Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu khoảng cách kỳ vọng kiểm toán trách nhiệm kiểm toán viên trong kiểm toán BCTC ở Việt Nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.35 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

N NGNGUYỄN ỌC KNGUNGUYEHÁNH DUNG

NGUYỄN NGỌC KHÁNH DUNG

NGHIÊN CỨU
KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN:
TRÁCH NHIỆM KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


1
Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học kinh tế
TP.Hồ Chí MinhTrường Đại Học Kinh Tế TP.HCM
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Bùi Văn Dương;
TS. Phạm Xuân ThànhS.TS Bùi Văn Dương TS Xuân Thành
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án cấp
trường tại Trường Đại học kinh tế TP.Hồ Chí MinhTrường
Đại


Vào hồi ………giờ……..ngày…….. tháng …….. năm
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện :
(ghi tên các thư viện nộp luận án)


1
PHẦN GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài
Khoảng cách kỳ vọng kiểm toán (AEG) xuất hiện và tồn tại
song hành cùng với quá trình hình thành và phát triển của nghề nghiệp
kiểm toán, là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong lĩnh vực
nghiên cứu về kiểm toán từ đầu thập niên 70 của Thế kỷ trước. AEG
có tác động bất lợi tới nghề nghiệp kiểm toán (Sikka & cộng sự 1998;
Idris & Ojemen 2010) nhất là trong bối cảnh uy tín và danh tiếng của
nghề nghiệp kiểm toán bị sụt giảm đáng kể do kiểm toán viên (KTV)
không phát hiện được gian lận tại các khách hàng kiểm toán trước khi
nó sụp đổ, phá sản hoặc bị điều tra. Hậu quả là tính tin cậy, uy tín và
danh tiếng nghề nghiệp kiểm toán sẽ bị xói mòn, vai trò kiểm toán bị
sụt giảm, thậm chí trở nên vô dụng (Porter & cộng sự 2005, 119). Do
đó, AEG phải được loại bỏ hoặc cần phải giảm thiểu đáng kể để tránh
các vụ kiện tụng, cáo buộc chống lại KTV và quan trọng hơn là để
khôi phục lại sự tin tưởng của công chúng. Vì vậy, đề tài Nghiên cứu
khoảng cách kỳ vọng kiểm toán: trách nhiệm kiểm toán viên trong
kiểm toán BCTC ở Việt Nam là cần thiết nhằm xác định, đo lường
các thành phần cấu thành nên AEG và khám phá các trách nhiệm kiểm
toán (TNKT) cấu thành nên mỗi thành phần của AEG. Qua đó, giúp
công chúng có nhận thức hợp lý hơn đối với nghề nghiệp kiểm toán.
Ngược lại, tổ chức lập quy, hội nghề nghiệp có thể xác định được cụ
thể những TNKT nào cần bổ sung, sửa đổi nhằm tăng cường hơn nữa
TNKT đối với KTV. Bên cạnh đó, KTV cũng hiểu được chất lượng

công việc của mình dưới góc nhìn xã hội.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Khám phá các trách nhiệm kiểm toán cấu thành nên AEG ở
Việt Nam;
- Xác định các thành phần và đo lường AEG ở Việt Nam;


2
- Cung cấp bằng chứng thực nghiệm xác định quan hệ giữa
yếu tố nghề nghiệp với từng thành phần cấu thành nên AEG.
3. Câu hỏi nghiên cứu.
- Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ nhất, 3 câu hỏi nghiên cứu
đề xuất gồm:
Q11: Người sử dụng BCKT (công chúng) kỳ vọng những
TNKT nào KTV nên thực hiện và kỳ vọng bất hợp lý đối với những
TNKT nào
Q12: Người sử dụng BCKT nhận thức (hiểu biết) về các
TNKT được quy định hiện hành như thế nào?.
Q13: Người sử dụng BCKT đánh giá kết quả thực hiện các
TNKT hiện hành của KTV như thế nào
- Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ hai, câu hỏi nghiên cứu là:
Q2: Các thành phần cấu thành nên AEG ở VN là gì, mức độ
khoảng cách của chúng là bao nhiêu?;
- Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ ba, câu hỏi nghiên cứu là:
Q3: Liệu nghề nghiệp của mỗi nhóm đối tượng khảo sát có
ảnh hưởng đến việc xác định các trách nhiệm kiểm toán cấu thành nên
AEG trong kiểm toán BCTC ở Việt Nam không và mức độ ảnh hưởng
của chúng nếu có?.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là trách nhiệm kiểm toán

viên trong kiểm toán BCTC ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của Luận án: khoảng cách kỳ vọng kiểm
toán liên quan đến trách nhiệm KTV trong kiểm toán BCTC.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp
nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp giữa định tính và định lượng.


