Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CHUNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM – MƯỜI BẢY NĂM NHÌN LẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.63 KB, 10 trang )

Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CHUNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
– MƯỜI BẢY NĂM NHÌN LẠI
Trần Thị Thu Thúy,
Quang Thục Hảo,
Trần Thái Hòa
(Sinh viên năm 3, Khoa Tâm lí – Giáo dục)
GVHD: TS Ngô Đình Qua
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, cuộc sống của con người cũng thay đổi
theo, từ đó dẫn đến việc chuyển đổi các định hướng giá trị. Đất nước ngày càng hội
nhập và phát triển đòi hỏi con người phải ý thức hơn về trách nhiệm, trân trọng và phát
huy những giá trị truyền thống, có ý chí vươn lên, quyết tâm hành động, làm chủ tri
thức. Tuy nhiên, ngày nay cũng không ít người có quan điểm lệch lạc về định hướng
giá trị, nhận thức giá trị dẫn đến những hành động không tốt và ảnh hưởng nghiêm
trọng tới toàn xã hội. Ở Việt Nam, năm 1995 Nguyễn Quang Uẩn đã chủ nhiệm thực
hiện đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 07 về Giá trị - định hướng nhân cách
và giáo dục giá trị. Đề tài đã đề cập đến những đặc trưng và xu thế định hướng giá trị
của người Việt Nam hiện nay.
Định hướng giá trị của cá nhân cũng như nhóm xã hội có tính chất ổn định tương
đối. Trong khoảng thời gian từ mười tới hai mươi năm những định hướng ấy có thể
thay đổi theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Chính vì vậy, việc xác định được đâu
là những giá trị có tính ổn định, đâu là những giá trị có thể thay đổi vị trí trong thang
giá trị của từng nhóm xã hội, đặc biệt là học sinh, sinh viên sẽ giúp người nghiên cứu
có cơ sở đề xuất được các biện pháp giáo dục giá trị phù hợp, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường phổ thông, nhà trường đại học.
Những lí do trên là động lực thôi thúc nhóm chúng tôi nghiên cứu đề tài “Định
hướng giá trị chung của người Việt Nam - mười bảy năm nhìn lại”.
2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu


2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu định hướng giá trị chung của người Việt Nam hiện nay, phân tích sự
biến chuyển qua 17 năm. Từ đó đề xuất những giải pháp giáo dục phù hợp.
2.2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
2.2.1. Khách thể nghiên cứu
- Học sinh Trường Trung học Thực hành Sài Gòn, sinh viên Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM), Trường Đại học Bách khoa TPHCM,
Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TPHCM.
- Nông dân của huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
198


Năm học 2012 - 2013

- Công nhân viên chức trường Mẫu giáo Tân Bình và trường THCS Tân Bình
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
- Nhân viên Công ty Cổ phần Viễn thông Tin học Điện tử Kasati.
2.2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Định hướng giá trị của thành phần khách thể trên.
- Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 07 về Giá trị
định hướng nhân cách và giáo dục giá trị năm 1995 của Nguyễn Quang Uẩn cùng
đồng tác giả.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ khảo sát trên mẫu gồm 251 khách thể thuộc năm thành phần xã hội:
nông dân (ND), học sinh trung học phổ thông (HS THPT), người kinh doanh (NKD),
sinh viên (SV) và công nhân viên chức (CNVC).
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính. Các
phương pháp còn lại nhằm mục đích hỗ trợ quá trình nghiên cứu. Các phương pháp này
được sử dụng đồng bộ, phối hợp một cách hệ thống trong suốt quá trình nghiên cứu.

