Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Sách quản trị kinh doanh QUốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 157 trang )

Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.1

CHƯƠNG I : HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ VÀ
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA (MNC)
I. QUÁ TRÌNH QUỐC TẾ HÓA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH .................................................................2
I.1 Khái quát về hoạt động kinh doanh quốc tế ...........................................................................................2
I.1.1 Hoạt động xuất nhập khẩu...............................................................................................................2
I.1.2 Hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài .....................................................................................3
I.2 Lý do tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc tế ................................................................................4
I.2.1 Phản ứng chủ động ..........................................................................................................................4
I.2.2 Phản ứng thụ động...........................................................................................................................6
I.3 Các hình thức quốc tế hóa hoạt động kinh doanh quốc tế ......................................................................7
I.3.1 Cho thuê bản quyền.........................................................................................................................7
I.3.2 Xuất khẩu ........................................................................................................................................8
I.3.3 Sản xuất tại chỗ ...............................................................................................................................8
I.4 Lợi thế cạnh tranh quốc tế:.....................................................................................................................9
I.4.1 Lợi thế cạnh tranh và nguồn lực tạo lợi thế cạnh tranh ...................................................................9
I.4.2 Nhân tố tác động đến việc hình thành lợi thế cạnh tranh ..............................................................10
II. Công ty đa quốc gia (MNC)......................................................................................................................12
II.1 Bản chất cuả công ty đa quốc gia........................................................................................................12
II.1.1 Đặc điểm của MNC .....................................................................................................................13
II.1.2 Vì sao một công ty kinh doanh nội địa mong muốn trở thành một MNC? ..................................14
II.1.3 Triết lý chiến lược của MNC .......................................................................................................15
II.2 Các hình thức hoạt động của MNC.....................................................................................................16
II.2.1 Sở hữu 100% vốn.........................................................................................................................16
II.2.2 Liên minh chiến lược ...................................................................................................................17
II.2.3 Liên doanh ...................................................................................................................................18
II.3 Quy trình quản trị chiến lược của MNC .............................................................................................19
III Đầu tư trực tiếp của MNC ........................................................................................................................19


III.1 Động lực quyết định dòng đầu tư trực tiếp ........................................................................................19
III.2 Thái độ của nước khách trong việc tiếp nhận đầu tư quốc tế.............................................................19
III.2.1 Thái độ tích cực: .........................................................................................................................19
III.2.2 Thái độ tiêu cực: .........................................................................................................................19
III.3 Đo lường mức độ hấp dẫn của một nước khi ra quyết định đầu tư....................................................20
III.3.1 Môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế của nhà nước ...................................................20
III.3.2 Rủi ro kinh tế và chính trị ...........................................................................................................20
III.3.3 Các định chế về thương mại và môi trường đầu tư.....................................................................20
III.3.4 Điều kiện về thị trường của các nhân tố sản xuất .......................................................................21
III.3.5 Cơ sở hạ tầng về kinh tế .............................................................................................................21
III.3.6 Các yếu tố vật chất và văn hoá xã hội.........................................................................................21


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.2

I. QUÁ TRÌNH QUỐC TẾ HÓA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
I.1 Khái quát về hoạt động kinh doanh quốc tế
Kinh doanh quốc tế thể hiện các hoạt động giao dịch xảy ra giữa một nước với phần
còn lại của thế giới. Những giao dịch nầy bao gồm hoạt động mậu dịch quốc tế và hoạt
động đầu tư ra nước ngoài. Hiện nay khoảng 500 công ty lớn hàng đầu trên thế giới
chiếm khoảng 80% lượng đầu tư nước ngoài và trên 50% tổng giá trị mậu dịch trên toàn
thế giới. Do đó việc nghiên cứu hoạt động kinh doanh quốc tế chủ yếu đặt nặng vào các
hoạt động của các công ty kinh doanh quốc tế lớn nêu trên, những công ty nầy hiện nay
thường được gọi là các công ty đa quốc gia (MNCs), những công ty nầy ra đời và đặt văn
phòng chính tại một nơi nhưng tiến hành các hoạt động kinh doanh tại nhiều nơi trên thế
giới.
Trong những thập kỷ vừa qua MNCs đã đầu tư hàng tỷ USD ra nước ngoài theo hình
thức đầu tư song phương: Hoa Kỳ đầu tư vào Cộng đồng kinh tế Châu Âu và ngược lại;

