Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÂY BƯƠNG LÔNG ĐIỆN BIÊN (DENDROCALAMUS GIGANTEUS MUNRO) TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÂY BƯƠNG LÔNG
ĐIỆN BIÊN (DENDROCALAMUS GIGANTEUS MUNRO) TẠI
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Mã số : ĐH 2014 -TN03 -05

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đặng Thị Thu Hà

Thái Nguyên - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÂY BƯƠNG LÔNG
ĐIỆN BIÊN (DENDROCALAMUS GIGANTEUS MUNRO) TẠI
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Mã số: ĐH 2014 - TN03 - 05

Chủ nhiệm đề tài:

ThS. Đặng Thị Thu Hà



Người tham gia thực hiện:TS. Nguyễn Thanh Tiến
ThS. Lê Văn Phúc
ThS. Trần Thị Hương Giang
ThS. Nguyễn Việt Hưng

Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài
(Ký , họ tên, đóng dầu )

Thái Nguyên , năm 2016


i

DANH SÁCH NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ
ĐƠN VỊ PHỐI HỢP
1. Danh sách người tham gia đề tài
TT

Họ và tên

Đơn vị công tác

Nội dung nghiên cứu

1

TS. Nguyễn Thanh Tiến

Khoa LN


Điều tra số liệu

2

ThS. Lê văn Phúc

Khoa LN

Phân tích CĐ

3

ThS. Trần Thị Hương Giang

Khoa Lâm Nghiệp

Điều tra số liệu

4

ThS. Nguyễn việt Hưng

Khoa Lâm nghiệp

Điều tra số liệu

2. Đơn vị phối hợp

Tên đơn vị


Nội dung phối hợp nghiên

trong và ngoài nước

cứu

Trung tâm Khoa học lâm
nghiệp vùng trung tâm Bắc
Bộ

Điều tra , xác định địa điểm
nghiên cứu

UBND xã Nà Tầu, Mường
Phăng. Nà Nhạn huyện Điện Cung cấp địa bàn nghiên cứu
Biên Tỉnh Điện Biên

Người đại diện đơn vị

TS. Nguyễn Anh Dũng

Chủ tịch UBND xã,
huyện


ii

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ iii

DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................................iv
DANH MỤC CÁC HÌNH .............................................................................................v
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ....................................................................................2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.....................................................................3
CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .....................................4
1.1. Những nghiên cứu về tre trúc trên thế giới ..............................................................4
1.2. Những nghiên cứu về tre trúc ở Việt Nam...............................................................10
1.3. Thảo luận chung .....................................................................................................19
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..........................20
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................20
2.2. Nội dung nghiên cứu ..............................................................................................20
2.3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................20
CHƯƠNG 3. ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN KHU VỰC NGHIÊN CỨU ...........................28
3.1. Vị trí địa lý ..............................................................................................................28
3.2. Tổng hợp các nét đặc trưng của tỉnh Điện Biên và Tỉnh Phú Thọ .........................28
3.3. Nhận xét và đánh giá chung điều kiện khu vực nghiên cứu ...................................30
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ....................................31
4.1. Đặc điểm sinh học cây Bương lông điện biên ........................................................31
4.2. Đặc điểm sinh thái cây Bương lông điện biên........................................................41
4.3. Đặc điểm tái sinh thân ngầm cây Bương lông điện biên ........................................54
4.4. Thực trạng và kỹ thuật gây trồng, khai thác và sử dụng cây Bương lông điện biên
của người dân tại huyện Điện Biên ...............................................................................58
4.5. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc và phát triển cây Bương lông ........64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .........................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................69
PHỤ LỤC



iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

BP

Bón phân

CT

Công thức

CTTN

Công thức thí nghiệm

D00

Đường kính gốc

DL

Đường kính lóng

D1.3

Đường kính ở vị trí 1m30


Đ/C

Đối chứng

FAO

Tổ chức Lương nông thế giới

L

Chiều dài lóng

LN

Lâm nghiệp

LSNG

Lâm sản ngoài gỗ

NTB

Số cây trung bình

NN&PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NPK


Đạm, lân, kali

OTC

Ô tiêu chuẩn

PRA

Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn

S%

Hệ số biến động

TB

Trung bình

TCN

Tiêu chuẩn ngành

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TN

Thí nghiệm


TTKHLN

Trung tâm khoa học lâm nghiệp

RL

Chiều rộng lá

Rmo

Chiều rộng mo


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Đặc điểm chủ yếu của khu vực nghiên cứu ..................................................28
Bảng 4.1. Đường kính và độ dài lóng cây Bương lông điện biên .................................33
Bảng 4.2. Bề dày vách thân khí sinh của cây Bương lông điên biên ............................34
Bảng 4.3. Cấp kính cành chét cây Bương lông điện biên tại các địa điểm điều tra ......36
Bảng 4.4. Đặc điểm lá của cây Bương lông điện biên ..................................................37
Bảng 4.5. Đặc điểm của mo thân Bương lông điện biên ...............................................38
Bảng 4.6. Theo dõi diễn biến vật hậu loài cây Bương lông điện biên ..........................40
Bảng 4.7. Sinh trưởng của Bương lông điện biên theo vùng sinh thái .........................41
Bảng 4.8. Đặc điểm địa hình và sinh trưởng cây Bương lông điện biên tại huyện Điện
Biên và huyện Đoan Hùng ............................................................................................42
Bảng 4.9. Mật độ và sinh trưởng của Bương lông điện biên theo vị trí địa hình ..........44
Bảng 4.10. Hiện trạng cây Bương lông điện biên phân bố theo tuổi tại huyện Điện
Biên và huyện Đoan Hùng ............................................................................................45

Bảng 4.11. Chất lượng cây Bương lông điện biên tại khu vực nghiên cứu ..................46
Bảng 4.12. Đặc tính hóa học và thành phần cơ giới của đất dưới tán cây Bương điện
biên ................................................................................................................................ 48
Bảng 4.13. Tổng hợp thành phần cây gỗ khu vực trồng cây Bương lông điện biên .....52
Bảng 4.14. Thành phần cây bụi, thực vật ngoại tầng dưới tán rừng Bương lông điện
biên ................................................................................................................................ 53
Bảng 4.15. Đặc điểm mắt ngủ thân ngầm Bương lông điện biên tuổi 3 ......................55
Bảng 4.16. Kết quả nghiên cứu đặc điểm mắt ngủ của cây mẹ.....................................56
Bảng 4.17. Kết quả nghiên cứu khả năng ra măng của cây mẹ.....................................57
Bảng 4.18. Sinh trưởng cây Bương lông điện biên ở các địa điểm nghiên cứu ............59
Bảng 4.19. Kết quả điều tra khai thác và sử dụng cây Bương lông điện biên ..............60
Bảng 4.20. Kết quả tổng hợp kinh nghiệm và các biện pháp kỹ thuật trồng Bương lông
điện biên tại huyện Điện Biên .......................................................................................61


v

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Cách tiếp cận và giải quyết các nội dung của luận án ...................................21
Hình 4.1.Rễ của cây Bươnglông điện biên ....................................................................31
Hình 4.2. Thân ngầm của cây Bương lông điện biên ....................................................32
Hình 4.3. Thân khí sinh và bụi cây Bương lông điện biên ............................................32
Hình 4.4. Cây Bương lông điện biên cắt thành các đoạn ở các vị trí chiều cao khác nhau ..32
Hình 4.5. Đo bề dày vách thân khí sinh cây Bương lông điện biên tại vị trí 1m3. ........35
Hình 4.6. Cành chét cây Bương Lông điện biên ...........................................................35
Hình 4.7. Cành và lá cây Bương lông điện biên............................................................37
Hình 4.8. Hoa cây Bương lông điện biên chụp tháng 3 năm 2015 ...............................39
Hình 4.9. Mắt ngủ thân ngầm cây Bương lông điện biên .............................................57