3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Lí luận về giá trị, định hướng giá trị
3.1.1. Giá trị
Giá trị là tất cả những cái gì thuộc về vật chất và tinh thần, nảy sinh trong mối
quan hệ với nhu cầu của con người mà con người đang mong muốn chiễm lĩnh để thỏa
mãn, ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn của họ.
3.1.2. Khái niệm định hướng giá trị
Định hướng giá trị là sự định hướng của cá nhân hay của nhóm xã hội đến hệ
thống giá trị này hay giá trị khác trên cơ sở hệ thống giá trị đó được nhận thức, hình
thành niềm tin và có ý nghĩa và quyết định hành vi lựa chọn của họ.
3.2. Mô hình định hướng giá trị của người Việt Nam hiện nay – mười bảy năm
nhìn lại
3.2.1. Định hướng giá trị chung của từng nhóm khách thể nghiên cứu
Bên cạnh 20 giá trị được kể đến trong đề tài nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Quang Uẩn năm 1995, nhóm chúng tôi thực hiện bảng khảo sát mở về các giá trị hiện
đại của con người Việt Nam và đã thu được hai giá trị mới, đó là“hợp tác”, giá trị “giữ
gìn môi trường”. Như vậy, đề tài tiến hành nghiên cứu 22 giá trị là: việc làm, giữ gìn
môi trường, công lí, học vấn, gia đình, an ninh, hợp tác, tự trọng, chân lí, tự lập, tình
yêu, sáng tạo, cái đẹp, cuộc sống giàu sang, địa vị xã hội, niềm tin, nghề nghiệp, sống
có mục đích, tình nghĩa, hòa bình, tự do, sức khỏe.
3.2.1.1. Định hướng giá trị chung của người nông dân
199


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

Kết quả khảo sát cho thấy những giá trị được người ND chọn “rất quan trọng” nổi
bật là: “sức khoẻ” (100%), “việc làm” (88.2%), “gia đình” (82.4%), “tự do” (79.4%)
được phần lớn đối tượng khảo sát cho là rất quan trọng. Về “sức khỏe” là một vấn đề
cũng rất quan trọng xếp hạng nhất trong 22 giá trị mà nhóm đưa ra, với người ND,

quanh năm suốt tháng phải “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” chủ yếu là công việc
tay chân đòi hỏi sức khoẻ phải tốt, chú Hiếu cũng cho biết: “Sức khỏe phải đưa lên
hàng đầu, vì có sức khỏe mới có khả năng làm việc được”. Gia đình cũng là một yếu tố
rất quan trọng đối với người ND; gia đình hài hòa, hạnh phúc là một nguồi lực, động
lực rất mạnh mẽ đối với công việc cũng như trong cuộc sống.
“Cái đẹp”, “địa vị xã hội” được phần lớn đối tượng khảo sát cho là không quan
trọng. Tại sao như vậy? “Cái đẹp” chỉ là cái vẻ bề ngoài, với người ND thì chỉ cần sự
thật thà, chất phác, tình nghĩa ngay trong chính bản thân mỗi người, người xưa thường
nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” ý muốn chỉ bản chất con người mới là điều cần phải nghĩ
tới.
Về “địa vị xã hội” và “cuộc sống giàu sang”, ai cũng muốn mình có chỗ đứng
trong xã hội, có đủ đầy, sung túc nhưng người ND lại cho đó là không quan trọng. Chú
Trần Văn Hai nói rằng: “Người nông dân lam lũ làm ăn, người ta chỉ quan tâm làm sao
sản xuất ra được nhiều lúa thóc để phục vụ cho gia đình cũng như xã hội, còn về địa vị
trong xã hội thì họ không quan tâm, có cũng được, không có cũng không sao”. Các ý
kiến khác cũng mang tính đồng nhất khi cùng có điểm chung ở chỗ, người ND chỉ cần
sống tốt với bà con làng xóm để họ luôn yêu quý mình là đủ rồi, địa vị xã hội sẽ không
ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
3.2.1.2. Định hướng giá trị chung của người kinh doanh
Ở NKD, những giá trị quan trọng tiêu biểu là: “sức khoẻ” (88.9%), “gia đình”
(83.3%), ‘niềm tin” (72.2%), “việc làm” (69.4%).
“Sức khoẻ”: sức khoẻ con người là quan trọng nhất vì khi không có sức khoẻ con
người sẽ không làm được việc gì hết, không có sức khoẻ thì những giá trị trên cũng
chẳng còn quan trọng. “Gia đình” là giá trị rất quan trọng, là nơi chia sẻ niềm vui nỗi
buồn, gia đình là một phần của xã hội, là tổ ấm chứa đựng tình thương yêu không có gì
có thể thay thế, là nơi luôn rộng mở đón ta trở về, nâng đỡ ta ngay cả khi ta vấp ngã.
Đó là những ý kiến chung của những người được khảo sát. Tiếp theo, “niềm tin” là sức
mạnh giúp con người có động lực phấn đấu, là niềm lạc quan sống, lạc quan yêu đời
của rất nhiều người được phỏng vấn. Ngoài ra, “việc làm” ổn định giúp họ có thể toàn
tâm toàn ý sống ý nghĩa, và có thể chăm sóc cho những người mình yêu thương, có

