương diện đổi mới của tiểu thuyết
Nguyễn Khải cụ thể là hai tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm và Thượng đế thì
cười. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của thể loại cũng
như của nền văn học Việt Nam.
* Tìm hiểu các công trình nghiên cứu của những người đi trước chúng
tôi thấy: Việc nghiên cứu những tiểu thuyết Nguyễn Khải đã lật xới lên được
nhiều vấn đề. Đã có những nghiên cứu sâu sắc về tác giả, tác phẩm tiêu biểu
nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện dấu
hiệu đổi mới của tư duy tiểu thuyết Nguyễn Khải quaGặp gỡ cuối năm và
Thượng đế thì cười. Đó chính là hướng mở để chúng tôi thực hiện đề tài này.


14
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích:
- Khẳng định vai trò và vị trí của Nguyễn Khải đối với công cuộc đổi
mới văn học Việt Nam hiện đại và đương đại.
- Chỉ ra dặc điểm tư duy cũng như những đóng góp của nhà văn
Nguyễn Khải cho tiểu thuyết Việt Nam, cho văn học Việt Nam.
- Trau dồi thêm kiến thức cho bản thân về đề tài tư duy tiểu thuyết trong

văn học Việt Nam đương đại và giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật của tiểu
thuyết Nguyễn Khải.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn “Tư duy tiểu thuyết trong Gặp gỡ cuối năm và Thượng đế
thì cười của Nguyễn Khải”có nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu tổng quan về tiểu thuyết và hành trình đổi mới của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
- Phác họa diện mạo tiểu thuyết Nguyễn Khải và đặt nó trong bối cảnh
tiểu thuyết Việt Nam đương đại để thấy được những nét chung và sự khác
biệt.
- Phân tích và luận giải các vấn đề liên quan đến đổi mới tư duy thể loại
tiểu thuyết Nguyễn Khải cụ thể là tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm và Thượng đế
thì cười.
- Chỉ ra dấu ấn tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Khải trên
một số phương diện về thi pháp thể loại như: nghệ thuật xây dựng nhân vật;
kết cấu; nghệ thuật trần thuật (điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật);
thời gian và không gian nghệ thuật.


15
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư duy nghệ thuật trong tiểu
thuyết của nhà văn Nguyễn Khải.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hai tiểu thuyết sau:
1. Nguyễn Khải (1984), Gặp gỡ cuối năm, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
2. Nguyễn Khải (2003), Thượng đế thì cười, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
Ngoài ra, để thực hiện đề tài này chúng tôi cũng nghiên cứu tìm hiểu
thêm một số tiểu thuyết khác của nhà văn Nguyễn Khải giai đoạn trước 1978

và một số tác phẩm của các nhà văn cùng thời trong sự tương quan so sánh để
thấy được sự tương đồng và khác biệt.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu áp dụng lý thuyết của tự sự học
(narratology), loại hình học thể loại (typology of genres), thi pháp thể loại
(poetist of genres), thuyết tiếp nhận - phản hồi của người đọc (readerrespone).
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chính như: phương pháp so sánh, phương pháp loại hình, phương pháp tiểu
sử, phương pháp phân tích - tổng hợp…
7.Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học:
Luận văn góp phần làm rõ vấn đề tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại qua tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm và Thượng đế thì cười
của nhà văn Nguyễn Khải. Đồng thời khẳng định những nét độc đáo trong giá
trị nội dung và giá trị nghệ thuật của hai tiểu thuyết này.


16

Về mặt thực tiễn:
Luận văn góp phần nhận diện và khái quát diện mạo tiểu thuyết Nguyễn
Khải nhằm tìm ra những cách tân của thể loại tiểu thuyết Việt Nam đương
đại. Từ đó, luận văn hứa hẹn sẽ là tư liệu tham khảo có ý nghĩa đối với những
người quan tâm đến các vấn đề lý luận về tư duy tiểu thuyết và mảng sáng tác
của nhà văn Nguyễn Khải.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn được triển khai thành ba chương
như sau:
Chƣơng 1:Khái lược chung về tư duy tiểu thuyết và hành trình sáng
tác của Nguyễn Khải.