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tre trúc là tập hợp các loài thực vật thuộc họ Hoà thảo (Poaceae hoặc còn gọi là
Graminaeae). Theo Rao and Rao (1995) [83], trên thế giới các loài tre trúc rất phong
phú, đa dạng, có khoảng 1.250 loài tre trúc của 75 chi, phân bố ở khắp các châu lục, trừ
châu Âu. Châu Á có số lượng và chủng loại tre trúc đặc biệt phong phú với khoảng 900
loài của khoảng 65 chi (Rao and Rao 1995, 1999) [83], [84].
Thế giới có 36,77 triệu ha rừng tre, trong đó diện tích tre của châu Á là 23,6 triệu
ha (FAO, 2005) [68]. Ở Châu Á riêng tại Ấn Độ có tổng diện tích rừng tre trúc khoảng
9,6 triệu ha, với 136 loài khác nhau. Các nước Đông Nam Á có diện tích rừng tre trúc
tương đối lớn: Myanma, Thái Lan, Philippine và Việt Nam. Các loài tre lớn thuộc chi
Bambusa và Dendrocalamus phân bố ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương (Nguyễn
Ngọc Bình và Phạm Đức Tuấn (2007) [5].
Việt Nam được xác định là nằm ở trung tâm phân bố của tre trúc, nên rất phong
phú và đa dạng về loài. Theo Nguyễn Hoàng Nghĩa (2005) [37] Việt Nam có 216 loài
tre nứa thuộc 25 chi và có thể đến 250 loài. Nguyễn Ngọc Bình và Phạm Đức Tuấn
(2007) [4] đã xác định tổng diện tích tre các loại, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng, kể
cả rừng thuần loài và hỗn loài, cả nước có gần 1,5 triệu hecta. Trong đó, hơn 1,4 triệu
hecta là rừng tự nhiên, bao gồm 800 ngàn ha là rừng thuần loài và hơn 600 ngàn hecta
là rừng hỗn loài. Rừng trồng có gần 74 ngàn hecta, chủ yếu là trồng các loài như:
Luồng (D.barbatus), Mai xanh (D.latiflorus), tre Bát độ và một số loài tre lấy măng
khác (dẫn theo Nguyễn Huy Sơn và cs, 2013) [44]. Tre trúc dễ trồng, sinh trưởng nhanh,
sớm cho khai thác, dễ chế biến nên được sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau. Tre
trúc có giá trị rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống nhân dân, đặc biệt là ở nông
thôn và miền núi.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm tre, trúc đã và
đang được quan tâm nghiên cứu và phát triển. Nhiều loài tre, trúc được nhân dân gây
trồng để phát triển kinh tế, đồng thời nâng cao độ che phủ, giảm xói mòn, chống sụt lở
vùng đầu nguồn, ven sông suối, cung cấp nguyên liệu cho chế biến, thúc đẩy phát triển

thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt, trong giai đoạn xây dựng nông
thôn mới, việc phát triển vùng nguyên liệu tre, trúc theo Quyết định số 11/2011/QĐTTg ngày 18 tháng 02 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ cần được quan tâm nghiên
cứu theo hướng phát triển bền vững.


2
Loài Bương lông điện điên (Dendrocalamus giganteus Munro) là một trong những
loài tre có kích thước lớn và vách thân dày, cứng và bền ở Việt Nam, chiều cao 15 -20
m, đường kính gốc 20-25cm, chiều dài đốt từ 25 - 30 cm, ít cành nhánh, khả năng cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến sản phẩm rất cao. Mặt khác, hiện nay việc
kinh doanh cây Bương lông điện biên vẫn theo hướng quảng canh, dựa vào kinh nghiệm
của người dân địa phương và điều kiện tự nhiên sẵn có là chính nên năng suất không cao
như vốn có của nó. Đặc biệt việc phát triển mở rộng diện tích trồng loài cây này rất khó
khăn do nhân giống bằng gốc rất hạn chế về số lượng giống, người dân chưa nắm được
kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp chiết cành hoặc giâm hom cành nên số lượng
giống cung cấp ra thị trường ít chưa đáp ứng được nhu cầu nhân rộng mô hình.Hơn nữa
người dân địa phương chỉ cho rằng trồng bằng giống gốc mới cho năng suất, trong khi
đó nhiều loài tre mọc cụm khác việc nhân giống và trồng bằng giống cành đã đem lại
hiệu quả kinh tế rất cao như: Luồng, Mai xanh, vv...
Như vậy, việc gây trồng Bương lông điện biên còn thiếu hướng dẫn kỹ thuật
nhân giống có khả năng đáp ứng số lượng giống lớn cho gây trồng nhân rộng; thiếu
biện pháp kỹ thuật trồng rừng, kỹ thuật và công nghệ chế biến chưa được quan tâm
nghiên cứu. Để bảo tồn và phát triển loài cây này cần thiết phải có những nghiên cứu
sâu về đặc điểm hình thái, sinh thái học và gây trồng làm cơ sở đề xuất các giải pháp
khai thác và phát triển loài cây trên địa bàn. Với ý nghĩa đó, việc thực hiện đề tài
“Nghiên cứu đặc điểm sinh học Bương lông điện biên (Dendrocalamus giganteus
Munro) tại tỉnh Điện Biên” là hết sức cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Bổ sung những thông tin mới về đặc điểm sinh học và kinh nghiệm gây trồng

làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác phát triển loài cây Bương lông điện biên
làm nguyên liệu công nghiệp chế biến và thực phẩm tại một số tỉnh miền núi phía Bắc.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được một số đặc điểm hình thái, sinh thái, tái sinh thân ngầm của loài
Bương lông điện biên tại khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng và kỹ thuật gây trồng, khai thác và sử dụng câyBương lông
điện biên làm cơ sở đề xuất một số giải pháp phát triển loài cây này tại địa phương.


3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và kỹ thuật gây
trồng, đề tài bổ sung một số dẫn liệu làm cơ sở khoa học để đề xuất các biện pháp bảo
tồn và phát triển loài cây Bương lông điện biên
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Những kết quả của đề tài là những tư liệu quý, tài liệu tham khảo có giá trị và là cơ
sở khoa học đề xuất các biện pháp khai thác và phát triển loài cây Bương lông điện biên


4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về tre trúc trên thế giới
1.1.1. Đặc điểm phân bố và sinh thái tre trúc
Các loài tre trúc thuộc lớp một lá mầm (Moonotyledoneae), bộ Cỏ (Poales), họ
Hòa thảo (Poaceae), họ phụ tre (Bambusoideae).
1.1.1.1. Nghiên cứu về phân bố
Công trình đầu tiên nghiên cứu tre trúc trên thế giới là của tác giả Munro xuất
bản vào năm 1868 với tựa đề "Nghiên cứu về Bambusaceae", tác giả đã khái quát một

cách tổng quát về họ phụ tre, trúc (Dẫn theo Nguyễn Ngọc Bình và cs, 2007) [4]. Sau
đó là ấn phẩm của tác giả Gamble (1896) [72] viết về "Các loài tre trúc ở Ấn Độ", đã
mô tả khá chi tiết về đặc điểm phân bố, một số đặc điểm hình thái và sinh thái của 151
loài tre trúc có ở Ấn Độ, Pakistan, Myanma, Malaysia và Indonesia.
Theo Koichiro Ueda (1976) [27] trên thế giới, người ta gặp được 1250 loài tre
trúc thuộc 47 giống. Các loài này đều thấy phân bố rộng và có khối lượng cây rất
nhiều, song phần lớn đều mọc tự nhiên ở các nước trong vùng Đông Nam châu Á, bao
gồm Trung Quốc (miền Nam Trung Quốc, đảo Đài Loan), Philippin, Thái Lan, Miến
Điện, Ấn độ, Pakixtan, Indonexia và các nước thuộc châu Mỹ v.v.. Không gặp được
loài nào vốn có nguồn gốc tại châu Âu và có rất ít là loài cây bản địa ở châu Úc.
Theo Tewari (1992) [94] đã công bố số liệu cho biết trên thế giới hiện nay 80%
rừng tre trúc phân bố ở Châu Á, tất cả các rừng nhiệt đới và á nhiệt đới đều có tre trúc
xuất hiện. Độ cao phân bố của loài từ sát biển tới 4000 m (so với mực nước biển) song
tập trung chủ yếu ở vùng thấp cho tới đai cao trung bình, tác giả đã xác định được vùng
phân bố chung cho tre trúc và bản đồ phân bố một số chi tre trúc quan trọng của thế
giới.Nhìn vào bản đồ phân bố cho thấy trung tâm phân bố tre trúc tập trung chủ yếu vào
giải nhiệt đới và á nhiệt đới thuộc Châu Á, trong đó chủ yếu là ở Trung Quốc, Ấn Độ,
Việt Nam, Nhật Bản, Malaysia, Bắc Australia, Trung Phi, Nam Mỹ và một phần nhỏ ở
Bắc Mỹ.
Dranfield và Widjaja (1995) [67], đã giới thiệu về phân bố của các loài trong chi
Tre (Bambusa), Cơm lam (Cephalostachyum), Luồng, Le (Gigantochloa), Tầm vông
(Thyrsostachys) ở khu vực Đông Nam Á. Các loài tre trúc có thể mọc hoang dại hoặc