kinh tế đủ để làm những gì mình thích, một người không có việc làm sẽ cảm thấy mình
vô dụng, phụ thuộc hay là chật vật về kinh tế.
Cũng nhận được nhiều sự quan tâm là các giá trị được nhiều người cho là “không
quan trọng”. Đa số những người được phỏng vấn đều cho rằng những giá trị “cuộc
sống giàu sang”, “địa vị xã hội”, “cái đẹp” chỉ là vẻ bề ngoài, quan trọng hơn là cái
chân thật từ cuộc sống và bản chất của con người, anh Trần Vĩ Lâm nhân viên bán
200


Năm học 2012 - 2013

hàng cho rằng “địa vị xã hội” thì không quan trọng vì người xưa thường nói: “làm lớn
chết lớn, an phận đủ sống, trời cho thì hưởng”, nếu có cái đẹp, có giàu sang và địa vị
thì càng tốt nhưng không có những thứ đó thì con người ta vẫn sống và yêu đời. Những
giá trị về vật chất thường dễ mất đi, khó bền vững.
3.2.1.3. Định hướng giá trị chung của sinh viên
Nổi bật trong tất cả các giá trị được SV lựa chọn là “gia đình” (92.3%) chiếm tỉ lệ
cao nhất, tiếp theo là “sức khoẻ” (87.3%), “niềm tin” và “sống có mục đích” cùng
chiếm 70.5%. Tất cả những bạn SV trong 3 trường đại học (Đại học Sư phạm TPHCM,
Đại học Bách khoa TPHCM, Đại học Công nghiệp Thực phẩm TPHCM), đều có sự
tương đồng trong việc lựa chọn những giá trị rất quan trọng, những giá trị trên chính là
điều kiện tiên quyết, là giá trị tiền đề hàng đầu cho những giá trị khác phát triển. Không
có những giá trị trên thì những giá trị sau sẽ không còn ý nghĩa.
Những giá trị không được đề cao là “cái đẹp” (16.7%), “cuộc sống giàu sang”
(15.4%), “địa vị xã hội” (14.1%), rất nhiều người cho rằng những giá trị trên không
quan trọng vì chúng chỉ là vẻ bề ngoài, mang tính hình thức, đẹp, giàu sang, có địa vị
chưa chắc làm cho người ta thấy hạnh phúc, những giá trị đó không ổn định và dễ mất
đi.
Dựa vào hoàn cảnh thực tế thì nhiều SV hiện nay không coi trọng giá trị “tình
yêu”, họ nghĩ là mình không có thời gian nhiều dành cho tình yêu, việc học tập và

những hoạt động khác đã chiếm gần hết số thời gian họ có trong ngày; hơn nữa, một số
SV còn nói rằng họ không hề tin tưởng vào tình yêu trong lúc xã hội đầy những tệ nạn,
những cám dỗ, tình yêu có thể bị lừa đảo, bị lợi dụng, tình yêu thiên về vật chất, một số
lại có suy nghĩ khi nào có công việc và thu nhập ổn định họ mới nghĩ tới tình yêu.
3.2.1.4. Định hướng giá trị chung của học sinh trung học phổ thông
Với tỉ lệ phần trăm lựa chọn rất cao (trên 80%), giá trị “sức khoẻ” (94.4%), “học
vấn” (91.7%), “gia đình” (80.6%) đóng một vài trò quan trọng đối với HS THPT hiện
nay. Ngoài việc sức khỏe đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân,
còn một yếu tố có thể tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn định hướng giá trị này của
khách thể khảo sát, đó là phương tiện truyền thông đại chúng. Rõ ràng, hiện nay, vấn
đề sức khỏe con người được đề cao và tuyên truyền rộng rãi hơn bao giờ hết. Bên cạnh
đó, vì là học sinh cấp ba, dưới áp lực việc học ngày càng nhiều hơn, sức khỏe chính là
chủ đề mà cha mẹ, thầy cô thường xuyên nhắc nhở và chính các em cũng ý thức rất rõ
vấn đề này. Bên cạnh đó, là HS THPT, thời điểm quyết định việc thi tốt nghiệp và định
hướng nghề nghiệp thông qua việc chọn thi trường đại học, giá trị “học vấn” trở nên
thiết yếu đối với các em hơn bao giờ hết.
Có thể nói rằng, phân tích yếu tố “gia đình” mới thực sự mang lại nhiều thú vị
trong việc định hướng giá trị của HS THPT. Gắn bó, sống trong sự yêu thương của cha
mẹ, anh chị em trong những năm tháng thơ ấu là những dấu ấn mạnh mẽ, khó phai
trong tâm hồn mỗi HS đang chập chững bước vào tuổi trưởng thành này. Các em bắt