Chƣơng 2:Nhân vật, kết cấu trong hai tiểu thuyết “Gặp gỡ cuối
năm” và “Thượng đế thì cười” của Nguyễn Khải dưới góc nhìn tư duy tiểu
thuyết.
Chƣơng 3: Nghệ thuật trần thuật và không gian - thời gian trong hai
tiểu thuyết “Gặp gỡ cuối năm” và “Thượng đế thì cười” của Nguyễn Khải
dưới góc nhìn tư duy tiểu thuyết.


17

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ TƢ DUY TIỂU THUYẾT VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHẢI
1.1. Khái lƣợc chung về tƣ duy tiểu thuyết
1.1.1. Tư duy
Chúng ta đều biết, tư duy trong thực tế luôn là một quá trình nhận thức
tổng hợp chứ không phải đơn thuần chỉ là hoạt động của lý trí. Nếu không có
cảm xúc bản năng, trực cảm và tâm linh hỗ trợ thì quá trình tư duy cũng
không thể hiện ra được. Song quá trình tư duy cũng mang trong nó yếu tố chủ
quan, có người dựa nhiều trên lý trí, có người dựa nhiều trên tình cảm. Đôi
khi ở nhà văn xuất hiện những khả năng đặc biệt và tư duy của họ cũng có lúc
dựa chủ yếu trên trực cảm và tâm linh. Về mặt lôgic học thì tư duy là quá
trình sử dụng những kiến thức đã biết để tạo nên những kiến thức mới. Bởi
vậy, bản thân quá trình tư duy cũng là quá trình tạo nên cái mới. Nếu thực
nghiệm và quan sát chỉ cho phép ta nhận thức được những hiện tượng đơn lẻ,
thì từ nhiều hiện tượng đơn lẻ đó thông qua tư duy ta có được những kiến
thức khái quát, tổng hợp hơn. Quá trình này đã tạo nên sự biến đổi về chất
trong kết quả cũng như trong hành động nhận thức. Các nhà khoa học tư duy
bằng lôgic, còn các nghệ sĩ tư duy bằng hình tượng. Tư duy lôgic lấy suy luận
của lý trí làm trung tâm. Còn tư duy nghệ thuật là tư duy hình tượng, được

thực hiện thông qua xúc cảm nhưng vẫn nằm dưới tầm kiểm soát của lý trí.
Trong các loại hình tư duy nghệ thuật thì tư duy văn chương gần với đặc
trưng tư duy chung của con người, nó có nhiều điểm tương đồng với tư duy
khoa học ở chỗ đó đều là các loại hình tư duy trừu tượng. Tư duy của sáng tạo
văn học nghệ thuật nói chung cũng như tư duy sáng tạo tiểu thuyết nói riêng
rõ ràng bao hàm trong nó sự vận động không ngừng của toàn bộ thế giới nội


18
tâm sâu thẳm của con người. Vấn đề đặt ra ở đây là người viết tiểu thuyết phải
khai thác cho được kho báu nội tâm vô tận đó của con người và chính điều
này sẽ góp phần biến đổi về chất cho mỗi tác phẩm văn học của họ.
1.1.2. Khái lược về tiểu thuyết
Theo từ điển Thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) thì “tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có
khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời
gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng”.
Ở châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào thời kỳ xã hội cổ đại tan rã và văn
học cổ đại suy toàn. Cá nhân con người lúc ấy không còn cảm thấy lợi ích và
nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng xã hội cổ đại, nhiều vấn đề của
đời sống riêng tư đặt ra gay gắt. Giai đoạn phát triển mới của tiểu thuyết châu
Âu bắt đầu từ thời Phục Hưng (thế kỷ XIV - XVI) và đến thế kỷ XIX dưới sự
xuất hiện của các nghệ sĩ bậc thầy như Xtăng-đan, Ban-dắc, Gô-gôn, L.Tônxtôi, thể loại này đã đạt tới sự nảy nở trọn vẹn. Mầm mống tiểu thuyết ở
Trung Quốc cũng xuất hiện sớm, vào thời Ngụy Tấn ( thế kỷ III - IV) dưới
dạng ghi chép những việc, những người ngoài giới hạn kinh sử. Tiểu thuyết ở
Việt Nam phát triển muộn. Mãi tới đầu thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện của
Nam triều công nghiệp diễn chí, của Hoàng Lê nhất thống chí, nước ta mới có
tác phẩm có quy mô tiểu thuyết (nhiều hồi, hàng trăm nhân vật, bao quát một
khoảng thời gian dài hàng trăm năm). Tuy nhiên, xét về nhiều mặt, Nam triều

công nghiệp diễn chí của Hoàng Lê nhất thống chí, vẫn thuộc phạm trù tiểu
thuyết cổ điển phương Đông. Phải sang đầu thế kỷ XX, nhất là với dòng văn
học lãng mạn và hiện thực phê phán, ở Việt Nam mới có tiểu thuyết hiện đại.


