Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

ĐỀ tài HÀNH VI lạm DỤNG rượu BIA ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.32 KB, 14 trang )

HÀNH VI LẠM DỤNG RƯỢU BIA Ở VIỆT NAM

I. Đặt vấn đề
Sử dụng rượu bia là một thói quen mang đậm nét văn hoá truyền
thống tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Sử dụng rượu bia với mức
độ hợp lý có thể đem lại cho con người cảm giác hưng phấn, khoan khoái,
lưu thông huyết mạch… Song rượu bia lại là chất kích thích, gây nghiện vì
vậy người sử dụng rất dễ bị lệ thuộc với mức độ dung nạp ngày càng nhiều
dẫn đến tình trạng lạm dụng rượu bia. Lạm dụng rượu bia gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng cho sức khoẻ cộng đồng và xã hội.
Ở nước ta, quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế trong những
năm qua đã giúp cho đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Xu
hướng sử dụng rượu bia trong sinh hoạt hàng ngày, trong những dịp lễ, hội,
trong quan hệ công việc… đang ngày càng gia tăng. Tại hội thảo “Chia sẻ
kinh nghiệm xây dựng chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của sử
dụng rượu bia” do Bộ Y tế tổ chức tại Hà Nội trong 2 ngày 18 - 19/3/2009,
theo thống kê của Viện Chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế), năm 2006,
tại Việt Nam, tỉ lệ người có sử dụng rượu bia chiếm 33,5%, trong đó số
người lạm dụng rượu (theo tiêu chuẩn của WHO) lên tới 18%, lạm dụng bia
là 5% ,và đang có xu hướng tăng lên trong những năm tiếp theo. Đại bộ


phận những người sử dụng ruợu thường uống rượu nấu thủ công: 95,7%. Đa
số những người sử dụng bia thường uống bia nhà máy: 87,9%. Trong số này
bia TW chỉ chiếm > 40% còn lại là bia địa phương. Địa điểm uống rượu bia
chủ yếu là tại nhà và tại lễ tiệc, uống tại quán, nhà hàng, khách sạn chiếm >
11%.
/>
Thạc sĩ Vũ Thị Minh Hạnh, Viện Chiến lược và Chính sách y tế cho
biết, mức độ sử dụng bia rượu ở người Việt Nam khá cao: 6,4 đơn
vị/ngày,26,1 đơn vị/tuần, vượt khá xa ngưỡng sử dụng rượu an toàn theo quy


định của WHO. (Đơn vị rượu thường có từ 8-14g rượu nguyên chất (pure
ethanol) chứa trong dung dịch đó. Mỗi đơn vị tương đương 270ml bia,
hoặc 1 chén rượu vang 125ml, hay 1 chén rượu mạnh 25ml. Dùng quá mức
này được coi là lạm dụng).
Tình hình sản xuất, lưu thông và tiêu thụ rượu bia ở Việt Nam liên tục
gia tăng trong những năm gần đây.. Mức tiêu thụ rượu, bia bình quân tại Việt
Nam khoảng 1,07% cồn nguyên chất/người/năm đứng thứ 149 thế giới (bia
là 27 lít/người/năm). Mỗi năm Việt Nam sản xuất 1,2 tỷ lít bia. Con số này
tăng 8-10% sau từng năm. Lượng rượu được tiêu thụ ở Việt Nam mỗi năm là