3
6. Đóng góp mới của luận án:
- Về mặt lý thuyết:
+ Luận án đã xác định được các trách nhiệm kiểm toán cấu
thành nên từng bộ phận của AEG gồm: khoảng cách hợp lý, khoảng
cách hoàn thiện chuẩn mực, khoảng cách tăng cường kết quả ở Việt
Nam. Không tồn tại TNKT nào cấu thành nên khoảng cách dịch vụ
như trong định nghĩa của Turner & cộng sự (2010).
+ Kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm
chứng tỏ tồn tại AEG đáng kể ở Việt Nam. Mức độ khoảng cách của
mỗi thành phần khoảng cách hợp lý, khoảng cách hoàn thiện chuẩn
mực, khoảng cách tăng cường kết quả đóng góp vào AEG tương ứng
là 31%, 49%, 20%. Không tồn tại khoảng cách dịch vụ theo định
nghĩa của Turner & cộng sự (2010);
+ Nghiên cứu đã xác định được mức độ ảnh hưởng của nghề
nghiệp đến các TNKT cấu thành nên các thành phần AEG; cung cấp
bằng chứng thực nghiệm chứng tỏ AEG luôn tồn tại giữa KTV và
người sử dụng BCKT xuất phát từ những khác biệt về vị trí nghề
nghiệp của từng đối tượng tham gia khảo sát (luận cứ giải thích dựa
trên lý thuyết vai trò), vai trò người khảo sát, người thu nhận thông tin
(luận cứ giải thích dựa trên lý thuyết hồi ứng người đọc), khác biệt về
lợi ích (luận cứ giải thích dựa trên lý thuyết lựa chọn hợp lý), bất cân

xứng thông tin và mâu thuẫn lợi ích (luận cứ giải thích dựa trên lý
thuyết ủy nhiệm).
+ Nghiên cứu cũng bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm
củng cố lý thuyết về AEG là “không có bằng chứng cho thấy các yếu
tố kinh tế, chính trị văn hóa có ảnh hưởng trực tiếp đến AEG”.
- Về mặt ứng dụng:


4
+ Nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng phát triển nghề nghiệp
kiểm toán ở Việt Nam hiện nay, xác định và phân loại các trách nhiệm
kiểm toán hiện hành theo quy định.
+ Xác định được những nguyên nhân cụ thể tương ứng với
từng TNKT và có các giải pháp để điều chỉnh, bổ sung hoặc sửa đổi
kịp thời các TNKT trên nhằm thu hẹp AEG ở Việt Nam. Việc đo
lường được mức độ đóng góp của từng TNKT vào AEG cung cấp
được những chỉ báo cho các cơ quan liên quan xây dựng, thực thi các
chính sách nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp kiểm toán độc lập ở
Việt Nam.
+ Nghiên cứu cũng giới thiệu được công cụ, kỹ thuật khảo sát
để xác định các TNKT cấu thành nên từng thành phần của AEG. Đồng
thời đo lường được mức độ đóng góp cụ thể của từng TNKT trong
mỗi thành phần và mức độ khoảng cách của mỗi thành phần trong
AEG. Nếu tiếp tục sử dụng để khảo sát, kết quả trong các nghiên cứu
tiếp theo có ý nghĩa rất lớn khi có thể vừa đo lường và vừa đánh giá
tác động từ những giải pháp thu hẹp AEG cũng như nâng cao chất
lượng kiểm toán trong một khoảng thời gian nhất định.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần giới thiệu, luận án gồm năm chương:
Chương 1- Tổng quan các nghiên cứu trước liên quan đến

khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.
Chương 2- Cơ sở lý thuyết khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.
Chương 3- Phương pháp nghiên cứu
Chương 4- Phân tích và thảo luận kết quả nghiên cứu
Chương 5- Kết luận và một số hàm ý chính sách thu hẹp
khoảng cách kỳ vọng kiểm toán ở Việt Nam.


5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ
KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN
1.1. Các nghiên cứu liên quan đến AEG
1.1.1. Các nghiên cứu nhằm mục đích xây dựng định nghĩa
về AEG.
Các nghiên cứu này tập trung vào việc tìm hiểu, giải thích và
xây dựng khái niệm AEG dựa trên các lý thuyết nền thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội, điển hình là các nghiên cứu của (Liggio1974; Cohen
1978; AICPA 1993; Guy & Sullivan 1988; Humphrey & cộng sự
1993; Monroe & Woodliff 1993; Porter & cộng sự 1993, 2004, 2012).
Tuy nhiên, không có nhiều đồng thuận về định nghĩa AEG (Koh &
Woo 1998; Ojo 2006). Bên cạnh đó, một số nghiên cứu đề xuất khái
niệm dựa trên một số lý thuyết nền thuộc các lĩnh vực khoa học khác,
chẳng hạn, Turner & cộng sự (2010) thiết lập mô hình AEG dựa trên
mô hình cung cấp dịch vụ, trong khi đó, Al-Alimi & Katdare (2013),
tiếp cận mô hình nhân quả để xây dựng định nghĩa về AEG. Mặc dù
vậy, các học giả, nhà nghiên cứu hay các tổ chức nghề nghiệp đều
thống nhất ba điểm chung. Một là, AEG xuất hiện, tồn tại cùng với
nghề nghiệp kiểm toán. Hai là, AEG là sự khác biệt giữa kỳ vọng của
công chúng đối với nghề nghiệp kiểm toán và nhận thức (quan điểm
đánh giá) của công chúng về kết quả công việc mà kiểm toán việc

thực hiện. Ba là, khoảng cách này tồn tại liên quan đến vai trò và trách
nhiệm của KTV, mục tiêu, chức năng kiểm toán, tính độc lập của
KTV, mức độ tin cậy và hữu ích của báo cáo kiểm toán (BCKT) và
thông điệp truyền tải trong BCKT. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số quan
điểm khác biệt liên quan đến định nghĩa về AEG xoay quanh ba câu
hỏi chính sau: (i) AEG liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên
được xác định dựa trên kỳ vọng và quan điểm của nhóm đối tượng