19
Trong quá trình vận động và phát triển, diện mạo của tiểu thuyết không
ngừng thay đổi. Tuy vậy, vẫn có thể rút ra một số đặc điểm như sau của thể
loại tiểu thuyết:
So với các thể khác của loại tự sự như ngụ ngôn, anh hùng ca (sử thi),
thì đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời
tư. Đặc trưng này thoạt đầu được hình thành ngay trong tiểu thuyết cổ đại.
Càng về sau đời tư càng trở thành tiêu điểm để miêu tả cuộc sống một cách
tiểu thuyết. Tùy theo từng thời kỳ phát triển, cái nhìn đời tư có thể sâu sắc tới
mức thể hiện được, hoặc kết hợp được với các chủ đề thế sự hoặc lịch sử dân
tộc. Nhưng yếu tố đời tư càng phát triển thì tính chất tiểu thuyết càng tăng,
ngược lại, yếu tố lịch sử dân tộc càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà.
Nét tiêu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca,
thơ trường thiên và anh hùng ca là chất văn xuôi, tức là một sự tái hiện cuộc
sống, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lý tưởng hóa. Miêu tả cuộc sống như
một thực tại cùng thời, đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó
mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm
thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Chất văn xuôi
như vậy thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết Xtăng-đan, Ban-dắc, Gô-gôn, L.Tônxtôi, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…
Thứ ba, cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với các nhân vật sử thi,
nhân vật kịch, nhân vật truyện trung cổ là ở chỗ: nhân vật tiểu thuyết là “con
người nếm trải”, tư duy, chịu nhiều đau khổ, dằn vặt của cuộc đời trong khi
các nhân vật kia thường là nhân vật hành động. Tiểu thuyết miêu tả nhân vật
như con người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con người đang trưởng thành
do cuộc đời dạy bảo. Những Luy-xiêng Xo-ren, Gô-ri-gôn của Ban-dắc, Anna Ka-rê-ni-na của L. Tôn-xtôi, Thứ của Nam Cao đều là những con người

nếm trải và tư duy, vì vậy mà rất “tiểu thuyết”.


20
Thứ tư, thành phần chính yếu của tiểu thuyết không phải chỉ là cốt
truyện và tính cách nhân vật như ở truyện vừa và truyện ngắn trung cổ. Ngoài
hệ thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy
tư của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình
cảm, trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa
người và người, về đồ vật, môi trường, nội thất… Xét về phương diện này thì
Sống mòn của Nam Cao là tác phẩm rất tiểu thuyết.
Thứ năm, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách về giá trị giữa người trần
thuật và nội dung trần thuật của anh hùng ca, để miêu tả hiện thực như cái
hiện tại đương thời của người trần thuật. Chính đặc điểm này làm cho tiểu
thuyết trở thành một thể loại dân chủ, cho phép người trần thuật có thể có thái
độ thân mật thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình.
Cuối cùng, với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có
khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn
học khác. Tiểu thuyết thế kỷ XIX - XX đã cung cấp nhiều mẫu mực về sự
tổng hợp đó. Chẳng hạn tiểu thuyết sử thi - tâm lí của L. Tôn-xtôi (Chiến
tranh và hòa bình), tiểu thuyết kịch của Đốt-xtôi-ép-xki, tiểu thuyết trữ tình
của Hê-ming-uê (Chuông nguyện hồn ai), tiểu thuyết sử thi của Sô-lô-khôp
(Sông Đông êm đềm), tiểu thuyết trí tuệ của T.Man. Ngoài ra, còn có thể nói
tới tiểu thuyết tư liệu, tiểu thuyết chính luận.
Chính hiện tượng tổng hợp trên đã làm cho thể loại tiểu thuyết cũng
đang vận động, không đứng yên. Nhà nghiên cứu Xô Viết Ba-khơ-tin cho
rằng, tiểu thuyết là “thể loại duy nhất đang hình thành và chưa xong xuôi”.
1.1.3. Tư duy tiểu thuyết
Tư duy tiểu thuyết tất yếu phải chi phối hoạt động sáng tạo đặc thù của
thể loại. Đặc trưng của tiểu thuyết là thể loại có khối lượng nội dung lớn, có