350 triệu lít. Con số thực tế cao hơn rất nhiều do chưa kiểm soát được lượng
rượu nấu thủ công. />Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xuất bản năm 2011,
Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia uống bia, tức là mức độ tiêu thụ
bia vượt xa so với các loại rượu và đồ uống có cồn khác. Theo số liệu năm
2005 của WHO dẫn ra trong báo cáo, tỉ lệ tiêu thụ bia ở Việt Nam là 97%
tổng số rượu bia được uống hàng năm.
Tình trạng sử dụng và lạm dụng rượu bia tràn lan ở một số nơi đã làm
cho trật tự an toàn xã hội và an toàn giao thông trở thành những vấn đề đáng
báo động. Bình quân mỗi ngày cả nước có gần 40 trường hợp tử vong vì tai
nạn giao thông, trong đó hơn 50% số trường hợp là do người điều khiển các
phương tiện tham gia giao thông sử dụng rượu bia. Người lạm dụng rượu bia
còn dễ mắc các bệnh như: Gan, dạ dày, đại tràng... tạo ra gánh nặng y tế và
sức khỏe của mỗi gia đình, cộng đồng.
Tình trạng lạm dụng rượu bia đang là một vấn đề đáng báo động ở
Việt Nam cần phải có các biện pháp hạn chế kịp thời để giảm tỷ lệ người
lạm dụng rượu bia và mức tiêu thụ rượu bia ở Việt Nam.


II. Các khái niệm liên quan

1. Khái niêm rượu, bia
Rượu là tên gọi của một nhóm các loại đồ uống có chứa cồn.
Bia là là một loại đồ uống chứa cồn được sản xuất bằng quá trình lên
men đường lơ lửng trong môi trường lỏng và nó không được chưng cất sau
khi lên men.
* Theo tiêu chuẩn của WHO:
+

Đơn vị rượu: chứa 8-14g rượu nguyên chất trong dung dịch.

+

1 đơn vị rượu tương đương 3 lon bia (330ml nồng độ 5%) hoặc 3 chén

rượu mạnh (30ml, nồng độ 30%).
+

Lạm dụng rượu bia là dùng quá 1 đơn vị rượu/1 ngày.

2. Khái niệm lạm dụng rượu, bia
Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), bị coi là lạm dụng
rượu bia khi sử dụng ở mức: đối với nam giới, uống hơn 3 lon/ly bia (330ml)
nồng độ 5%/ngày hoặc hơn 3 chén rượu (30ml) nồng độ từ 30 độ trở
lên/ngày; đối với nữ giới, uống hơn hai lon bia/ngày và hơn 2 chén
rượu/ngày.
3. Khái niệm hành vi sức khỏe


-


Là hành vi liên quan đến việc bảo vệ, duy trì và tăng cường sức khỏe,

hoặc liên quan đến một vấn đề sức khỏe nhất định.

III. Nguyên nhân sử dụng rượu, bia
1. Yếu tố cá nhân
-

Về nhận thức: thiếu hiểu biết về tác hại của rượu bia nhất là vùng dân

tộc ít người.
-

Về quan niệm:

+

Giúp giải tỏa căng thẳng

+

Thể hiện bản lĩnh đàn ông.

+

Thể hiện người hiếu khách.

+

Uống rượu bia gia tăng khả năng tình dục.


-

Về cá nhân:

+

Diễn biến tâm lý xã hội. Rượu – nói chung là các chất gây nghiện –

thường được dùng để làm giảm bớt căng thẳng nội tâm.
+

Tính dễ bị tổn thương về tâm lý của từng người.

+

Các yếu tố di truyền đóng một vai trò quyết định trong nhiều trường

hợp. Rất nhiều người nghiện rượu đã hoặc đang có người nghiện trong gia


đình. Thế nhưng các nhà khoa học và bác sĩ vẫn chưa kết luận được là việc
nghiện trong những trường hợp này thật sự là được di truyền lại hay chỉ là
bắt chước. Qua một số nghiên cứu (thí dụ như ở những người sinh đôi)
người ta phỏng đoán là rất có thể có khả năng di truyền của tiềm năng
nghiện.
/>%C6%B0%E1%BB%A3u#Nguy.C3.AAn_nh.C3.A2n_c.C3.A1_nh.C3.A2n
-

Về gia đình:


+

Do sự bất ổn trong gia đình.