201


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

đầu thấu hiểu nhiều hơn những hy sinh của cha mẹ, những tình cảm thiêng liêng có
được từ gia đình và biết trân trọng điều đó. Thiết nghĩ, đây thực sự là một tín hiệu đáng
mừng và phần nào phản ánh những tác động hiệu quả từ gia đình, nhà trường và xã hội
nhằm hình thành và phát triển những tình cảm cấp cao của con người, qua đó sẽ là

những định hướng giá trị cao quý đối với những chủ nhân tương lai của đất nước.
Cùng với các giá trị được lựa chọn là “rất quan trọng”, cũng nổi bật những giá trị
mà một phần không ít (25% trở lên) đối tượng khảo sát chọn lựa là “không quan
trọng”, có thể kể ra như sau: “cuộc sống giàu sang” và “địa vị xã hội” 63.9%, “cái đẹp”
50%, “tình yêu” 33.3%, “tự lập” 25%.
Rõ ràng những suy nghĩ của các em là có thể lí giải trên nhiều cơ sở; tuy nhiên,
đây cũng là vấn đề đau đáu của nhiều nhà nghiên cứu giáo dục. Bởi lẽ, mặc dù đây
chưa phải là lứa tuổi chín muồi của tình yêu nhưng nếu bị ảnh hưởng bởi truyền thông
và thực tiễn mà học sinh chưa có nhận thức đúng đắn và thái độ phù hợp về giá trị này
thì thực sự là điều đáng lo lắng. Cùng với điều đó, ý thức tự lập cũng cần được quan
tâm nhiều hơn, cụ thể là trong học tập, trong sinh hoạt thường nhật để phát huy tính
tích cực, năng động, độc lập của học sinh theo xu hướng phát triển mới. Các xu hướng
khác như “cuộc sống giàu sang”, “địa vị xã hội”, “cái đẹp” một mặt nói ưu điểm không
chạy theo chủ nghĩa thực dụng dẫn đến suy thoái đạo đức, mặt khác cũng cho thấy tư
duy chưa đa chiều, còn phiến diện trong cách nhìn nhận của một bộ phận thanh niên
ngày nay.
3.2.1.5. Định hướng giá trị chung của công nhân viên chức
Nổi bật trong tất cả các giá trị được lựa chọn rất quan trọng là “sức khoẻ”
(92.5%), “việc làm” (88.1%), “hoà bình”, “gia đình” cùng chiếm 82.1%. Chúng tôi tiến
hành phân tích nguyên nhân để lí giải cho sự lựa chọn này.
Tương đối đồng thuận với những nhóm khách thể khảo sát khác, CNVC cũng cho
rằng sức khỏe là giá trị được họ định hướng hàng đầu và chiếm tỉ lệ rất cao. Chính sức
khỏe là giá trị nền tảng để có được những giá trị khác. Xếp sau đó là giá trị “việc làm”
với tỉ lệ phần trăm chọn rất quan trọng là 88.1%. Là những người đã trưởng thành, việc
làm có vai trò to lớn trong cuộc sống của CNVC. Nhiều đối tượng khảo sát cho rằng,
việc làm vừa là nguồn vật chất nuôi sống họ vừa là niềm vui trong cuộc sống. Trong
khi giá trị “gia đình” được đề cao với lí do là điểm tựa, là nơi bình an cho mỗi ngươi thì
giá trị “hòa bình” được phần lớn đối tượng khảo sát cho là rất quan trọng bởi hai
nguyên nhân chính. Thứ nhất, nhiều CNVC được khảo sát sinh ra và lớn lên trong thời
kỳ chiến tranh cho nên họ rất trân trọng cuộc sống hòa bình, độc lập. Thứ hai, cuộc

khảo sát diễn ra trong bối cảnh có sự biến động về vấn đề biển đảo của đất nước, do đó
CNVC – một thành phần nhạy cảm với các vấn đề chính trị đặt mối quan tâm về giá trị
“hòa bình” lên thứ hạng cao.
Xét về các giá trị được lựa chọn là không quan trọng đứng ở thứ hạng cao,có sự
tương đồng trong đánh giá của nhóm đối tượng khảo sát này với các nhóm đối tượng
khảo sát khác.
202