lượng tín hiệu nghệ thuật phong phú, bởi vậy trong mỗi tác phẩm không chỉ


21
phản ánh cuộc sống khách quan sôi động mà luôn có nhu cầu thể hiện sự đa
dạng trong xúc cảm nội tâm. Đây rõ ràng là những đặc trưng không thể thiếu
của quá trình sáng tạo tiểu thuyết. Việc khai thác thế giới nội tâm của bản
thân nghệ sĩ sẽ tạo cho tác phẩm có được các đặc trưng riêng góp phần định
hình phong cách sáng tạo nghệ thuật cho mỗi nhà văn. Việc khai thác và làm
nổi rõ thế giới nội tâm của nhân vật sẽ làm cho nhân vật trở nên thật hơn,
sống hơn và có chiều sâu. Đây là công việc đặc thù của nghệ thuật sáng tạo
tiểu thuyết, nó cho thấy tiểu thuyết không chỉ là một câu chuyện đơn thuần,
mà nó thực sự là một cuộc sống, đầy ắp những xúc cảm và suy tư đang vận
động không ngừng trên mỗi trang viết. Và chỉ có như vậy, tiểu thuyết mới
thực sự cuốn hút và thuyết phục bạn đọc. Theo chúng tôi, để đổi mới tư duy
tiểu thuyết chúng ta cần luôn nhìn lại phương pháp sáng tạo hiện thực mà
chúng ta đã và đang sử dụng trong sự biến đổi không ngừng của cuộc sống,
bổ sung và mở rộng để cho phương pháp đó hoàn thiện hơn, có khả năng phản
ánh sinh động hơn sự biến đổi không ngừng của cuộc sống hiện thực. Trong
quá trình này ta nên coi những gì đang xảy ra trong thế giới nội tâm của con
người cũng là một kiểu hiện thực cần được khai thác và phản ánh. Chính điều
đó góp phần làm sung mãn và sâu sắc thêm cho hình tượng nghệ thuật và
thông qua đó không gian đổi mới và sáng tạo nghệ thuật cũng sẽ không ngừng
được mở rộng.
Có thể nói đổi mới tư duy tiểu thuyết là đổi mới quá trình nhận thức
hay nói một cách đúng hơn là tổ chức lại, là huy động toàn bộ năng lượng
sáng tạo nội tâm, phát huy đến mức cao nhất nguồn năng lượng này để nhận
thức và phản ánh thế giới khách quan cũng như chủ quan ngày một sinh động
hơn và cũng sâu sắc hơn. Nhận thức hiện thực cuộc sống vẫn luôn là một
công việc thiết yếu trong mọi quá trình sáng tạo nghệ thuật và càng quan

trọng hơn đối với người sáng tạo tiểu thuyết bởi dung lượng phản ánh của tiểu


22
thuyết phải luôn vừa rộng, vừa sâu, vừa đa chiều và phức tạp nhất trong các
loại hình nghệ thuật. Vấn đề mở rộng không gian hiện thực cho sáng tạo văn
học Việt Nam là điều kiện tiên quyết để đưa văn học Việt Nam lên đến những
đỉnh cao mới.
Đổi mới tư duy tiểu thuyết cũng đòi hỏi phải đổi mới tư duy của chính
nhà văn.
Đó là sự đổi mới trong nội dung, trong phương pháp sáng tạo nghệ
thuật, sự cách tân hiện đại trong sáng tác, vốn luôn là công việc thường nhật
của mỗi người cầm bút. Những nhà văn có tài là những người có một mô hình
riêng cho sáng tạo. Tiểu thuyết chẳng thể mới, nếu người nghệ sĩ không có ý
thức tự giác sáng tạo cho nó một diện mạo, cấu trúc mới. Chỉ những nhà văn
có quan niệm riêng về thể loại, mới có thể thực hiện sự cách tân như vậy. Sự
đổi mới trên bất cứ phương diện nào của thể loại đều bắt nguồn từ tư duy của
người viết. Nói cách khác, sự đổi mới về chất liệu, cấu trúc tiểu thuyết bao
giờ cũng phản ánh một sự đổi mới khác - đổi mới tư duy tiểu thuyết. Phải có
bước đổi mới về tư duy thì mới có đổi mới về sản phẩm sáng tạo. Đổi mới tư
duy ở chủ thể sáng tạo đều có tính cá nhân, vừa có quan niệm chặt chẽ với tồn
tại xã hội. Sự đổi mới về tư duy tiểu thuyết là sự đổi mới về tư duy nghệ thuật
và ý thức cầm bút của người nghệ sĩ.
Đổi mới tư duy tiểu thuyết còn đòi hỏi đổi mới ngôn ngữ bởi ngôn
ngữ là công cụ của tư duy. Và trong lĩnh vực tiểu thuyết, ngôn ngữ cũng là
một hiện thực, nên nó còn là đối tượng để tư duy, ngôn ngữ cũng là sản
phẩm của tư duy, nên nó còn là mục đích của tư duy. Từ quy luật ấy thông
qua tác phẩm tiểu thuyết, ta sẽ thấy được những vấn đề trong đời sống, trong
nghệ thuật mà nhà viết tiểu thuyết quan tâm trăn trở trong hoạt động sáng
tạo nghệ thuật của mình.