6
nào?, (ii) AEG được cấu thành từ các thành phần nào?, (iii) AEG được
đo lường như thế nào?.
1.1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm khẳng định tồn tại
AEG.
Các nghiên cứu thực nghiệm tiến hành khảo sát sự tồn tại
AEG trong các bối cảnh khác nhau. Chúng bao gồm Lee (1970);
Humphrey & cộng sự (1993); Porter & cộng sự (2004, 2012) ở UK;
Baron & cộng sự (1977); Lowe (1994); Epstein & Geiger (1994) và
McEnroe & Martens (2001) ở Hoa Kỳ; Beck (1973), Monroe &
Woodliff (1994); Gay & cộng sự (1997) và Schelluch & Gay (2006) ở
Úc; Porter (1993); Porter (2004, 2012) ở New Zealand; Dixon & cộng
sự (2006) ở Ai Cập; Haniffa & Hudaib (2007) ở A Rập; Sidani &
cộng sự (2007) ở Lebanon; Omid Pourheydari & Mina Abousaiedi
(2011) ở Iran; Onumah & cộng sự (2009) ở Tây Phi; Bogdanovičiūtė
(2011) ở Lithuania; Best & cộng sự. (2001) ở Singapore; Lin & Chen
(2004) ở Trung Quốc; Fadzly & Ahmed (2004) và Lee & cộng sự
(2007) ở Malaysia; Fulop (2015) ở Hungary. Tổng hợp các kết quả
nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm chỉ ra sự tồn tại
AEG liên quan đến các khía cạnh: (i) vai trò, chức năng và mục tiêu
kiểm toán, (ii) mức độ đảm bảo, tin cậy của nghề nghiệp kiểm toán và

mức độ hữu ích của BCKT, (iii) trách nhiệm kiểm toán của KTV.
1.1.3. Các nghiên cứu xác định các yếu tố đóng góp AEG.
Nghiên cứu tập trung xác định các yếu tố đóng góp nên AEG
qua các nghiên cứu thực nghiệm khẳng định sự tồn tại AEG như các
nghiên cứu của Davidson 1975; Shaked & Sutton 1982; Tricker 1982;
Guy & Sullivan 1988; Johnson 1988; Humphrey & cộng sự 1992;
Sikka & cộng sự 1992; Olson 1993; Gloeck & Jager 1993; Porter &
cộng sự 2004; 2012; Humphrey 1997; Henrickson 1998; Koo & Sim
1999; Byrnes & cộng sự 2002; Hourguebie 2004; Porter & Gowthorpe


7
2004; Leung & cộng sự 2004, 2007; Boyton & Johnson 2005; Lee &
cộng sự 2007; Lee & Azham 2008; Idris & Ojemen 2010; Olowookere
2010. Tổng kết trong nghiên cứu của Lee & Azham (2008) và cập
nhật các nghiên cứu hiện hành có thể xác định được sáu yếu tố đóng
góp hình thành AEG gồm: (i) bản chất phức tạp của chức năng kiểm
toán, (ii) mâu thuẫn vai trò kiểm toán, (iii) đánh giá chất lượng kiểm
toán dưới góc nhìn từ xã hội, (iv) chậm thích ứng so với kỳ vọng, (v)
quá trình tự điều chỉnh của nghề nghiệp kiểm toán, (vi) thiếu hiểu biết
hoặc kỳ vọng không hợp lý của công chúng.
1.1.4. Các nghiên cứu đo lường mức độ AEG.
Có rất nhiều các nghiên cứu AEG liên quan đến một hoặc tất
cả các khía cạnh: (i) nhiệm vụ/ trách nhiệm KTV, (ii) mục đích và hạn
chế của kiểm toán, (iii) mức độ đảm bảo của BCKT...v.v. Trong đó,
AEG đối với các trách nhiệm của KTV gồm: (i) chỉ ra ý kiến về tình
hình tài chính của doanh nghiệp, (ii) chỉ ra ý kiến về khả năng hoạt
động liên tục của doanh nghiệp, (iii) chỉ ra ý kiến về hệ thống kiểm
soát nội bộ, (iv) chỉ ra ý kiến về khả năng phát sinh gian lận, (iv) chỉ
ra ý kiến về khả năng vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không có nghiên

cứu nào chỉ ra cụ thể và chi tiết các trách nhiệm KTVcấu thành nên
AEG, cũng như chưa có nghiên cứu nào đo lường mức độ của AEG
liên quan đến trách nhiệm KTV ngoài trừ nghiên cứu của Porter
(1993, 2004, 2012).
1.2. Kết quả và hạn chế từ các nghiên cứu trước
1.2.1. Kết quả nghiên cứu về AEG.
Tổng kết các nghiên cứu liên quan đến AEG có thể đi đến một
số khẳng định sau: (i) hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đều cung
cấp bằng chứng cho thấy luôn tồn tại AEG liên quan đến các khía
cạnh kiểm toán như trách nhiệm KTV, mục tiêu, vai trò và chức năng