Năm học 2012 - 2013

3.2.2. Định hướng giá trị chung của các nhóm khách thể qua 17 năm nhìn lại
3.2.2.1. So sánh định hướng giá trị chung của con người Việt Nam giữa năm
1995 và 2012
Bảng 1. Bảng so sánh thứ bậc định hướng giá trị chung giữa các nhóm khách thể
Bậc
Năm 1995
Năm 2012
I(91-100%)
Hòa bình
Gia đình
II(81-90%)
Sức khỏe
Tự do
Việc làm
III(71-80%)
Sức khỏe
Tự do
Học vấn
Niềm tin

Việc làm
Trách nhiệm nghề nghiệp
IV(61-70%)
Công lí
Hòa bình
Gia đình
Giữ gìn môi trường
An ninh
Học vấn
Niềm tin
An ninh
V(51-60%)
Nghề nghiệp
Sống có mục đích
Sống có mục đích
Tình nghĩa
Tình nghĩa
Tự trọng
Công lí
Chân lí
Tự trọng
VI(41-50%)
Tự lập
Tự lập
Tình yêu
Sáng tạo
Chân lí
VII(31-40%)
Sáng tạo
Hợp tác

VIII(21-30%)
Tình yêu
Cái đẹp
Cái đẹp
Giàu sang
Cuộc sống giàu sang
IX(11-20%)
Địa vị xã hội
Địa vị xã hội
X(1-10%)
Dựa vào bảng 1, có thể nhận thấy kết quả chung trong việc định hướng giá trị
giữa năm 1995 và 2012 có sự ổn định và chuyển biến ở một số giá trị như sau:
- Các giá trị tương đối ổn định: “tự do” (bậc III); “an ninh”, “sống có mục đích”
(bậc V); “tự trọng”, “công lí” và “tự lập” (bậc VI); “cái đẹp”, cuộc sống giàu sang”,
“địa vị xã hội” (bậc IX). Sự giữ vững các định hướng giá trị trên của con người Việt
Nam qua 17 năm phản ánh một khía cạnh tích cực. Những giá trị cơ bản, giá trị tinh
thần vẫn ở thứ hạng trung bình trở lên và các giá trị về vật chất, về hình thức vẫn ở thứ
hạng thấp cho thấy dù xã hội có thay đổi mạnh mẽ thì con người Việt Nam luôn hướng
203


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

đến những nét đẹp cao quý trong nhân cách hơn là “lớp vỏ” hay những thứ thực dụng
bề ngoài. Thế nhưng, nói đi thì cũng phải nhìn lại, rõ ràng cách nhìn nhận về “cái đẹp”,
“cuộc sống giàu sang” và “địa vị xã hội” vẫn chưa được nhìn nhận một cách thực sự
đúng đắn và khai thác theo chiều hướng tích cực. Điều này cũng gián tiếp nói lên
khuynh hướng thẫm mĩ và cầu tiến của con người trong thời đại mới với xu thế toàn
cầu hóa vẫn còn khá chậm.
- Các giá trị tăng bậc: giá trị “gia đình” tăng từ bậc V lên bậc II, “sức khỏe” từ