5
được gây trồng và có một đặc điểm nổi bật là tre trúc có mặt ở rất nhiều dạng môi
trường sống khác nhau.
Theo Rao and Rao (1995) [83], nếu xét về diện tích thì châu Á là nơi có diện tích
rừng tre trúc lớn nhất, sau đó đến miền Đông châu Phi, riêng châu Âu hầu như không
có rừng tre trúc. Ở châu Phi, tuy có diện tích rừng tre trúc phân bố rộng, nhưng số

lượng loài lại ít (40 loài). Châu Úc có diện tích rừng tre trúc nhỏ và số loài tre trúc
phân bố cũng rất ít (4 loài).
Theo Tewari (2001) [95], Ấn Độ là nước có diện tích tre trúc lớn nhất thế giới,
phân bố từ sát biển lên tới độ cao 3.700 m sát chân núi Hymalaya. Có 50% loài tập
trung phân bố ở phía tây Ấn Độ, đa số các loài có thân mọc cụm như: Tre, Luồng,
Le/Mum... Còn tác giả Zhu Zhaohua (2000) [102] cho biết ở đảo Hải Nam rất gần với
Việt Nam đã phát hiện được 46 loài tre trúc, trong đó có 38 loài phân bố tự nhiên, chủ
yếu có 3 loài mọc tản thuộc chi Trúc (Phyllotachys) và Thia ma (Sasa); tại tỉnh Vân
Nam có 250 loài đã được phát hiện, diện tích tre trúc đạt tới 331.000 ha.
Khi đề cập tới một số nhân tố khu vực, theo tổ chức FAO (2007) [69], đã đưa ra
danh mục 192 loài, cũng như đặc điểm phân bố đai cao của một số loài tre trúc ở khu
vực Châu Á và Thái Bình Dương. Ở Trung Quốc, Nhật bản là quốc gia có diện tích tre
trúc mọc tương đối lớn, với 237 loài tre trúc khác nhau, chủ yếu là các loài tre mọc
tản, dạng roi.
Nhận xét: Trên thế giới, tre trúc đã được các tác giả nghiên cứu từ thế kỉ XIX.
Các nghiên cứu về tre trúc đều tập trung xác định các khu vực phân bố, thống kê về
diện tích, số lượng loài và chi theo các yếu tố khí hậu, địa hình, và đất... Đây là cơ sở
dữ liệu phân tích tính đa dạng phân bố của tre trúc ở mỗi vùng khác nhau để so sánh
và đánh giá giữa các vùng và các quốc gia.
1.1.1.2. Nghiên cứu về sinh thái tre trúc
Khi nghiên cứu những đặc trưng sinh thái của loài Trúc núi đá (Depanostachyum
luodianense), Liu Jiming (2009) cho rằng: loài cây này phân bố ở 5 kiểu tiểu sinh cảnh
khác nhau như: mặt đất - mặt đá - rãnh đá - kẽ đá - hốc đá, ở mỗi kiểu này đều có
những đặc trưng sinh thái khác nhau. Qua đó thể hiện sự thích ứng của loài với các
nhân tố môi trường xung quanh trong phạm vi hẹp (tiểu sinh cảnh) hay phạm vi rộng
hơn ở mức độ quần thể, quần xã. Trong môi trường "cô lập” kết cấu cành, lá, lóng, đốt
của loài có sự thay đổi khi ở các vị trí khác nhau tương ứng với các tiểu sinh cảnh khác
nhau; ngoài ra kết cấu này còn thay đổi theo tuổi, thực tế là góc phân cành và số cành



6
thứ cấp. Đồng thời nghiên cứu của tác giả đưa đến nhận định: quần xã Trúc núi đá có
chức năng giữ nước tốt hơn quần xã cây bụi và cỏ; có tác dụng cải thiện rõ rệt tới lý
hóa tính của đất. Sự chặt phá tùy tiện của con người là nguyên nhân gây nguy cơ thoái
hóa rừng Trúc núi đá (Dẫn theo Trần Ngọc Hải, 2012) [19].
Dựa vào một số nhân tố như nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm.... Zhou Fangchun
(2000) [101] đã xác định được vùng phân bố sinh thái của loài Trúc (Phyllosstachys
pubescan) ở Trung Quốc, cũng như qua điều tra thực địa, đã xác định được loại đất và
đặc tính của đất nơi có loài phân bố. Căn cứ vào độ sâu phân bố của thân ngầm ở các
lớp đất khác nhau, đã lập được bảng phân bố của thân ngầm loài cây này ở 3 vị trí
chân, sườn, đỉnh. Kết quả cho thấy ở chân đồi độ sâu phân bố của thân ngầm sâu hơn
(80cm), còn ở đỉnh đồi chỉ phát hiện thấy thân ngâm ở độ sâu 40cm trở lên.
Tác giả Dransfield and Widjaja (1995) [67] khi giới thiệu về tài liệu tre trúc của
Đông Nam Á đã đề cập tới các thông tin về khoa học, tên địa phương, phân bố địa lí
của loài, giá trị sử dụng, đặc điểm nhận biết qua hình thái và thông tin vắn tắt về sinh
thái một số loài, như đối với loài Bương (D. giganteus) có mọc tự nhiên ở cao nguyên
nhiệt đới ẩm trên 1.200m. Tuy nhiên, có thể mọc ở rừng thấp nhiệt đới ẩm, có tầng đất
dày nhiều mùn. Tại Thái Lan đã phát hiện thấy loài này mọc ở rừng Tếch. Các thông
tin này rất vắn tắt và chưa cụ thể.
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào xác định
được đặc điểm sinh thái đối với một số loài tre trúc. Đó là cơ sở để xác định vùng
phân bố đối với loài tre trúc.
1.1.2. Nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng tre trúc
1.1.2.1. Nghiên cứu về điều kiện đất đai
Fu Maoyi, Xiao Jianghua (1996) [70] với tác phẩm “Cultivation & Utilization on
Bamboos”đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh măng, sinh
trưởng và phát triển của thân khí sinh là: độ ẩm, nhiệt độ, dinh dưỡng, cấu trúc rừng,
biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần phải được quan tâm khi áp
dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất măng và thân khí sinh (FAO, 2005) [68].
Năm 1998 trong công trình "Bamboo Research and Development in Thailand”

Rungnapar Pattanavibool (1998) [87] đã đề cập kỹ thuật gây trồng một số loài tre trúc
lấy măng ở Thái Lan như: Mạnh Tông, Luồng thái lan, D. strictus. Trong đó Mạnh
tông là loài cây đã được nhập và trồng ở Việt Nam từ thời kỳ chế độ cũ. Khi lựa chọn