8
kiểm toán, mức độ đảm bảo và tin cậy của nghề nghiệp kiểm toán và
mức độ hữu ích của BCKT, tính độc lập của KTV; (ii) đối với thông
tin trình bày trên BCKT, hai vấn đề chính thường tồn tại khác biệt
trong nhận thức gồm mục đích và hạn chế vốn có của kiểm toán, các
khái niệm và thuật ngữ sử dụng; (iii) chưa có bằng chứng cho thấy các
yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội tác động trực tiếp tới AEG.
1.3.2. Hạn chế trong các nghiên cứu về AEG.
- Chưa hoàn chỉnh được một khung lý thuyết đầy đủ về AEG.
- Nhiều nghiên cứu vẫn áp dụng phương pháp tiếp cận từ các
nghiên cứu trong thập niên 1970 và 1980.
- Thứ ba, mặc dù một số ít nghiên cứu cung cấp bằng chứng
xác định nguyên nhân hình thành nên AEG, qua đó xác định các yếu
tố cấu thành nên AEG. Tuy nhiên, hầu như chưa có nghiên cứu nào
xem xét mối liên hệ của các yếu tố tác động như thế nào tới từng
thành phần của AEG
1.3. Khe hổng trong nghiên cứu về AEG
Chưa có nghiên cứu nào vừa xác định sự tồn tại, cấu trúc

AEG, đo lường mức độ của các thành phần AEG, vừa cung cấp bằng
chứng thực nghiệm khẳng định mức độ AEG không thể thu hẹp được
hoàn toàn liên quan đến một số TNKT cụ thể thông qua việc xác định
mối quan hệ giữa nhóm nghề nghiệp với các thành phần cấu thành nên
AEG. Đặc biệt ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào tiếp cận theo cả
hai hướng nghiên cứu này. Do đó, đề tài “Nghiên cứu khoảng cách kỳ
vọng kiểm toán: trách nhiệm KTV trong kiểm toán BCTC ở Việt
Nam” lựa chọn hướng tiếp cận mới nhằm mục đích đóng góp cả về
mặt lý luận và thực tiễn.
Kết luận chương 1


9
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT KHOẢNG CÁCH
KỲ VỌNG KIỂM TOÁN
2.1. Lý thuyết về AEG trong kiểm toán
2.1.1. Lược sử hình thành và quá trình tồn tại AEG
Hoạt động kiểm toán đã có lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền
với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của loài người. Hoạt động này
ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của các NĐT, chủ sở hữu vốn, chủ nợ,
nhà quản lý…được gọi chung là người sử dụng BCKT. Khi nhu cầu
của người sử dụng BCKT thay đổi, mục tiêu, chức năng kiểm toán và
trách nhiệm KTV cũng thay đổi tương ứng. Tuy nhiên, không phải lúc
nào người sử dụng BCKT cũng hài lòng về chất lượng dịch vụ kiểm
toán mang lại. Trái lại, KTV thường bằng lòng với những gì mình
thực hiện và cung cấp. Chính những khác biệt trong nhận thức và cách
đánh giá này tạo nên khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán.
2.1.2. Khái niệm AEG
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chung nhất về AEG nhưng
hầu hết giới nghiên cứu và nghề nghiệp cứu đã đạt được sự đồng

thuận cao khi xác định các thành phần cấu thành nên AEG thuộc về
vai trò và TNKT của KTV (Porter & cộng sự 1993, Fazdly & Ahmad
2004, Dixon & cộng sự. 2006…), nội dung và ý nghĩa thông điệp
truyền tải trong BCKT (Monroe & Woodliff 1994; Gay và cộng sự
1998) và tính độc lập của KTV (Lin & Chen 2004; Alleyne và cộng sự
2006). Trong đó, điển hình nhất là định nghĩa AEG của Porter (1993)
cho rằng, AEG là sự khác biệt giữa kỳ vọng của xã hội đối với trách
nhiệm của KTV và quan điểm của xã hội về kết quả thực hiện công
việc (nhiệm vụ) của KTV”.


10
2.1.3. Bản chất và cấu trúc của AEG
2.1.3.1. Mô hình cấu trúc AEG của MacDonald.
2.1.3.2. Mô hình cấu trúc AEG của Porter.
2.1.3.3. Mô hình cấu trúc AEG của Turner.
2.1.3.4. Mô hình cấu trúc AEG Al-Alimi và Katdare.
2.2. Khung lý thuyết giải thích tồn tại AEG và mô hình
khái niệm sử dụng trong nghiên cứu.
2.2.1. Lý thuyết vai trò
Áp dụng lý thuyết này nhằm giải thích sự tồn tại của nghề
nghiệp kiểm toán và sự xuất hiện của AEG: Kiểm toán là một nghề
nghiệp có vị thế nhất định trong cấu trúc xã hội. Vị thế này được gán
cho mỗi KTV khi thực hiện nhiệm vụ nhằm đáp ứng vai trò là thỏa
mãn một số yêu cầu nhất định từ phía công chúng, chẳng hạn: tăng
cường mức độ tin cậy, hữu ích của thông tin trình bày trên BCKT.
Trái lại, nếu KTV không hoàn thành vai trò được xã hội kỳ vọng dẫn
tới vị thế của họ trong cấu trúc xã hội sẽ sụt giảm, thậm chí có thể bị
đào thải. Theo Davidson (1975), vai trò của KTV phụ thuộc vào mối
tương quan về kỳ vọng hợp lý giữa những nhóm có lợi ích khác nhau