23
Như vậy, việc đổi mới tư duy tiểu thuyết rõ ràng là một tiến trình lâu
dài, đa dạng, đa chiều, luôn đòi hỏi những nỗ lực lao động sáng tạo không
ngừng của mỗi nhà văn và độc giả. Quá trình đổi mới tư duy tiểu thuyết đang
nằm ngay trong sự sáng tạo thường nhật của mỗi nhà văn và kết quả được thể
hiện trong việc cho ra đời những thành tựu tiểu thuyết mới. Điều đó đang và
sẽ là những cơ sở hiện thực quan trọng, có sức thuyết phục, giúp chúng ta
mạnh dạn tin vào một tương lai tươi sáng hơn của tiểu thuyết Việt Nam.
1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải
1.2.1. Những chặng đường sáng tác
Sau hơn một nửa thế kỷ lao động sáng tạo, Nguyễn Khải đã để lại một
khối lượng khá lớn tác phẩm, thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch, ký, tạp văn. Dù thuộc thể loại nào thì ngay từ khi mới ra đời tác phẩm
của ông cũng thường tạo được dư luận và được giới lý luận phê bình chú ý.
Bạn đọc chờ đợi ở ông một thái độ mạnh dạn, nhìn thẳng vào những vấn đề
quan trọng và phức tạp của thực tiễn. Giới nghiên cứu phê bình nhận thấy ở
nhà văn một cách tiếp cận hiện thực độc đáo, cái nhìn sắc sảo và tinh tế nhiều
khía cạnh của đời sống, đặc biệt những thân phận, những trạng thái tâm lý của
con người. Tác phẩm của ông là đề tài cuốn hút sự suy nghĩ, tìm hiểu của
nhiều cây bút thuộc thế hệ nghiên cứu phê bình trẻ tuổi xuất hiện vào những
năm đất nước mở ra thời kỳ đổi mới.
Nguyễn Khải là nhà văn quân đội. Tuy cụ thân sinh thuộc hàng quan lại
thời thực dân phong kiến, nhưng nhà văn của chúng ta từ nhỏ đã sớm phải đối
mặt với cuộc mưu sinh và sớm có ý thức về tư cách làm người. Cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đã làm thay đổi cuộc đời ông. Trong tiểu
thuyết Thượng đế thì cười, ông viết: “không có cách mạng thì đến làm người
tầm thường cũng khó, nói gì làm một nhà văn”. Cho nên, khi tiếp xúc với
những cái mới mẻ của cách mạng, con người trẻ tuổi đó đã tự nguyện đứng