7
các loài tre trồng công nghiệp, Yang Yuming và cs. (2000) [99] đã sử dụng những tiêu
chí về sinh thái và năng xuất để lựa chọn như: đất tốt sẽ cho sản lượng cao, cây to đẻ
nhiều măng, giá trị sử dụng lớn. Đất nghèo, xấu, đồi trọc bạc màu tre vẫn sống được,
nhưng sản lượng thấp.
Rao và Ramanatha Rao (1999) [84] đã đưa ra một số kết quả về nghiên cứu liên
quan tới một số nhân tố sinh thái: Loại đất, hàm lượng mùn trong đất, lượng mưa, số
ngày mưa trong năm của 19 loài tre trúc của Trung Quốc. Đất thích hợp cho gây trồng
tre thường là đất thoát nước tốt, đất cát mùn, đất sét pha cát và có nhiều dinh dưỡng,
đất bằng phẳng hoặc đất đồi có độ dốc thấp. Đất thường có màu vàng, nâu vàng hoặc
màu đỏ vàng, đất tầng sâu. Tại Bangledesh, một số loài tre được trồng trên đất có độ
pH từ 6 - 8, hoặc đất đồi có độ pH từ 4,5 - 5,5.
1.1.2.2. Nghiên cứu về mật độ trồng tre trúc
Theo Dai Qihui (1998) [66] mật độ trồng với các loài Dendrocalamus có đường
kính thân cây nhỏ hơn 6cm là 1.660 cụm/ha, đối với những loài có đường kính thân
cây to hơn thì mật độ trồng khoảng 830 cụm/ha (3m x 4m) hoặc 625 cụm/ha (4m x
4m). Với một số loài cây to như Bương (D. giganteus) cự li giữa các cụm là 10m x
10m (tương đương 100 cụm/ha) hoặc loài Hốc thì cự li giữa các cụm là 7m x 7m
(tương đương 205 cụm/ha)
Trung tâm nghiên cứu tre trúc Trung Quốc (2001) [64] trong công trình
“Cultivation and Integrated Utilization on Bamboo in China”bằng các thí nghiệm đối
với loài Bát độ (D. latiflorus) và Lục trúc (D. oldhamii) cho thấy mật độ trồng tốt nhất
là khoảng 600 - 700 bụi/ha với kích thước hố cho trồng bằng giống hom cành là
60x50x40cm.
1.1.2.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến tre trúc

Suwannapinunt và Thaiutsa (1988) [92] khi nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón
đến sinh trưởng và năng suất của các loài tre ở Thái Lan cho rằng: sử dụng hỗn hợp
phân NPK 15-15-15 có hiệu quả rõ rệt đến năng suất của các loài Tầm vông, Mạnh
tông, D. strictus và Bambusa sp. Bón 100kg NPK/ha sẽ đủ để tăng năng suất và bón
200 kg NPK/ha là thích hợp. Prosea (1995) [82] cho rằng bón 20 - 25kg phân hữu cơ
cho mỗi khóm trước mùa sinh trưởng, phân hóa học bón 4 lần mỗi năm, mỗi lần bón
cho 1ha là 80kg NPK theo tỷ lệ 40:10:30 và 0,65 Si.


8
Công trình“Bamboo rediscovered”của Victor Cusack (1997) [96] đề cập đến
biện pháp bón phân làm cho nhiều loài tre trúc phát triển tốt, măng to, nhưng phải bón
một cách hợp lý tuỳ thuộc vào loài nhất định. Về thâm canh một số loài tre cho thấy
đối với loài Mạnh tông hàng năm bón 300kg phân NPK (15:15:15)/ha kết hợp khoảng
40 - 60kg bụi rơm hoặc cỏ khô để phủ và 0,65kg silic dioxyt/ha. Đối với loài Mai xanh
bón 40kg NPK (40:30:10)/ha và bón 4 lần trong năm kết hợp 0,65kg silic
dioxyt/ha/năm và 20 - 25kg phân compost trước mùa sinh trưởng. Tác giả cho rằng do
tre là một loài rễ nông cho nên bón phân một lượng nhỏ hơn nhưng bón nhiều lần
trong năm sẽ tốt hơn. Ở Indonesia sau khai thác măng, nông dân thường pha trộn một
lượng lớn phân bón cùng với phân hữu cơ phủ gốc, bón theo rãnh đào xung quanh bụi
khoảng 2 m. Cách bón này cắt đứt một phần rễ và sẽ kích thích rễ phát triển trực tiếp
vào rãnh có phân bón.
Trung tâm nghiên cứu tre trúc Trung Quốc (2001) [64] bằng các thí nghiệm với
loài tre Mai xanh và Lục trúc cho thấy phân bón làm tăng nhiệt độ trong đất giúp
không khí và nước lưu thông tốt hơn, kích thích măng ra sớm hơn, sản lượng măng và
thân khí sinh tăng cao hơn. Điều này cho thấy việc bón phân cho rừng Dendrocalamus
là rất cần thiết nhằm kinh doanh rừng bền vững và có năng suất cao.
Nghiên cứu của Jha và Lalnunmawia (2004) [76] về trồng xen giữa các loài cây
Hốc, Diễn đá và gừng trong các công thức thí nghiệm về bón phân đã cho thấy sản
lượng của các loài trong các thí nghiệm bón phân cao hơn rõ rệt so với công thức

không bón phân.
Alipon và cs. (2009) [58] khi nghiên cứu xử lý lâm sinh cho rừng Tre gai và Mạnh
tông 9 và 11 tuổi cho rằng tiến hành làm sạch gốc phủ chất hữu cơ, bón phân và duy trì
4 cây 1 tuổi + 4 cây 2 tuổi + 4 cây 3 tuổi + 4 cây 4 tuổi/búi (4-4-4-4, tổng số 16
cây/búi) ở rừng Tre gai sẽ cho sản lượng thân khí sinh ổn định và chất lượng cao nhất.
Còn đối với rừng Mạnh tông sẽ đạt điều này khi được bón phân nhưng không phủ gốc
và duy trì 6 cây 1 tuổi + 6 cây 2 tuổi/búi
Tóm lại: Các công trình nghiên cứu về tre trúc trên thế giới cho thấy, các loài tre
trúc được kinh doanh chỉ cho năng suất, chất lượng cao khi có tác động bởi một số biện
pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp. Các biện pháp thâm canh tăng năng suất chất lượng
được nghiên cứu và thực nghiệm chủ yếu là: Bón phân, điều chỉnh mật độ khóm trên
hecta, điều chỉnh số lượng thân khí sinh để lại cho mỗi bụi, mỗi thế hệ, khai thác măng,
khai thác thân khí sinh, phòng trừ sâu bệnh cho từng loài cụ thể. Ngoài ra, điều kiện khí


9
hậu như lượng mưa, nhiệt độ, điều kiện thổ nhưỡng cũng là những nhân tố có ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình sinh trưởng, phát triển của rừng tre trúc và được chọn
làm những tiêu chí khi lựa chọn biện pháp thâm canh. Kết quả nghiên cứu tre trúc của
nước ngoài là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị, đặc biệt đối với những loài tre trúc có
quan hệ thân thuộc với những loài tre trúc có ở Việt Nam.
1.1.3. Nghiên cứu về chi Luồng (Dendrocalamus) và cây Bương lông điện biên
(Dendrocalamus giganteus Munro) trên thế giới
1.1.3.1. Nghiên cứu về chi Luồng (Dendrocalamus) trên thế giới

Chi Luồng (Dendrocalamus) có khoảng 60 loài trên thế giới (Ohrnberger, (1999)
[81], Yi et al, (2008) [100], Guo et al, (2010) [73]. Chi Luồng phân bố rộng rãi ở các
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á, từ Ấn Độ và Nepal, Trung Quốc,
Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Malaysia và Papua New Guinea
(Stapleton, (1994) [90], Dransfied & Widjaja, (1995) [67], Ohrnberger (1999) [81],