trong xã hội. Mặt khác, kỳ vọng hợp lý thường thay đổi theo thời gian
tùy thuộc vào nhu cầu xã hội. Do vậy, KTV thường được xếp đặt cùng
một lúc với nhiều vai trò và đáp ứng một cách hợp lý nhiều kỳ vọng
khác nhau giúp giải thích sự tồn tại của nghề nghiệp kiểm toán nhưng
cũng chính những khác biệt về nhu cầu và lợi ích giữa những đối
tượng sử dụng BCKT và khả năng đáp ứng của KTV đã cấu thành
AEG liên quan đến vai trò kiểm toán và trách nhiệm của KTV.
2.2.2. Lý thuyết ủy nhiệm.
Áp dụng vào trong luận án này, lý thuyết ủy nhiệm được sử
dụng để tìm hiểu mối quan hệ giữa hai bên (i) bên ủy nhiệm (cổ đông,
nhà đầu tư, người cho vay,...), (ii) bên thừa hành (nhà quản lý, KTV)


11
và giải thích tại sao, các bên lại có nhận thức, đánh giá và kỳ vọng
khác nhau liên quan đến TNKT của KTV. Trong đó, khái niệm chi phí
ủy nhiệm được sử dụng để biện minh cho những luận điểm bảo vệ
hoặc chống đối việc bổ sung thêm các TNKT cho KTV.
2.2.3. Lý thuyết hồi ứng của người đọc.
Lý thuyết hồi ứng của người đọc được sử dụng làm cơ sở cho
việc nghiên cứu sự khác biệt về nhận thức của các nhóm khác nhau về
vai trò, trách nhiệm của KTV cũng như mức độ tin cậy và hữu ích của
BCKT. Thứ nhất, BCKT sử dụng các thuật ngữ mơ hồ nên dễ dẫn đến
sự hiểu nhầm, bỏ sót hay bị lái theo cách hiểu của người viết báo cáo.
Thứ hai, bản thân người đọc thông qua hiểu biết của mình về những
trường hợp BCKT không đúng qua những vụ tai tiếng như Enron, sẽ
tự mình có cách giải thích riêng (Asare & Wright 2009). Như vậy,
mức độ hiểu biết cùng với những vụ tai tiếng có tác động đến ý kiến
đánh giá về kết quả công việc của các KTV đóng góp sự tồn tại AEG.
2.3.4. Lý thuyết niềm tin tín thác (Theory of Inspired

Confidence).
Lý thuyết này được sử dụng để giải thích cơ sở cho việc
nghiên cứu các quan điểm của các nhóm đối tượng có lợi ích liên quan
trong việc lựa chọn đâu là TNKT mà KTV có thể thực hiện một cách
hợp lý.
2.3. Mô hình khái niệm sử dụng trong nghiên cứu.
Nghiên cứu trong luận án này dựa trên mô hình khái niệm
AEG của Porter (1993) và mô hình khái niệm của Turner & cộng sự
(2010). Theo đó, khái niệm AEG trong nghiên cứu được chia thành
bốn thành phần chính: (i) khoảng cách hợp lý; (ii) khoảng cách hoàn
thiện chuẩn mực, (iii) khoảng cách tăng cường kết quả và (iv) khoảng
cách dịch vụ theo định nghĩa của Turner & Cộng sự (2010).
Kết luận chương 2


12
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này nhằm mục đích trình bày phương pháp nghiên
cứu, khung nghiên cứu phù hợp với mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nhằm khám phá các trách nhiệm cấu
thành AEG, khẳng định sự tồn tại và đo lường các thành phần cấu
thành nên AEG ở Việt Nam, luận án sử dụng kết hợp cả phương pháp
nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.
3.1.1. Nghiên cứu định tính
Được thực hiện thông qua phân tích nội dung văn bản nhằm
xác định các TNKT được quy định hiện hành và thông qua đó thiết kế
bảng câu hỏi và hiệu chỉnh bảng câu hỏi khảo sát thực hiện bước
nghiên cứu định lượng tiếp theo.



13
3.1.2. Nghiên cứu định lượng
Bảng câu hỏi khảo sát được xây dựng từ các TNKT theo quy
định hiện hành trong bước nghiên cứu định tính và các TNKT KTV
nên thực hiện được kế thừa từ Bảng câu hỏi khảo sát của Porter &
cộng sự (2012). Đối tượng khảo sát được phân loại thành 04 nhóm
gồm KTV, KHKT, Nhóm có lợi ích trực tiếp, Nhóm có lợi ích gián
tiếp. Phương pháp chọn mẫu phi xác suất với kích thước mẫu được
xác định khoảng 1.400 đơn vị mẫu nhằm đạt được cỡ mẫu 400 đơn vị
mẫu (trung bình mỗi nhóm từ 100 đơn vị mẫu trở lên). Thời gian khảo
sát từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015. Số phiếu khảo sát
phản hồi hợp lệ là 454 phiếu, chiếm 32% tổng số phiếu khảo sát. Tiêu
chuẩn xác định các TNKT cấu thành nên từng thành phần của AEG
dựa trên tiêu chuẩn đề xuất trong nghiên cứu của Porter & cộng sự
(2012) dựa trên tổng số điểm bình quân và tỷ lệ phản hồi của mỗi
nhóm và tổng thể các nhóm. Phần mềm SPSS được sử dụng để phân
tích thống kê mô tả, kiểm định T-Test để xác định các TNKT cấu
thành nên các thành phần của AEG và đo lường mức độ khoảng cách
của mỗi thành phần. Phân tích thống kê phi tham số Chi - Square và
Hệ số Cramer’V để xác định quan hệ và mức độ ảnh hưởng của nhóm
nghề nghiệp đến các thành phần cấu thành nên AEG.
3.2. Khung phân tích kết quả khảo sát.
Kết quả khảo sát được phân tích và thảo luận dựa trên Khung
phân tích bên dưới xác định và phân loại các TNKT cấu thành nên các
thành phần của AEG (hình dưới).