+ Thái độ dung túng của gia đình.
-

Về bạn bè:
Thông thường thì những người có quan hệ bạn bè với nhau đều là người

nghiện. Trong những trường hợp này thì những người này đều góp phần vào
động lực làm duy trì sự lạm dung rượu bia. Các thông tin sai sót và để giải
quyết sự việc các thành viên đều phải quan tâm tới lối thoát cho sự đồng lệ
thuộc của họ cũng như tới các vấn đề do chính họ lạm dụng rượu bia gây ra.
/>3. Môi trường học tập và làm việc


-

Đa số học sinh đều uống rượu với bạn bè, trong lớp cũng như ngoài lớp.

-

Theo kết quả của SAVY cho biết: nam thanh niên chịu, áp lực bạn bè là

yếu tố tác động lớn nhất đến việc họ uống rượu bia, cao hơn cả so với việc
hút thuốc lá, sử dụng ma túy, quan hệ tình dục và xem phim ảnh khiêu dâm
-


Trong dịp hè, học sinh ở nhà với bố mẹ, bị bố mẹ quản lý nên không

được đi chơi nhiều, không tiếp xúc với bạn bè nhiều nên không uống rượu
bia nhiều, chính vì thế, vào những dịp nghỉ hè, tỷ lệ uống rượu bia rất thấp.
- Theo nguồn Điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002, nhóm nghề nhân viên
văn phòng, lãnh đạo có tỷ lệ uống rượu bia cao nhất (> 60%)(3). Kết quả trong
nghiên cứu cũng đưa ra nhận xét tương tự, với tỷ lệ uống rượu bia ở nhóm nghề
nhân viên văn phòng là 48%. Do nhân viên văn phòng (nhà nước cũng như tư
nhân) là những đối tượng có nhiều mối quan hệ nên việc giao tiếp qua những
bữa tiệc có rượu bia phải chăng là chuyện bình thường.
-

Với dân lao động thì làm vài chai để giải mỏi, với dân công chức thì xả

stress sau giờ làm việc, đặt biệt là học sinh, sinh viên cũng không chịu thua
kém các bật đàn anh, đàn chú. Một bộ phận giới trẻ đã tìm tới rượu, bia như
một cái "thú".


-

Có các doanh nghiệp còn tự hào cho việc nhậu là một nét văn hóa của

Việt Nam, và thường đưa vào bàn nhậu để bàn các chuyện kinh doanh hoặc
ký kết hợp đồng.
/> />4. Cấp độ cộng đồng
5. Môi trường luật pháp, chính sách
-

Đề nghị xây dựng luật về phòng chống lạm dụng rượu bia đó là đề nghị


được đưa ra tại hộ thảo nghị sỹ các nước CamPuChia, Lào, Thái Lan và Việt
Nam về chính sách, pháp luật phòng, chống lạm dụng rượu bia được ủy ban
về các vấn đề xã hội của quốc hội phối hợp với tổ chức khuyến khích không
sử dụng rượu bia (IOGT) tổ chức trong 2 ngày, mùng 6 và mùng 7 tại Hà
Nội.
- Cần điều chỉnh Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh Xử lý hành chính và các nghị
định xử phạt hành vi vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường


bộ, trật tự an toàn giao thông đô thị về việc dùng rượu bia quá nồng độ mà
tham gia gia thông.
- Việt Nam, ngay từ năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc
lệnh kiểm soát sản xuất và sử dụng rượu. Và từ đó đến nay QH đã ban hành
một số luật có những nội dung quy định trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm hạn
chế sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ và sử dụng rượu, bia; Chính phủ, các bộ,
ngành cũng đã ban hành nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn, thi hành luật.
- Bà Nguyễn Thị Xuyên cho biết: Năm 2009, sẽ trình Chính phủ Chính
sách quốc gia phòng, chống tác hại lạm dụng rượu, bia giai đoạn 2010 2020. Trong dự thảo đề cương chính sách này, một trong những nội dung cơ
bản là cấm quảng cáo, khuyến mãi rượu, bia dưới mọi hình thức.
/>ail.aspx?ItemID=1175

6. Một số khuyến nghị chính sách
-

Các chương trình can thiệp và việc thực thi các chính sách hiện hành

nhằm hạn chế sử dụng rượu bia .