Seethalakshmi & Kumar (1998) [88], Li & Stapleton (2006) [77]. Riêng miền nam
Trung Quốc có 37 loài (Guo, 2010) [73]. Phân bố ở độ cao vài chục mét đến 1700m,
trong điều kiện núi ẩm, chủ yếu sống ở trong rừng, dọc theo suối và trong rừng thứ
sinh nghèo (Ohnberger, 1999) [81].
- Về điều kiện lập địa trồng rừng
Theo tác giả Dai Qihui (1998) [66] đã khuyến nghị nên chọn nơi có độ dày tầng đất
cao, đất còn tốt, ẩm và thoát nước tốt để trồng các cây thuộc chi Dendrocalamus. Trồng ở
các thung lũng, dọc bờ sông, suối và cũng có thể trồng ở chân và sườn đồi thường sinh
trưởng tốt. Nếu trồng nơi đất khô xấu thì có thể sống nhưng măng và thân cây sẽ nhỏ,
không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đây có thể coi là kinh nghiệm có ý nghĩa quan trọng
trong việc chọn lập địa phù hợp để kinh doanh rừng Bương lông theo hướng bền vững.
+ Về kỹ thuật trồng, Dai Qihui (1998) [66] cho biết dù cây con Dendrocalamus
được tạo hạt hay từ nhân giống sinh dưỡng, trước khi trồng nên cắt ngọn chỉ để lại 2-3
đốt. Đối với cây con được tạo từ hạt thì đặt cây con ở tư thế thẳng đứng, lấp đất và phủ
lên gốc cây 3 - 4cm. Với cây đem trồng bằng gốc, đặt cây ở tư thế thẳng đứng, lấp đất
và phủ đất cách cổ rễ 10cm.
+ Về kỹ thuật bón phân, Dai Qihui (1998) [66] cho biết: đối với cây
Dendrocalamus trồng lấy măng, để sản xuất 100kg măng tươi, cây cần 500 - 700g
Nitơ, 100 - 150g Phốt pho và 200 - 250g Kali từ đất. Như vậy, nếu muốn thu hoạch


10
15.000kg măng tươi trên ha mỗi năm cần bổ sung từ 75 - 100kg Nitơ, 15 - 22,5kg Phốt
pho và 37,5kg Kali. Nếu không dùng các loại phân hóa học nêu trên, bón 37.500kg
phân chuồng cho 1ha hàng năm cũng có thể bổ sung lượng dinh dưỡng cần thiết trên.
Việc bón phân chia làm nhiều lần trong năm. Theo Fu Maoyi, XiaoJianghua (1996)
[70] đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh măng, sinh trưởng
và phát triển của thân khí sinh là: độ ẩm, nhiệt độ, dinh dưỡng, cấu trúc rừng, biện
pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần phải được quan tâm khi áp dụng
các biện pháp thâm canh tăng năng xuất măng và thân khí sinh. Nghiên cứu về chu

trình dinh dưỡng trong rừng Là Ngà Nam Bộ các tác giả Shanmughavel và Fracis
(1997) [89] cho biết lượng dinh dưỡng trong cây đứng gia tăng theo tuổi của cây, vì
vậy lượng dinh dưỡng trả lại cho đất không đủ so với lượng dinh dưỡng mà cây đã lấy
đi. Điều này cho thấy việc bón phân cho rừng Dendrocalamus là rất cần thiết nhằm
kinh doanh rừng bền vững và có năng suất cao.
Như vậy, trên thế giới đã có những kết quả nghiên cứu đặc điểm phân bố, kỹ thuật
nhân giống và gây trồng một số loài cây thuộc chi Luồng. Các kết quả nghiên cứu ở trên
thế giới với so với Việt Nam họ đã đạt được nhiều tiến bộ hơn như: đã nhân giống
bằng phương pháp chiết cành để sản xuất cây con với số lượng lớn; trồng tre trúc ở
những nơi đất thích hợp nhằm tận dụng tốt không gian dinh dưỡng, nâng cao sức sản
xuất của rừng, tăng tính bền vững; ứng dụng các biện pháp bón phân thích hợp để cân
bằng dinh dưỡng trong đất nhằm nâng cao sức sản xuất và ổn định trong suốt chu kỳ
kinh doanh. Các kết quả này là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp kỹ
thuật gây trồng cây Bương lông điện biên tại một số tỉnh miền núi phía Bắc.
1.1.3.2. Nghiên cứu về cây Bương lông điện biên Dendrocalamus giganteus Munro

trên thế giới
Hiện nay trên thế giới chưa có công trình nghiên cứu nào về đặc điểm sinh học
sinh thái và kỹ thuật gây trồng loài Bương lông điện biên.
1.2. Những nghiên cứu về tre trúc ở việt nam
1.2.1. Nghiên cứu về đặc điểm phân bố và sinh thái của tre trúc
Ở Việt Nam, tre trúc là nguồn vật liệu quan trọng thứ 2 sau gỗ, được gây trồng
rộng rãi trên toàn lãnh thổ và có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội của
người dân. Tre trúc là nguyên liệu tạo ra hàng trăm loại mặt hàng tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu có giá trị. Chính vì vậy, ngay từ những năm đầu của thế kỉ XX, nguồn tài
nguyên từ tre trúc ở nước ta đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.


11
1.2.1.1. Về phân bố tre trúc

Theo Thái Văn Trừng (1978) [50]; Nguyễn Tử Ưởng (2001) [57]; Nguyễn Ngọc
Bình và Phạm Đức Tuấn (2007) [4] tre nứa phân bố rộng từ vùng nhiệt đới, á nhiệt đới
đến ôn đới, từ 510vĩ Bắc đến 470vĩ độ Nam. Việt Nam là một trong những vùng trung
tâm phân bố tre nứa trên thế giới do có điều kiện tự nhiên thuận lợi, như chế độ nhiệt,
ẩm và thổ nhưỡng, tuy nhiên diện tích, trữ lượng và thành phần loài có khác nhau giữa
các vùng trong nước; những vùng có diện tích và trữ lượng nhiều là: Tây Nguyên, Bắc
Trung Bộ, Đông Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Bắc.
Theo Nguyễn Tử Ưởng (2001) [57]; Nguyễn Ngọc Bình và cs. (2007) [4], Việt
Nam có 1.489.068 ha bằng 4,53% diện tích toàn quốc với tổng trữ lượng là
8.400.767.000 cây.
Camus & Camus (1923) [63] đã thống kê có 73 loài tre trúc thuộc 14 chi ở Việt
Nam. Vũ Văn Dũng (1978) [12] đã đưa ra kết quả điều tra thành phần và phân bố các
loại tre trúc ở miền Bắc Việt Nam (1973 - 1975) là 10 chi, 48 loài, 4 dạng, 2 thứ, trong
đó vùng Đông Bắc có tới 36 loài thuộc 9 chi. Phạm Hoàng Hộ (1999) [21] đã giới
thiệu 23 chi, 121 loài tre trúc nhưng có một số loài chưa có mô tả, các loài khác có mô
tả song chưa đủ các thông tin cần thiết để có thể nhận biết chúng ngoài thực địa.
Các nghiên cứu gần đây của một số nhóm nghiên cứu như: Nguyễn Tử Ưởng và
Nguyễn Đình Hưng (1995) [56]; Nhóm định loại tre nứa của đề tài Tre (2003) [41];.
Nguyễn Hoàng Nghĩa và cs. (2004) [38] cho thấy Việt Nam có trên 133 loài thuộc 24
chi tre trúc trong đó có rất nhiều loài cho giá trị sử dụng và có giá trị kinh tế cao cần
được nghiên cứu để phát triển. Nhóm tác giả Lê Viết Lâm và cộng sự (2005) [29] tiến
hành điều tra bổ sung thành phần loài, phân bố và một số đặc điểm sinh thái của các
loài tre trúc chủ yếu ở Việt Nam, đã công bố 113 loài tre trúc và biên soạn cuốn sách
cho 40 loài tre thông dụng, với các thông tin về phân loại, gây trồng, giá trị kinh tế và
triển vọng, qua đó đã làm nổi bật những loài tre trúc cần ưu tiên phát triển, tuy nhiên
giá trị của tài liệu vẫn chủ yếu là về phân loại.
Theo tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa (2005) [37] ở Việt Nam có 216 loài tre nứa
thuộc 25 chi và có thể đến 250 loài.
Năm 2007, Dự án hỗ trợ chuyên ngành Lâm sản ngoài gỗ tại Việt Nam - Pha II do
chính phủ Hà Lan tài trợ đã xuất bản ấn phẩm “Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam” (2007)

[13] với trên 1.000 trang giới thiệu về các loại lâm sản ngoài gỗ có giá trị, trong đó đã
giới thiệu 58 loài tre trúc với những thông tin về hình thái, sinh thái, công dụng và kỹ