14


Kết luận chương 3


15
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU
Chương này thực hiện phân tích và thảo luận kết quả khảo
sát của luận án
4.1. Xác định trách nhiệm KTV cấu thành nên khoảng
cách kỳ vọng - hiện thực
4.1.1. Trách nhiệm KTV - thành phần khoảng cách hợp

4.1.1.1. Trách nhiệm KTV nên thực hiện
Dựa trên lý thuyết niềm tin tin thác của Limperg (1933) để
xác định đâu là trách nhiệm KTV nên thực hiện. Kết quả khảo sát có
42/45 TNKT được kỳ vọng KTV nên thực hiện do tỷ lệ phản hồi của
mỗi nhóm trong nhóm xã hội đồng ý đều từ 20% trở lên.
4.1.1.2. Trách nhiệm hợp lý của KTV
Dựa trên lý thuyết lựa chọn hợp lý và lý thuyết ủy nhiệm để
xác định đâu là các trách nhiệm hợp lý. Căn cứ vào mức độ hiểu biết
và lợi ích tương đồng giữa Nhóm KHKT và Nhóm có lợi ích trực
tiếp để xác định TNKT hợp lý mà KTV nên thực hiện. Kết quả khảo
sát chỉ ra có 29/42 trách nhiệm KTV nên thực hiện được coi là trách
nhiệm hợp lý.
4.1.1.3. Trách nhiệm kỳ vọng bất hợp lý
Chênh lệch giữa số TNKT được nhóm xã hội kỳ vọng nên
thực hiện (mục 4.2.1.1) và số TNKT được hai nhóm kỳ vọng nên
thực hiện (mục 4.2.1.2) hình thành TNKT được kỳ vọng bất hợp lý
gồm 13 TNKT cấu thành nên khoảng cách hợp lý - thành phần AEG.
4.1.2 Trách nhiệm hợp lý cần bổ sung – thành phần

khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực
Từ kết quả phân tích trên cho thấy, có 29/42 TNKT được
công chúng kỳ vọng là các trách nhiệm hợp lý do KTV có thể và có


16
khả năng thực hiện được. Dựa trên quan điểm của KTV, xác định
được 8 TNKT, có thể quy định thêm cho KTV trong điều kiện hiện
tại và 5 TNKT, có thể quy định thêm cho KTV nếu bổ sung phương
tiện bảo đảm hợp lý cho những rủi ro nghề nghiệp mà KTV có thể
đối mặt khi thực hiện nhiệm vụ. Như vậy, có 13 TNKT được kỳ
vọng hợp lý nhưng chưa được quy định cấu thành nên khoảng cách
hoàn thiện chuẩn mực – một thành phần của khoảng cách hiện thực.
4.1.2.1. Mức độ hiểu biết về trách nhiệm hiện hành của
KTV
Tổng hợp ý kiến của công chúng tương ứng với câu hỏi:
“Đây có phải là trách nhiệm của KTV theo quy định hiện hành hay
không?”. Kết quả khảo sát mức độ hiểu biết của mỗi nhóm: KTV
xác định có 18 TNKT được quy định hiện nay (trong đó xác định
thiếu 3 TNKT và thừa 5 TNKT.); KHKT xác định có 23 TNKT theo
quy định hiện nay (thiếu 3 TNKT và thừa 10 TNKT); Nhóm có lợi
ích trực tiếp xác định có 29 TNKT theo quy định hiện nay (thiếu 2
TNKT và thừa 15 TNKT); Nhóm có lợi ích gián tiếp xác định có 24
TNKT theo quy định hiện nay (thiếu 2 TNKT và thừa 10 TNKT).
4.1.2.2. Khoảng cách hiểu biết về trách nhiệm hiện hành
của KTV.
Khoảng cách này được xác định dựa vào tổng % tỷ lệ phản
hồi của mỗi nhóm lựa chọn “không chắc chắn” và phản hồi “sai”
(khẳng định một trách nhiệm hiện hành nhưng thực tế không đúng
hoặc ngược lại) trong số 45 TNKT được đề xuất trong Bảng câu hỏi

khảo sát. Khoảng cách hiểu biết của bốn nhóm KTV, KHKT, Nhóm
có lợi ích trực tiếp, Nhóm có lợi ích gián tiếp lần lượt là 24%, 20%,
29%, 28%.