24
trong đội ngũ với tất cả tấm lòng nhiệt thành, sôi nổi đóng góp sức mình cho
cuộc kháng chiến. Khi đến với nghề văn, Nguyễn Khải là nhà văn sớm có ý
thức dùng văn học để phục vụ sự nghiệp cách mạng, để góp phần làm cho
cuộc sống của con người ngày một tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Trong một lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Khải tự chia sáng tác của
mình thành hai giai đoạn: “Từ năm 1955 đến 1977 tôi sáng tác theo một cách,
từ 1978 đến nay theo một cách khác”.
Đúng là bên cạnh những nét khá ổn định, nhất quán, phong cách văn
xuôi Nguyễn Khải không ngừng được điều chỉnh, làm mới và mỗi giai đoạn
sáng tác của ông đều có những nét khác cơ bản.
1.2.1.1. Chặng trước năm 1978
Ở chặng này nhà văn tập trung đi sâu vào hai đề tài chính: đề tài nông
thôn và công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc. Bên cạnh đó ông còn khai
thác đề tài chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
Ở đề tài nông thôn và xây dựng CNXH tác giả tập trung khẳng định
vẻ đẹp của những con người lao động mới, những con người gắn kết cộng
đồng trở thành nhu cầu máu thịt của mỗi cá nhân như nhân vật cô Đào (
Mùa lạc); Tấm (Đứa con nuôi);… Nguyễn Khải đã miêu tả bộ mặt đầy sức
sống của nông thôn miền Bắc với những vẻ đẹp mới mẻ trong các mối quan
hệ đầy tin cậy giữa tập thể với cá nhân, giữa cấp trên và cấp dưới, tình đồng
chí, tình bạn bè… vừa tỏ thái độ không khoan nhượng với những biểu hiện
tiêu cực không mang tinh thần CNXH như lối làm ăn kiểu trục lợi cá nhân
như Tuy Kiền trong (Tầm nhìn xa); Mơ trong (Chủ tịch huyện). Bằng ngòi
bútnghiên cứu, Nguyễn Khải chỉ ra rằng đầu óc tư hữu và tâm lí nông dân
gia trưởng thâm căn cố đế dưới nhiều biến tướng tinh vi đang cản trở con
đường tiến lên sản xuất lớn.



25
Ở đề tài chiến tranh và cách mạng, Nguyễn Khải đã khắc họa nổi bật
vẻ đẹp của con người Việt Nam: Lòng yêu nước, tinh thần kỉ luật, niềm khát
khao khẳng định phẩm giá trước kẻ thù, tỉnh táo trong nhận thức, thông
minh tháo vát trong hành động và đức tính kiên nhẫn, khiêm nhường. Ông ít
diễn tả khía cạnh mất mát hay mặt trái của chiến tranh mà khám phá sức
mạnh tinh thần tiềm ẩn trong mỗi con người, đặt họ vào các tình huống thử
thách để họ bộc lộ tài trí, nhân cách. Các tác phẩm đều ít nhiều tạo được
không khí nhờ các chi tiết đặc sắc và nhờ giọng kể sôi nổi, hóm hỉnh giàu
màu sắc hùng biện. Tuy nhiên nhiệt hứng ngợi ca khẳng định rõ ràng đã làm
cho các trang viết về chiến tranh thiếu cái chân thực, góc cạnh, cái dữ dội
khốc liệt của những số phận làm nên chiều sâu đời sống.
Các tác phẩm tiêu biểu ở chặng này: Tiểu thuyết Xung đột (in báo
năm 1957), in thành sách năm 1959, tập 2 in năm 1960; Mùa lạc (tập truyện
ngắn, 1960); Một chặng đường (truyện ngắn, 1962); Tầmnhìn xa (truyện,
1963); Hãy đi xa hơn nữa (tiểu thuyết, 1963); Ngườitrở về (1964); Họ sống
và chiến đấu (1966); Hoà vang (1967); Đường trong mây (tiểu thuyết,
1970); Ra đảo (tiểu thuyết, 1970); Chủ tịch huyện (truyện, 1972); Chiến sĩ
(tiểu thuyết, 1973);…
1.2.1.2. Chặng sau năm 1978
Do đòi hỏi của hoàn cảnh lịch sử và thị hiếu công chúng, văn học sau
năm 1975 có nhiều biến đổi, chủ nghĩa đề tài mất ý nghĩa khi quan niệm về
hiện thực được mở rộng. Thay vì coi trọng biến cố lịch sử, văn học lấy con
người làm tâm điểm khám phá, ngòi bút Nguyễn Khải trẻ lại với niềm say
mê “cái hôm nayngổn ngang, bề bộn”. Ông chiếmlĩnh nhiều vùng đất mới
mà vùng đất nào cũng để ông không ngừng trăn trở về số phận con người,
về giá trị làm người. Bên cạnh đó thì cái tôi tiểu sử của tác giả cũng xuất
hiện đậm đặc đem lại hiệu quả thẩm mỹ cao góp phần vào việc đổi mới văn



×