12
thuật gây trồng, đây là thông tin được tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu từ trước đến nay
và có giá trị tham khảo để nghiên cứu đề xuất các giải pháp kỹ thuật gây trồng, khai
thác, bảo quản thân tre trúc và măng phục vụ nhu cầu sử dụng của xã hội.
Năm 2007, nhóm tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa và Trần Văn Tiến (2007) [39]
đưa ra danh sách về các loài tre trúc có ở Việt Nam, trong 194 loài tre trúc thuộc 26
chi, có 80 loài đã tạm thời được định danh, còn lại là các loài chưa có tên hoặc có các
loài/phân loài mới. Việc xác định rõ đâu là loài hoặc phân loài là một công việc rất khó
khăn. Quá trình khảo sát đã phát hiện một số chi được coi là mới đối với nước ta là chi
Giang (Maclurochloa) với 17 loài, chi tre quả thịt mới được phát hiện,Tre lông Bidoup
(Kinabaluchloa) có ngoại hình giống loài cùng chi ở Malaixia (Wong, 1995) [98]. Một
số chi có nhiều loài là chi Tre có 55 loài, chi Luồng có 21 loài, chi Le có 16 loài, chi
Nứa có 14 loài và chi Vầu đắng có 11 loài. Công trình nghiên cứu của Nguyễn Hoàng
Nghĩa có thể được coi là tài liệu duy nhất từ trước đến nay đã liệt kê đầy đủ nhất về số
lượng chi, loài tre trúc với nhiều thông tin có ý nghĩa về phân bố, đặc tính hình thái,
sinh thái, công dụng và có giá trị như một cẩm nang để tra cứu, đặc biệt là nhận dạng
loài tre.
Nguyễn Ngọc Bình và Phạm Đức Tuấn (2007) [4] cho rằng, từ độ cao ngang mặt
biển đến vùng núi cao của Việt Nam như Hoàng Liên, Tây Côn Lĩnh, Ngọc Lĩnh… đều
có tre mọc. Nhưng về mặt phân bố của tre trúc có thể chia làm 2 đai độ cao rõ rệt: Ở đai
độ cao trên 700 - 800 m hầu hết là các loài tre có thân ngầm mọc tản, tiêu biểu cho khí
hậu á nhiệt đới như các chi: Sặt (Arundinaria), Vầu, Trúc, Trúc vuông
(Chimonobambusa)… Còn đai độ cao dưới 700 - 800 m hầu hết là các loài tre mọc cụm
tiêu biểu cho khí hậu nhiệt đới thuộc các chi như: Tre, Luồng… Cá biệt có những loài
tre mọc cụm phân bố ở độ cao 1.000m như Bương lớn (D. aff giganteus), hoặc loài tre
mọc tản phân bố xuống độ cao 400 - 500 m như Vầu đắng (Indosasa angustata).

Theo nghiên cứu của Lê Viết Lâm và cs. (2005) [29] tre phân bố ở hầu hết các
vùng và độ cao khác nhau của Việt Nam, các loài tre trúc phân bố theo vùng sinh thái
thể hiện rất rõ. Nhiều loài tre trúc là các loài đặc hữu hoặc đặc trưng của từng vùng như:
vùng Tây Bắc có Mạy sang, Mạy bông, Mạy bói (B. burmanica), Mạy púa cai na (D.
pachystachys)… Vùng Đông Bắc có Vầu đắng, Trúc sào (Ph. edulis), Trúc cần câu (Ph.
sulphurea)… Vùng Trung tâm có Giang, Diễn trứng (D. parvigemniferus), Diễn đá
(D.longgivaginus), Lộc ngộc (B.bicorniculata), Tre Là ngà (B. sinospinosa)… Vùng
Bắc Trung Bộ có: Lùng (B. longissima), Mạy cần (Thyrostachys oliveri), Luồng
(D.barbatus). Vùng Nam Trung Bộ có Lồ ô Trung Bộ (B. balcooa), Tre quả thịt


13
(Melocalamus sp.nov)…. Vùng Tây Nguyên có Le, Lồ ô (B. procea), Le cỏ
(Vietnammosasa pusilla). Vùng Đông Nam Bộ có: Lồ ô, Mum (Multiffosculla). Vùng
Tây Nam Bộ có Tre mỡ, Tre gai.
1.2.1.2. Nghiên cứu về sinh thái tre trúc
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến rừng Phùng Ngọc Lan
(1986) [28] và Thái Văn Trừng (1978) [50] đều thống nhất cho rằng: mỗi vùng địa lí
khác nhau có một tổ hợp các nhân tố sinh thái khác nhau sẽ có một kiểu rừng đặc
trưng và tạo nên một cảnh quan địa lý riêng biệt, đó chính là đặc trưng sinh thái.
Kết quả nghiên cứu đề tài của Lê Viết Lâm và cs. (2005) [29], cho thấy các loài
cây tre là cây ưa sáng và ẩm nên trồng tre tốt nhất là chọn nơi đất sâu, dày, ven sông
suối. Nhưng tre cũng chịu được khô hạn như các loài tre ở vùng Tây Bắc Việt Nam,
chịu khô hạn rất tốt như Mạy sang, Mạy bông. Những loài tre không chịu được khô
hạn thì khi gặp điều kiện khô hạn, kích thước của chúng giảm đi rất nhiều. Một số loài
tre ưa các điều kiện đặc biệt của môi trường như loài Trúc dây (Ampelocalamus sp.)
chỉ mọc trên vùng núi đá vôi. Một số loài tre có thể chịu ngập khá lâu như: Tre gai,
Tre Là ngà và Lộc ngộc thái lan (B. bicomiculata). Tre gai được trồng rộng rãi trên
phạm vi cả nước.
Trần Văn Mão và Trần Ngọc Hải (2006) [34] đã giới thiệu hình thái các loài thân

ngầm của tre trúc như kiểu mọc cụm, mọc tản và kiểu mọc hỗn hợp; cấu tạo thân khí
sinh, số lượng cành và cách phân cành; các bộ phận và hình thái lá quang hợp, mo
nang và hoa.
Trong cuốn “Kỹ thuật trồng một số loài tre trúc song mây”, Nguyễn Huy Sơn và
cs. (2013) [44] đã khái quát đặc điểm sinh thái của loài cây Bương mốc thích hợp với
khí hậu mưa mùa, có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, nhiệt độ trung bình hàng
năm từ 20 - 24oC, lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.500 mm trở lên. Phân bố ở độ
cao từ 80 - 800 m so với mực nước biển, nhưng thích hợp nhất là từ 80 - 300 m. Độ
dốc từ 10 - 20o. Có thể trồng Bương mốc trên nhiều loại đất khác nhau, độ dày tầng đất
từ 50cm trở lên, nhưng tốt nhất là đất có tầng từ trung bình đến dày (≥ 70cm), phát
triển trên các loại đá mẹ phiến thạch sét, diệp thạch, sa thạch, đá vôi, hay đất dốc tụ và
bồi tụ giàu mùn ở ven khe cạn hay ven suối, đất tơi xốp, ẩm thường xuyên và thoát
nước tốt.