17
4.1.3. TNKT không đạt yêu cầu – thành phần khoảng
cách tăng cường kết quả.
Dựa trên lý thuyết hồi ứng người đọc để giải thích cho việc
đánh giá kết quả thực hiện nhiệm của KTV. Kết quả khảo sát đối với
16 trách nhiệm hiện hành có 8/16 trách nhiệm đạt yêu cầu, cụ thể là:
TNKT 3, 6, 40, 43, 21, 5, 25,42. Nghiên cứu phân tích này cung cấp
bằng chứng tồn tại khác biệt trong đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ của KTV và xác định được 8 TNKT không đạt yêu cầu – cấu
thành nên khoảng cách tăng cường kết quả - thành phần của khoảng
cách hiện thực.
4.1.4. Trách nhiệm KTV - thành phần khoảng cách dịch
vụ.
Kết quả khảo sát toàn bộ 16 TNKT hiện hành công chúng
đều kỳ vọng KTV thực hiện và đều là những kỳ vọng hợp lý. Như
vậy, toàn bộ TNKT theo quy định hiện hành đều được công chúng
nhìn nhận cần thiết và không cấu thành khoảng cách dịch vụ.
4.2. Xác định và đo lường mức độ khoảng cách của các
thành phần cấu thành AEG
4.2.1. Xác định các thành phần khoảng cách kỳ vọng –
hiện thực và ảnh hưởng của khoảng cách hiểu biết.
Các TNKT được xác định chỉ cấu thành nên ba thành phần
AEG là khoảng cách hợp lý (13 TNKT), khoảng cách hoàn thiện
chuẩn mực (13 TNKT), khoảng cách tăng cường kết quả (8 TNKT).
Không tồn tại khoảng cách dịch vụ.

Khoảng cách thiếu hiểu biết (nhận thức sai TNKT hiện hành)
không làm tăng kỳ vọng bất hợp lý của công chúng đối KTV, chỉ cấu
thành nên khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực (11 TNKT) và khoảng
cách tăng cường kết quả (2 TNKT).


18
4.2.2. Đo lường mức độ của từng thành phần cấu thành
khoảng cách kỳ vọng - hiện thực.
Mức độ đóng góp của từng thành phần vào khoảng cách kỳ
vọng - hiện thực tương ứng là khoảng cách tăng cường kết quả 20%,
khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực 49%, khoảng cách hợp lý 31%.


19
4.3. Ảnh hưởng của các nhóm nghề nghiệp đến các
TNKT cấu thành các thành phần AEG.
4.3.1. Ảnh hưởng của nhóm nghề nghiệp đến khoảng
cách hợp lý.
Kết quả kiểm định Chi - Square xác định được có 8 trong số
13 giả thuyết có Sig.<.05, chứng tỏ phần lớn TNKT cấu thành nên kỳ
vọng bất hợp lý của công chúng chịu ảnh hưởng từ nghề nghiệp của
mỗi người trong số họ. Mức độ ảnh hưởng của 8 TNKT (34, 18, 45,
26, 4, 2, 15, 30) biến thiên trong khoảng từ 0.123 đến 0.281 (từ
12,3% đến 28,1%).
4.3.2. Ảnh hưởng của nghề nghiệp đến khoảng cách hoàn
thiện chuẩn mực
Kết quả kiểm định Chi - Square xác định được có 10 trong
số 13 giả thuyết có Sig.<.05, chứng tỏ phần lớn TNKT cấu thành nên
kỳ vọng hợp lý của công chúng chịu ảnh hưởng từ nghề nghiệp của

mỗi người trong số họ. Mức độ ảnh hưởng của 10 TNKT (33, 7, 35,
29, 44, 39, 19, 31, 17, 38) biến thiên trong khoảng từ 0.119 đến
0.199 (từ 11,9% đến 19,9%).
4.3.3. Ảnh hưởng của nghề nghiệp đến khoảng cách tăng
cường kết quả kiểm toán
Kết quả kiểm định Chi - Square xác định được toàn bộ 8
TNKT có Sig.<.05, chứng tỏ các TNKT trên đều cấu thành nên
khoảng cách tăng cường kết quả kiểm toán. Chúng chịu ảnh hưởng
từ nghề nghiệp của mỗi người trong số họ. Mức độ ảnh hưởng của 8
TNKT (16, 27, 23, 20, 22, 10, 9, 13) biến thiên trong khoảng từ
0.185 đến 0.257 (từ 18,5% đến 25,7%).
Sau khi kiểm định ảnh hưởng của nhóm nghề nghiệp đến các
thành phần của AEG, kết hợp với kết quả khảo sát nhận thức đối với
TNKT theo quy định hiện hành giúp xác định các trách nhiệm cấu


20
thành nên khoảng cách hợp lý, khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực,
khoảng cách tăng cường kết quả của mỗi nhóm có phải do nhận thức
sai hay do khác biệt về nghề nghiệp giữa mỗi nhóm. Trường hợp do
nhận thức sai, có thể có giải pháp hữu hiệu để thu hẹp hoàn toàn kỳ
vọng bất hợp lý đối với TNKT cấu thành nên khoảng cách hợp lý.
Ngược lại, nếu nhận thức của đối tượng khảo sát là đúng, chứng tỏ
luôn tồn tại AEG liên quan đến TNKT đó và khó có thể có giải pháp
hữu hiệu để thu hẹp khoảng cách này.
Kết luận chương 4