bậc III lên bậc II, “việc làm” từ bậc IV lên bậc III, “niềm tin” và “trách nhiệm nghề
nghiệp” từ bậc V lên bậc IV. Nổi bật trong số trên là giá trị “gia đình” vượt 3 bậc, điều
này cho thấy trong thời đại càng phát triển, các vấn đề xã hội càng phức tạp, giá trị gia
đình không hề mất đi mà ngày càng quan trọng hơn đối với mỗi cá nhân. Xuất phát từ
yêu cầu khắt khe của nền kinh tế thị trường và hội nhập, “sức khỏe”, “việc làm”, “niềm
tin”, “trách nhiệm” cũng ngày càng được đề cao và có ý nghĩa.
- Trong khi các giá trị trên có sự giữ vững hoặc tăng bậc thì các giá trị như “hòa
bình”, “học vấn”, “chân lí”, “sáng tạo” và “tình yêu” lại giảm bậc. Chính vì sự tăng bậc
của các giá trị chịu ảnh hưởng từ yếu tố hội nhập của nền kinh tế thị trường nên giá trị
“hòa bình” tạm thời ít được quan tâm hơn. Bên cạnh đó, đối với thời đại công nghệ
thông tin phát triển mạnh như ngày nay, việc tìm kiếm một thông tin nào đó là vô cùng
dễ dàng, con người không còn cho “học vấn” đại diện cho tri thức là tất cả như xưa
nữa. “Sáng tạo” là một yếu cố vô cùng cần thiết trong cuộc sống hiện nay, vậy mà giá
trị này lại tụt hạng. Thiết nghĩ đây là thực trạng chập phát triển và cũng là vấn đề mà
các nhà giáo dục cần quan tâm. Ngoài ra, sự giảm bậc các giá trị “chân lí”, và “tình
yêu” có thể xem là hệ quả của sự phát triển xã hội ngày nay.
- Ngoài sự biến động các giá trị qua 17 năm, các đối tượng khảo sát trong cuộc
khảo sát còn đề cập hai giá trị mới. Đó là “hợp tác” (bậc VIII) và “giữ gìn môi trường”
(bậc V). Sự xuất hiện của giá trị “hợp tác” và “giữ gìn môi trường” cho thấy đây chính
là yêu cầu mới của xã hội mà con người Việt Nam rất quan tâm.
3.2.2.2. Sự khác biệt về định hướng giá trị chung của học sinh trung học phổ
thông
Ngoài sự biến động của các giá trị tương ứng với kết quả chung của con người
Việt Nam, kết quả khảo sát ở HS THPT có những nét khác biệt rất đặc trưng cho đặc
điểm của nhóm khách thể khảo sát của mình, thể hiện ở việc tăng thứ hạng ở các giá trị
như “sống có “mục đích”, “sáng tạo”, “địa vị xã hội”, “cuộc sống giàu sang” và “cái
đẹp”. Điều này phản ánh tính chất quan trọng của những giá trị này trong cuộc sống
của HS THPT, dự báo sức sống, tích cực, năng động, đột phá của giới trẻ ngày nay.
3.2.2.3. Sự khác biệt về định hướng giá trị chung của sinh viên
Ngoài sự tăng hạng của các giá trị như kết quả chung, ở SV còn có sự tăng hạng ở

các giá trị khác như: “sống có mục đích”, “tự do”, “tình nghĩa”, “an ninh”, “cuộc sống
giàu sang”. Trong các giá trị đó, sự tương ứng về lựa chọn “sống có mục đích” và

204


Năm học 2012 - 2013

“cuộc sống giàu sang” cao cũng cho sự lí giải tương tự như HS THPT. Bên cạnh đó,
giá trị “tự do”, “tình nghĩa”, “an ninh” cũng phản ánh sự nhìn nhận đa chiều và nhạy
cảm trong định hướng giá trị ở SV.
Cùng với điều này, một giá trị có sự tụt bậc so với kết quả chung năm 2012 là
“cái đẹp”. Đáng lẽ ra đây phải là giá trị được SV ngày càng đánh giá cao.
Các giá trị không có sự thay đổi thứ bậc khi so sánh giữa kết quả năm 2012 và
năm 1995 là “trách nhiệm”, “tự trọng”, “tự lập”, “công lí”, “địa vị xã hội”.
Với hai giá trị mới là “giữ gìn môi trường” và “hợp tác” cũng có sự tương đồng
trong lựa chọn giữa SV với kết quả chung. Tuy nhiên, phần trăm SV cho rằng “giữ gìn
môi trường” là rất quan trọng thấp hơn so với kết quả chung. Đây là kết quả đáng buồn,
thể hiện ý thức vì môi trường, cộng đồng của SV còn chưa cao.
3.2.2.4. Sự khác biệt về định hướng giá trị chung của công nhân viên chức
Trong số các giá trị tăng bậc từ năm 1995 đến năm 2012, có hai giá trị ngoài kết
quả chung, đó là “tự trọng” và “tình nghĩa”; bên cạnh đó cũng có nhiều giá trị giảm bậc
hơn kết quả chung, đó là “tự do”, “tự lập”, “cái đẹp” và “cuộc sống giàu sang”. Đồng
thời, CNVC cũng dần mất lòng tin vào “cuộc sống giàu sang” và “cái đẹp”, họ cho
rằng đó là thế giới đầy cám dỗ, không có thực. Các giá trị không có sự thay đổi thứ bậc
khi so sánh giữa kết quả năm 2012 và năm 1995 là “hòa bình”, “an ninh”, “công lí”,
“địa vị xã hội” và “sống có mục đích”.
Đối lập với kết quả từ SV, CNVC đề cao giá trị “giữ gìn môi trường” hơn kết quả
chung, nhiều giáo viên cho rằng, chính họ phải là người đề cao giá trị này để là tấm
gương cho học sinh của mình noi theo. Giá trị “hợp tác” cũng cao hơn một bậc so với