14
1.2.2. Nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng
Nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng, khai thác tre đã được quan tâm nghiên cứu khá
sớm ở Việt Nam, từ những năm 60 của thế kỷ 20.
Năm 1963, Phạm Quang Độ (1963) [16] có ấn phẩm “Trồng và khai thác tre nứa
trúc”với nội dung giới thiệu sơ lược về đời sống của tre trúc và phương pháp gây
trồng. Cùng năm đó, Hồng Minh (1963) [35] trong ấn phẩm “Kỹ thuật trồng tre
trúc”đã giới thiệu sơ lược về đặc điểm hình thái, sinh thái, kỹ thuật chọn giống, gây
trồng, chăm sóc và bảo vệ cho 12 loài tre trúc ở Miền Bắc Việt Nam. Trần Xuân Thiệp
(1999) [47] đã đưa ra kết quả nghiên cứu thực nghiệm kinh doanh rừng Vầu đắng
(Arundinarial) tại Bắc Quang - Hà Tuyên.
Một số công trình của Lê Quang Liên và cs. (1990) [30]; trong cuốn “Gây trồng
tre trúc” Ngô Quang Đê (1994) [14] đã giới thiệu kỹ thuật gây trồng 3 loài: Luồng,
Mạy sang và Vầu đắng bao gồm các khâu ươm giống, kỹ thuật trồng, chăm sóc, khai
thác và sử dụng. Các tác giả Triệu Văn Hùng, Nguyễn Xuân Quát, Hoàng Chương

(2002) [25] viết cuốn “Kỹ thuật trồng một số loài cây đặc sản rừng”giới thiệu kỹ
thuật trồng 2 loài là Trúc sào và Vầu đắng gồm điều kiện gây trồng, nguồn giống, kỹ
thuật gây trồng, chăm sóc, khai thác và chế biến. Năm 2004 Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã ban hành Tiêu chuẩn ngành 04 TCN 69 - 2004. Quy phạm kỹ thuật
trồng, chăm sóc và khai thác măng tre Điềm trúc (D. latiflorus) theo Quyết định số
51/2004/QĐ-BNN ngày 19/10/2004 [7].
Phạm Văn Điển và cs. (2009) [17] giới thiệu kỹ thuật gây trồng cây Bương
(Sinocalamus flagellifero) và cây Vầu đắng. Trần Ngọc Hải (2012) [19] Nguyễn Huy
Sơn và cs. (2013) [44] đã giới thiệu chung về tre trúc, kỹ thuật trồng một số loài tre
trúc như: Mai, Luồng, Mạnh tông, Điềm trúc, Lục trúc, Trúc sào, Vầu đắng, Bương
mốc, Mai xanh, Mạnh tông, Mạy bói....
Nhìn chung, các tài liệu trên đã cung cấp khá nhiều thông tin liên quan đến nhân
giống tre trúc, kỹ thuật gây trồng, chăm sóc cho những loài tre trúc thông dụng, có giá
trị ở nước ta, trong đó đề cập đến nhiều biện pháp thâm canh tăng năng suất rừng
trồng tre trúc bằng bón phân, hệ thống kỹ thuật chăm sóc và khai thác.
1.2.2.1. Nghiên cứu về điều kiện đất đai
Lê Nguyên Kế (1963) [26] trong một số kết quả nghiên cứu về những yêu cầu
của đất trồng, giống, mật độ trồng tre, đã đưa ra kết luận: đất trồng phải có tầng đất


15
dầy, không úng ngập, dễ thoát nước, giống trồng phải tốt, chọn cây không dưới 8
tháng đến 1,5 năm tuổi. Hoàng Xuân Tý (1972) [55] trong ấn phẩm“Tìm hiểu đất rừng
tre trúc thuần loài”cho biết, trồng tre Diễn và Tre gai thuần loài làm cho tính chất vật
lý của đất bị thoái hóa nhanh chóng, giảm hàm lượng mùn, đạm, lân và kali. Do vậy
khuyến cáo không nên trồng rừng tre trúc thuần loài, mà phải trồng xen với cây gỗ để
đảm bảo độ phì của đất.
Tác giả Phạm Văn Điển và cs. (2009) [17] giới thiệu về kỹ thuật gây trồng cây
Bương (Sinocalamus flagelliter) cho biết cây Bương ưa đất bằng phẳng, ven chân núi,
dọc theo sông suối, quanh làng bản, cây Bương thường mọc trên đất feralit mùn trên

núi đất giàu mùn, hơi ẩm, tơi xốp hoặc hơi chặt, có kết cấu hạt hoặc viên, thành phần
cơ giới thịt nhẹ, đá lẫn trung bình. Cây Bương đặc biệt phát triển tốt ở các loại đất có
nguồn gốc đá vôi.
Nguyễn Huy Sơn và cs. (2013) [44] cho rằng, có thể trồng Bương mốc trên nhiều
loại đất khác nhau, độ dày tầng đất từ 50cm trở lên, nhưng tốt nhất là đất phát triển
trên các loại đá phiến thạch sét, diệp thạch, sa thạch, đá vôi hay đất dốc tụ và bồi tụ,
giàu mùn ở ven sông suối, đất tơi xốp, ẩm và thoát nước tốt.
Nhận xét: Ở Việt Nam, các nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng đã xác định được loại
đất thích hợp đối với một số loài tre trúc như Luồng, Diễn, Tre gai, Bương mốc,
Bương... Đối với lĩnh vực trồng thâm canh tre trúc đây là những nhân tố cần phải được
quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất măng và thân khí sinh.
1.2.2.2. Nghiên cứu về mật độ trồng
Kết quả nghiên cứu về mật độ trồng tre trúc trong một số tài liệu chưa có sự
thống nhất như: Đối với Điềm trúc, sách của Prosea (1995) [82] cho rằng mật độ là
400 và 625 khóm/ha; Anh Tùng (1999) [53] chọn mật độ 400 - 500 khóm/ha đối với
Điềm trúc, còn Lục trúc chọn mật độ 500 - 625 khóm/ha; Ngô Quang Đê, (1994) [14]
chọn mật độ với loài mọc cụm như Luồng, Diễn nếu đất bằng, trồng thuần loài có thể
với mật độ trồng 500 - 670 cây/ha; nếu trồng hỗn loài thì chỉ nên 200 - 400 cây/ha (cự
ly 5 x 10m hoặc 4 x 6m); Đỗ Văn Bản (2005) [1] đưa ra mật độ trồng Điềm trúc, Lục
trúc, Tạp giao là 400 - 625 khóm/ha; CNBRC (2001, 2008) chọn mật độ 650 -700
khóm/ha (Dẫn theo Lê Văn Thành (2013) [46].
Đối với loài Bương mốc theo nhóm tác giả Nguyễn Huy Sơn và cs. (2013) [44]
tùy thuộc vào đặc điểm địa hình cụ thể nơi trồng rừng, có thể áp dụng một trong những
phương thức sau: trồng tập trung thuần loài; trồng phân tán, theo tác giả nếu trồng tập


16
trung thuần loài có thể trồng theo từng lô không quá 3,0ha/lô, mật độ trồng có thể từ
100 - 625 khóm/ha, tuy nhiên, phổ biến là 210 - 330 khóm/ha, tức là cự ly hàng cách
hàng từ 6 - 8m, khóm cách khóm trên hàng từ 5 - 6m, còn nếu trồng phân tán có thể

trồng quanh nhà, trong vườn hộ xen với cây ăn quả, cây gỗ, bên bờ ao, ven suối...
khóm cách khóm 5m.
Như vậy, tập hợp từ những nghiên cứu nêu trên cho thấy mật độ trung bình cho
một số loài tre bản địa và nhập nội trồng lấy măng ở Việt Nam chủ yếu là khoảng từ
400- 600 khóm/ha. Kế thừa các tài liệu trên, đề tài dự kiến áp dụng với loài cây Bương
lông điện biên mọc thành cụm lớn, thân to, chiều cao từ 20 - 25 m, mật độ trồng trung
bình sẽ từ 200 - 400 khóm/ha (quy đông đặc).
1.2.2.3. Nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón đến tre trúc
Lê Quang Liên và cs. (2000) [31] đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật trồng
tre trúc để lấy măng”đôi với loài Luồng và Tre gầy (D. opsis),đã khảo nghiệm 3 công
thức bón phân NPK và khẳng định muốn trồng tre trúc để lấy cây hay lấy măng có
năng suất cao thì cần phải trồng thâm canh, bằng cách phải bón kết hợp giữa phân
chuồng với phân hóa học tổng hợp NPK sẽ có tác dụng nâng cao năng suất đến 2,5 lần.
Đỗ Văn Bản và cs. (2005) [2] thử nghiệm bón lót cho Điềm trúc, Lục trúc và Tạp
giao với liều lượng bón là 15kg phân chuồng hoai/khóm và 0,5kg NPK (5-10-3).
Nguyễn Huy Sơn và cs. (2013) [44] kết luận khi rừng trồng hoặc bụi Bương mốc đã
già cỗi, năng suất thấp, cây mẹ nhỏ dần.... có thể bón thúc mỗi năm 1 lần vào đầu mùa
mưa, mỗi gốc bón từ 15 - 30kg phân hữu cơ kết hợp với 0,5 - 0,7 kg (NPK), đào rãnh
rộng khoảng 20 cm, sâu khoảng 25 cm xung quanh gốc và cách gốc từ 30 - 40cm, rải
phân đều trong rãnh, lấp và vun đất vào gốc cây cao hơn mặt đất xung quanh khoảng
5cm, đồng thời cắt tỉa cây già chỉ để lại mỗi bụi 7 cây theo tỷ lệ 3:3:1, tức là 3 cây 1
năm tuổi, 3 cây 2 năm tuổi và 1 cây 3 năm tuổi.
Nhận xét: Cơ bản các tài liệu nghiên cứu về cách thức bón phân, liều lượng bón
phân cho rừng sản xuất tre trúc đều đề cập đến việc bón kết hợp giữa phân hữu cơ và
phân vô cơ (NPK) nhưng tỷ lệ và liều lượng bón lại khác nhau. Như vậy, đề tài cần khảo
nghiệm được trồng và sử dụng công thức phân bón áp dụng cho loài Bương lông điện
biên tại tỉnh Phú Thọ, để có cơ sở đưa ra một số kết luận về ảnh hưởng tích cực của
phân bón, liều lượng phân cần bón, loại phân bón, tỷ lệ phân bón phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội, phong tục tập quán canh tác của người dân sau khi kết thúc đề tài.