21
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.1. Kết quả chính
5.1.1. Kết quả xác định trách nhiệm KTV cấu thành
AEG
Kết quả nghiên cứu có: 13/42 TNKT cấu thành nên khoảng
cách hợp lý, 13/42 TNKT cấu thành nên khoảng cách hoàn thiện
chuẩn mực, 8/42 TNKT cấu thành nên khoảng cách tăng cường kết
quả kiểm toán, không có TNKT nào cấu thành khoảng cách dịch vụ.
5.1.2. Cấu trúc và mức độ AEG
Mức độ đóng góp của từng thành phần vào khoảng cách kỳ
vọng – hiện thực tương ứng là khoảng cách hợp lý 31%, khoảng cách
hoàn thiện chuẩn mực 49%, khoảng cách tăng cường kết quả 20%.
5.1.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng nghề nghiệp đối với
các TNKT cấu thành nên các thành phần của AEG.
Phân tích thống kê Chi- Square và tính hệ số Cramer’V cung
cấp bằng chứng chỉ ra rằng, nghề nghiệp có ảnh hưởng đến các
TNKT cấu thành nên từng thành phần của AEG.
Kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm
chứng tỏ rằng, một phần AEG luôn tồn tại song hành cùng với nghề
nghiệp kiểm toán xuất phát từ những khác biệt về vị trí nghề nghiệp
của mỗi cá nhân tham gia khảo sát (lý thuyết vai trò), vai trò người
khảo sát, người thu nhận thông tin (lý thuyết hồi ứng người đọc),
khác biệt về lợi ích (lý thuyết lựa chọn hợp lý), bất cân xứng thông
tin và mâu thuẫn lợi ích (lý thuyết ủy nhiệm). Mức độ ảnh hưởng của
nghề nghiệp đến từng thành phần cấu thành nên AEG bên trên chỉ
mức độ khoảng cách không thể thu hẹp hoàn toàn,


22
5.2. Kết luận và hàm ý chính sách
5.2.1. Kết luận

- Kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm
chứng tỏ rằng tồn tại AEG đáng kể ở Việt Nam phù hợp với định
nghĩa về khoảng cách kỳ vọng – hiện thực của Porter (1993).
- Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng nghề nghiệp đến các TNKT
cấu thành nên các thành phần của AEG cũng cung cấp bằng chứng
thực nghiệm chứng tỏ rằng, AEG luôn tồn tại xuất phát từ những
khác biệt về vị trí nghề nghiệp của mỗi cá nhân tham gia khảo sát,
vai trò người khảo sát, người thu nhận thông tin, khác biệt về lợi ích,
bất cân xứng thông tin và mâu thuẫn lợi ích. Mức độ ảnh hưởng của
nghề nghiệp đến khoảng cách chỉ mức độ khoảng cách không thể thu
hẹp hoàn toàn. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được nguyên nhân, cụ
thể: (i) khác biệt về lợi ích ảnh hưởng tới kỳ vọng của mỗi nhóm
khảo sát, (ii) mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố trên đến AEG được
thể hiện theo xu hướng mức độ hiểu biết càng thấp, lợi ích liên quan
càng mật thiết thì kỳ vọng kiểm toán càng cao và ngược lại. (iii) kỳ
vọng bất hợp lý của công chúng được cấu thành từ (i) kỳ vọng quá
cao vào kết quả kiểm toán mà KTV có thể thực hiện; (ii) kỳ vọng
không hợp lý đối với chuẩn mực kiểm toán; (iii) thiếu hiểu biết về
kiểm toán.
- Kết quả khảo sát AEG ở Việt Nam cũng cho thấy rằng,
AEG tồn tại không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các yếu tố kinh tế,
chính trị và xã hội tương đồng với hầu hết các nghiên cứu trước.


23
5.2.2. Một số hàm ý chính sách
Tăng cường đào tạo cho KTV tập trung vào 2
TNKT 16,37

Tăng cường kết

quả cho 8 TNKT

Nâng cao chất lượng kiểm soát hoạt động
kiểm toán tập trung đối với 6 TNKT 9, 10,
13, 20, 22, 23
Đổi mới phương pháp kiểm toán

Bổ sung thêm 3 TNKT cho KTV (TNKT 7,
19, 44)

Giải pháp thu hẹp AEG

Hoàn thiện chuẩn
mực đối với 13
TNKT

Bổ sung thêm 7 TNKT (17, 29, 31, 33, 35,
38, 39) kết hợp với các quy định bảo vệ nghề
nghiệp
Tăng cường đào tạotập trung 10 TNKT nhận
thức sai

Thu hẹp khoảng
cách hợp lý đối
với 13 TNKT

Tăng cường đào tạo, phổ biến trong xã hội về
vai trò kiểm toán và TNKT của KTV tập
trung 5 TNKT


Thay đổi hình thức BCKT,tăng cường trao
đổi thông tin.

5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo.
Nghiên cứu này còn tồn tại một số hạn chế như cơ mẫu nhỏ,
chưa cung cấp bằng chứng thực nghiệm xác định được tất cả các
nguyên nhân đóng góp vào AEG. Nghiên cứu AEG cũng chỉ giới hạn
trong phạm vi trách nhiệm kiểm toán của KTV, chưa tìm hiểu AEG
liên quan đến bản chất, chức năng kiểm toán, mức độ tin cậy, hữu ích
của BCKT, tính độc lập của KTV. Những hạn chế này cho thấy khả
năng triển khai các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này như
nghiên cứu AEG ở mức độ phạm vi rộng hơn hoặc mở rộng nghiên


×