kết quả chung cho thấy CNVC là thành phần xã hội rất chú ý đến những giá trị mới.
3.2.2.5. Sự khác biệt về định hướng giá trị chung của người kinh doanh
“Sống có mục đích”, “tự trọng”, “tình nghĩa”, “địa vị xã hội” và “cái đẹp” là
những giá trị có thứ bậc tăng ngoài hệ thống giá trị tăng ở kết quả chung. Với NKD,
“sống có mục đích”, “địa vị xã hội”, “tự trọng” và “cái đẹp” được đề cao là rõ ràng và
đặc trưng; bên cạnh đó, họ còn xem trọng giá trị “tự trọng” và “tình nghĩa” là có
nguyên nhân gây bất ngờ. NKD xem lợi nhuận là trên hết, nhưng sống trong đất nước
Việt Nam, chịu ảnh hưởng của những truyền thống văn hóa tốt đẹp, NKD ở nước ta
vẫn rất quan tâm đến “tình nghĩa”.
Mặc dù “địa vị xã hội” tăng bậc nhưng “an ninh”, “công lí”, “cuộc sống giàu
sang” lại là những giá trị hạ bậc ngoài các giá trị tương đồng với kết quả chung. Làm
kinh doanh mà không mong chờ cuộc sống giàu sang thì quả là một dự báo cho quan
niệm mới của NKD hiện đại. Đối với hai giá trị mới, trong khi “hợp tác” tương đồng
thì “giữ gìn môi trường” lại nằm ở bậc thấp hơn so với kết quả chung.
3.2.2.6. Sự khác biệt về định hướng giá trị chung của người nông dân

205


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

Trong số các giá trị tăng bậc từ năm 1995 đến năm 2012, có hai giá trị ngoài kết
quả chung, đó là “an ninh”, “tự do”, “tình nghĩa” và “sáng tạo”. Giá trị “an ninh”, “tự
do”, “tình nghĩa” tăng hạng phản ánh rõ nét tính dặc trưng trong lao động nghề nghiệp
và cuộc sống xã hội của người ND. Tuy nhiên, điều làm chúng tôi quan tâm là giá trị
“sáng tạo” tăng bậc. Trong khi nhiều thành phần khác chưa coi trọng giá trị này thì
người ND lại đặc biệt đề cao. Phỏng vấn sâu nhiều trường hợp, chúng tôi thấy rằng,
người ND luôn nung nấu trong lòng những giải pháp mới, những ứng dụng mới nhằm
nâng cao năng suất và tạo ra những sản phẩm chất lượng hơn. Thực tế cũng đã chứng
minh điều này thông qua những sản phẩm công nghệ đột phá mà những người ND chân