- Các chương trình can thiệp và hạn chế sử dụng rượu bia cần xem xét
khía cạnh.
-

Cần đẩy mạnh các chính sách và chương trình can thiệp phòng chống

lạm dụng rượu bia. Cần tăng cường và có biện pháp hiệu quả trong thực hiện
quy định cấm người dưới tuổi trưởng thành mua rượu bia.
-

Cần chú trọng hơn đến nguyên nhân của sự khác biệt về sử dụng rượu

bia theo vùng miền để có thể đưa ra những chính sách và chương trình can
thiệp phù hợp cho từng vùng, đặc biệt là những vùng có tỷ lệ sử dụng rượu
bia cao (Tây Bắc, Đông Bắc).
-

Cần tăng cường việc thực hiện các chương trình phòng chống lạm dụng

rượu bia ở các khu có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Cần tìm hiểu sâu hơn
nguyên nhân sử dụng rượu bia trong TTN dân tộc thiểu số.
-

Các chương trình truyền thông thay đổi hành vi về phòng chống rượu

bia cần được đẩy mạnh trong các trường phổ thông trung học và các cấp cao
hơn.
-

Cần xây dựng các chương trình can thiệp và chính sách phòng chống


lạm dụng rượu bia.


-

Các chương trình dự phòng hạn chế sử dụng rượu bia cần được ưu tiên

hơn các chương trình can thiệp nhằm vào những người hiện đang sử dụng.
-

Các chương trình can thiệp nhằm giảm áp lực của bạn bè trong việc rủ

rê hay ép buộc sử dụng rượu bia cần được khuyến khích.
-

Cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các quy định và chính sách hiện

hành liên quan đến việc hạn chế sử dụng rượu bia trong khi điều khiển
phương tiện giao thông.
Nhận xét kết luận:
Về tình hình lạm dụng rượu bia và các chính sách phòng ngừa của một
số nước trên thế giới
- Sản lượng rượu bia trên toàn thế giới đang có xu hướng ngày càng gia
tăng và dịch chuyển sang khu vực các nước đang phát triển.
- Mức độ tiêu thụ rượu bia có sự chênh lệch đáng kể giữa những nước phát
triển và nước đang phát triển.
- Tỷ lệ sử dụng rượu bia ở các nước phát triển thường ở mức trên 70% đối
với nam và trên 50% đối với nữ (trên 15 tuổi).
- Phần đông các nước trên thế giới hiện đã ban hành những chính sách

nhằm hạn chế tác hại của lạm dụng rượu bia, trong đó một số quốc gia đã
có chính sách tổng thể về rượu bia nhằm tác động cả đến sản xuất lưu thông
và sử dụng.
Về tình hình lạm dụng rượu bia ở Việt <country-region>Nam</countryregion>


- Tình hình sản xuất, lưu thông và tiêu thụ rượu bia ở Việt <countryregion>Nam</country-region> liên tục gia tăngtrong những năm gần đây.
So với mức bình quân/người/năm trên toàn thế giới, mức tiêu thụ về cả rượu
và bia của Việt <country-region>Nam</country-region> đều thấp hơn.
- Tỷ lệ sử dụng rượu (ít nhất là 1 lần/tuần) tại các địa bàn nghiên cứu là
33,5%. Tỷ lệ sử dụng rượu trong nhóm nam là 64%, cao hơn so với số liệu
điều tra về tình hình sử dụng rượu bia tại 12 quốc gia đang phát triển (50%)
và thấp hơn so với tỷ lệ sử dụng rượu của nam giới trong khu vực Tây Thái
Bình Dương là 84%.
- Tỷ lệ lạm dụng rượu (theo quy chuẩn cua WHO) là 18%, lạm dụng bia là
5% và có sự khác nhau rõ nét giữa các nhóm dân cư, theo giới tính, trình độ
học vấn và nghề nghiệp.
- Lý do của việc sử dụng rượu bia chủ yếu là do sự tác động của bạn bè và
trạng thái hưng phấn của cá nhân người sử dụng.
- Tuổi bắt đầu sử dụng rượu trung bình là 24 và có sự chênh lệch đáng kể
giữa các vùng, các khu vực. So với thế giới tuổi bắt đầu uống rượu ở nước ta
muộn hơn song hiện đang có xu hướng trẻ hoá rất rõ nét.
- Mức độ sử dụng rượu trung bình khá cao: bình quân 6,4 đơn vị/ngày và
26,1 đơn vị/tuần; vượt khá xa ngưỡng sử dụng rượu an toàn theo quy định
của WHO.
- Đại bộ phận những người sử dụng ruợu thường uống rượu nấu thủ công:
95,7%. Đa số những người sử dụng bia thường uống bia nhà máy:
87,9%. Trong số này bia TW chỉ chiếm > 40% còn lại là bia địa phương.
- Địa điểm uống rượu bia chủ yếu là tại nhà và tại lễ tiệc, uống tại quán,
nhà hàng, khách sạn chiếm > 11%.