17
1.2.3. Nghiên cứu về chi Luồng và cây Bương lông điện biên ở Việt Nam
1.2.3.1. Về chi Luồng
Năm 1923, Camus & A. Camus (1923) [63], đã thống kê được chi Luồng có 8
loài ở Việt Nam. Sau quá trình điều tra và tổng hợp lại đến năm 2007 nhóm tác giả
Nguyễn Hoàng Nghĩa và Trần Văn Tiến (2007) [39] đã xác định ở Việt Nam có 21
loài thuộc chi Luồng.
Chi Luồng bao gồm nhiều loài mọc cụm, thân tròn thẳng. Mo thân mau rụng và
thường khá to, tai mo biến động, phiến mo hình tam giác. Hoa tự chùy lón, ít hoa
(không quá 6 hoa), lưỡng tính. Không có mày cực nhỏ (loduicule). Nhị 6, chỉ nhị tự
do. Vòi nhụy dài, thường có lông: đầu nhụy 1 (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2005) [37].
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống và gây trồng Luồng như
của Phạm Văn Tích (1963) [49], Lê Nguyên và cs. (1971) [40]; Lê Quang Liên (1990,
2001) [30], [32]; Nguyễn Trường Thành (2002) [45]; Lê Cao Danh Thịnh (2004) [48]
nghiên cứu một số quy luật sinh trưởng và cấu trúc của rừng Luồng trồng thuần loài tại
tỉnh Thanh Hóa. Nhóm tác giả Phạm Văn Điển và cộng sự (2009) [17] đã giới thiệu loài
cây Bương (Sinocalamus flagelliter Munro) cho biết Bương là cây trồng tập trung nhiều
nhất ở các tỉnh vùng Đông Bắc, Trung Tâm, Tây Bắc và Bắc Khu Bốn. Độ cao phân bố
của cây Bương từ 50 - 100m nhưng tập trung ở độ cao 300 - 700m. Tác giả Nguyễn Huy
Sơn và cộng sự (2013) [44] cho biết Bương mốc ở nước ta thường chỉ gặp ở dạng rừng
trồng hoặc phân tán ở các tỉnh phía Bắc như: Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình và các huyện
phía Tây của Hà Nội..
Năm 2000, Lê Quang Liên và cộng sự [31] đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu
kỹ thuật trồng tre trúc để lấy măng” cho 2 loài Luồng và Tre gầy, trong đó có khảo
nghiệm 3 công thức bón phân NPK và khẳng định muốn trồng tre trúc để lấy cây hay
lấy măng có năng suất cao thì cần phải trồng thâm canh.
Nghiên cứu về gây trồng, khai thác Luồng được tiến hành khá hoàn chỉnh. Năm
2000, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Tiêu chuẩn ngành 04-TCN
21-2000. Quy phạm kỹ thuật trồng và khai thác Luồng theo Quyết định số

05/2000/QĐ-BNN/KHCN ngày 25/1/2000 [6].
Lê Quang Liên (2001) [32] trong nghiên cứu “Nhân giống Luồng bằng chiết
cành” đã nghiên cứu về phương pháp chiết cành, trong đó cành chiết được bọc bằng


18
hỗn hợp bùn rơm phía ngoài có bao nilon giữ ẩm đạt tỷ lệ ra rễ rất cao (97,5%) là
phương pháp dễ áp dụng, mang lại hiệu quả rất cao.
Khi nghiên cứu đặc điểm đất trồng rừng Luồng và ảnh hưởng của các phương thức
trồng rừng Luồng, Nguyễn Ngọc Bình (2001) [3] chỉ ra rằng Luồng sinh trưởng tốt ở
nơi có đất chua pH(H2O): 4,8 - 5,9; pH(KCL): 4,2 - 5,0 ở tầng đất mặt hàm lượng mùn
và N tổng số tương quan rất chặt, hàm lượng K2O dễ tiêu trong đất tương quan tương
đối chặt còn hàm lượng P2O5 dễ tiêu lại tương quan không chặt với sinh trưởng về
đường kính cây Luồng, tác giả cho rằng nên trồng Luồng theo phương thức hỗn giao với
cây họ đậu như Keo là thích hợp nhất để tránh làm suy thoái đất rừng.
Theo Đỗ Văn Bản (2005) [1] hàng năm 50% số tre được thu hoạch từ một số loài
tre với đặc điểm bề dày thân khí dày như Luồng, Tre tàu (Dendrocalamus latiflorus
Munro), Mạy sang, Tre gai, và Là Ngà Nam Bộ sẽ đưa vào sử dụng làm nguyên vật
liệu trong thời gian dài.
1.2.3.2. Nghiên cứu về cây Bương lông điện biên ở Việt Nam
Loài Bương lông điện biên, còn có các tên gọi khác như Mạy púa mơi, Bương
lớn, Bương lớn điện biên, nghiên cứu lần đầu tiên ghi nhận bởi nhóm nghiên cứu tre
trúc (Lê Viết Lâm và cộng sự, 2005) [29], nhóm tác giả đã xác định tên khoa học của
Bương lông điện biên là Dendrocalamus sinicus L.C. Chia & J.L. Sun. Nguyễn Hoàng
Nghĩa (2005) [37] cũng ghi nhận loài cây này là Dendrocalamus sinicus L.C. Chia &
J.L. Sun trong cuốn Tre trúc Việt Nam, trang 151. Nhưng Nguyễn Văn Thọ (2012)
[80], cho biết loài cây Bương lông điện biên mới này giống với loài D.sinicus Chia et
Sun nhưng khác bởi mo thân sớm rụng, lưỡi mo dài 7-10mm, lưỡi lá phẳng, mép
nguyên, phủ lông thưa, không có răng cưa.
Theo đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp nhà nước năm 2012 [11] do Viện

khoa học lâm nghiệp chủ trì đề tài lấy tên khoa học của cây Bương lông điện biên là
Dendrocalamus giganteus Munro.
Vì thời gian thực hiện đề tài hạn chế nên đề tài chưa đủ thời gian xác định tên
khoa học chính xác cho loài cây Bương lông điện biên, nên đề tài lấy tên khoa học cho
cây theo tên đề tài cấp nhà nước là Dendrocalamus giganteus Munro.
Nhận xét: cho đến nay nghiên cứu về cây Bương lông điện biên ở trong nước rất
ít, đặc biệt là nghiên cứu về đặc điểm lâm học, sinh thái học, biện pháp kỹ thuật lâm
sinh, nhân giống và chế biến sản phẩm từ Bương lông điện biên một cách cụ tiết và hệ


×