lấm tay bùn đã phát kiến ra.
Mặc dù đề cao giá trị “sáng tạo” là một điều đáng mừng nhưng hàng loạt những
giá trị quan trọng đang xuống bậc bởi sự lựa chọn của người ND như: “công lí”, “niềm
tin”, “sống có mục đích”, “cuộc sống giàu sang”, “tự trọng”, “cái đẹp”, “địa vị xã hội”.
Duy nhất một giá trị không có sự thay đổi thứ bậc khi so sánh giữa kết quả năm 2012
và năm 1995 là “tự lập”.
Hai giá trị mới được người ND chọn ở bậc cao hơn so với kết quả chung, cụ thể
là “giữ gìn môi trường” bậc III và “hợp tác” bậc VII.
Như vậy, người ND thực sự là một thành phần có sự chuyển biến về định hướng
rõ nét nhất và đặc trưng nhất trong tất cả các nhóm đối tượng khảo sát. Điều này vừa
mang lại mặt tích cực cao vừa gợi lên nhiều vấn đề mà xã hội cần quan tâm.
4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận
4.1.1. Qua kết quả khảo sát ở trên chúng ta thấy rằng những khách thể nghiên cứu
có sự tương đồng trong việc lựa chọn những giá trị rất quan trọng, được đứng ở những
vị trí cao bao gồm: “sức khỏe”, “gia đình”, “việc làm”, “tự do”, “sống có mục đích”.
Những giá trị trên chính là điều kiện tiên quyết, là giá trị tiền đề hàng đầu cho những
giá trị khác phát triển.
Xét về các giá trị được lựa chọn là không quan trọng có sự tương đồng trong đánh
giá của nhóm khách thể này với các nhóm khách thể khác đó là: “cuộc sống giàu sang”,
“cái đẹp”, “địa vị xã hội”. Việc những giá trị này xếp ở những vị trí cuối cùng trong
bảng giá trị ta thấy đáng tiếc. Trong điều kiện đổi mới của đất nước với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh thì giá trị “cuộc sống giàu sang”, “địa vị
xã hội” lại chưa được coi là giá trị đặc trưng. Giá trị thẩm mĩ của con người cũng
không được đề cao trong khi con người luôn có xu hướng hoàn thiện mình và hướng
tới “cái đẹp”.
4.1.2. Dựa vào kết quả khảo sát ta cũng thấy việc định hướng giá trị giữa năm
1995 và 2012 có sự ổn định và chuyển biến ở một số giá trị, do sự tác động của nền
kinh tế thị trường, xã hội công nghiệp, lối sống công nghiệp, tính hiện đại bên ngoài
thâm nhập vào, các mối quan hệ trong xã hội… đã tác động tới việc định hướng những

206


Năm học 2012 - 2013

giá trị chung của người Việt Nam. Qua 17 năm đổi mới, có sự giữ vững các giá trị,
những giá trị cơ bản, giá trị tinh thần vẫn ở thứ hạng trung bình trở lên, những giá trị
vật chất mang tính hình thức vẫn ở thứ hạng thấp cho thấy rằng, dù xã hội Việt Nam
thay đổi mạnh mẽ thì con người Việt Nam vẫn luôn hướng đến những nét đẹp cao quý
trong nhân cách.
4.2. Kiến nghị
Nhà trường, gia đình và xã hội cần phối hợp và có các biện pháp giáo dục con
người giữ gìn các giá trị có tình ổn định trong thời gian gần hai mươi năm như: “hòa
bình”, “sức khỏe”, “gia đình”, “việc làm”, “tự do”, “sống có mục đích”, “niềm tin”,
“tình nghĩa”, “công lí”. Bên cạnh đó, cũng cần chú trọng giáo dục con người những giá
trị mới như “giữ gìn môi trường”, “hợp tác” và những giá trị mà kết quả nghiên cứu
cho thấy được xếp vào loại “không đặc trưng” như “học vấn”, “an ninh”, “tự trọng”,
“tự lập”, “sáng tạo”, “cuộc sống giàu sang”, “cái đẹp” và “địa vị xã hội” vì những gí trị
này thuộc chuẩn giá trị của xã hội ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia.
2. Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên (2011), Định hướng giá trị con người Việt Nam
thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị Quốc gia.
3. Joseph. H. Fichter (1974), Xã hội học nhập môn, bản dịch của Trần Văn Đĩnh, Nxb
Sài Gòn.
4. Tsunesabura Makiguchi (1994), Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo, Nxb Trẻ.
5. Lê Đức Phúc (1992), “Giá trị và định hướng giá trị”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục
số 12.
6. Cao Xuân Thạo (2008), Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên giai đoạn hiện

nay, khoá luận tốt nghiệp Khoa Tâm lí – Giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội.
7. Nguyễn Quang Uẩn (1995), Giá trị - định hướng nhân cách và giáo dục giá trị, đề
tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 07.

207



×