- Thời điểm uống rượu chủ yếu vào buổi tối song đáng chú ý vẫn còn một tỷ
lệ đáng kể uống vào buổi sáng và buổi trưa.


Về hậu quả của sử dụng rượu bia và các yếu tố làm gia tăng tình hình
lạm dụng rượu bia
- Uống rượu bia đã gây ra những phí tổn về kinh tế cho người sử dụng, gia
đình họ và toàn xã hội.
- Rượu bia là nguyên nhân nhập viện của một tỷ lệ bệnh nhân tại bệnh viện
đa khoa các tỉnh. Tỷ lệ này đang có xu hưóng ngày càng tăng nhất là ở các
tỉnh miền núi.
- Số vụ tai nạn giao thông do người tham gia giao thông có sử dụng rượu
bia đang ngày càng gia tăng và trở thành một vấn đề bức xúc của nhiều địa
phương hiện nay.
- Các vụ tội phạm và gây rối trật tự công cộng do có sử dụng rượu bia cũng
đang có xu hướng gia tăng.
- Sử dụng rượu bia ở nước ta hiện đang có xu hướng ngày càng tăng là do
sự ảnh hưởng cộng hưởng của một số nhân tố chủ yếu như: tập quán, chuẩn
mực văn hoá; mức sống được cải thiện, nhu cầu giao tiếp xã hội ngày càng
tăng, sự gia tăng nhanh của thị trường sản xuất và cung ứng rượu bia, các
hoạt động quảng cáo và tiếp thị rượu bia ngày càng mở rộng…
Về các chính sách phòng ngừa lạm dụng rượu bia ở Việt Nam
-Trong những năm vừa qua Chính phủ và một số địa phương đã bước đầu
thực thi một số chính sách nhằm hạn chế lạm dụng rượu bia thông qua việc
tăng cường quản lý trong sản xuất, lưu thông, quảng cáo, áp dụng thuế tiêu
thụ đặc biệt với một số loại rượu và tác động đến người sử dụng… Tuy
nhiên các chính sách còn tản mạn, chưa đồng bộ, chưa đầy đủ.
- Hiệu lực của việc thực thi các chính sách trong thực tế còn thấp. Nguyên
nhân của tình trạng này là do chưa có cơ chế triển khai thực hiện, chưa được
các cấp, các cơ quan, đoàn thể quan tâm, thiếu sự tham gia của người dân và

thiếu sự đầu tư về nguồn lực cũng như thiếu kiểm tra giám sát thực hiện.


- Nước ta hiện vẫn chưa có chính sách tổng thể đối với việc phòng ngừa lạm
dụng rượu bia. Một số chính sách cụ thể tác động đến 2 lĩnh vực chủ yếu là:
sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hiện đã có nhưng chưa đầy đủ và có những
điểm chưa thích hợp. Do vậy còn nhiều khía cạnh thuộc 2 lĩnh vực trên vẫn
còn đang bị bỏ ngỏ chưa có chính sách tác động.



×