Nhật Bản đầu tư vào Hoa Kỳ và ngược lại; Canada đầu tư trực tiếp vào Hoa Kỳ và ngược
lại, …. Tuy trong thời gian gần đây, MNCs đã chuyển hướng đầu tư vào các nước đang
phát triển và những nước đang chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị
trường. Ví dụ từ năm 1991-1995, Công ty Volkswagen đã đầu tư 6 tỷ USD vào nhà sản
xuất ô tô Skoda của Cộng Hoà Czech; hoặc Opel (Đức) đã đầu tư xây dựng một nhà máy
sản xuất ô tô trị giá 680 triệu USD tại Đông Đức. Sự chuyển hướng đầu tư nầy bắt nguồn
từ một số lý do như sau: triển vọng sinh lợi tại những thị trường nầy cao dù rằng những
rủi ro về kinh tế và chính trị còn lớn; các chương trình tư nhân hóa được tiến hành rộng
khắp tại các nước Nam Mỹ và đây là một cơ hội cho MNCs thâm nhập vào khu vực nầy;
mặt khác sự tăng trưởng mạnh mẽ và đầy triển vọng của Nhật Bản trong thập niên 80 của
thế kỷ 20 đã dẫn đến việc đầu tư vốn ra thị trường nước ngoài.
Ngoài hiện tượng nêu trên, một hoạt động phổ biến của kỷ nguyên kinh doanh quốc tế
ngày nay chính là việc tiến hành các liên doanh quốc tế giữa MNCs với nhau hoặc giữa
một MNC với một công ty nội địa. Ví dụ như công ty GMC đã liên doanh với Toyota để
sản xuất xe hơi tại Hoa Kỳ; Ford đã liên doanh với Volkswagen để sản xuất xe hơi tại
Nam Mỹ; Motorola cùng phối hợp với Toshiba để phát triển và sản xuất một thế hệ chip
điện tử có độ phân giải cao; Nissan và Hitachi đã phối hợp với nhau nhằm tạo ra một
“văn phòng di động” qua việc phát triển, sản xuất các loại điện thoại di động, máy fax,
tivi, videocassette.
I.1.1 Hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng không chỉ bao gồm
các loại hàng hóa mà còn là các loại dịch vụ trong lĩnh vực hàng không, vận tải, khách
sạn… và khuynh hướng ngày nay là khối lượng dịch vụ xuất khẩu nầy càng gia tăng (một
trong những lĩnh vực xuất khẩu chủ yếu của Hoa Kỳ chính là các dịch vụ về giải trí như
phim, các chương trình tivi…).


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.3


Việc nghiên cứu các số liệu về xuất nhập khẩu rất quan trọng trong lĩnh vực kinh
doanh quốc tế vì các lý do. Thứ nhất, mậu dịch quốc tế là một lĩnh vực cơ bản và truyền
thống của kinh doanh quốc tế và việc nghiên cứu nó sẽ cho phép chúng ta thấu hiểu được
thực tiễn hoạt động và chiến lược của MNCs. Ví dụ, các số liệu về mậu dịch quốc tế
trong vòng 10 năm trước đây đã cho chúng ta thấy những đối tác nhập khẩu hàng hóa của
Hoa Kỳ chính là Canada, Nhật Bản, Mehico, vương quốc Anh, và Đức. Các nước nầy
thường nhập computer, máy móc dùng trong nông trại, máy móc thiết bị sử dụng trong
các ngành nghề khác, và hàng điện tử. Ngược lại Hoa Kỳ nhập khẩu chủ yếu từ các đối
tác như Canada, Nhật Bản, Mehico, Đức, và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa các mặt
hàng như xe hơi, giầy dép, hàng điện tử tiêu dùng, phụ tùng thay thế, và đồ trang sức.
Các số liệu nầy cũng cho chúng ta biết rằng 10 đối tác nhập khẩu lớn nhất của Hoa Kỳ
cũng chính là 10 đối tác xuất khẩu lớn nhất, nói cách khác Hoa Kỳ đã mua và bán với
một tỷ trọng lớn nhất trong một phạm vi một số ít các quốc gia. Thứ hai, các số liệu về
mậu dịch quốc tế cũng giúp cho chúng ta thông hiểu được tác động của hoạt động kinh
doanh quốc tế đối với nền kinh tế của một quốc gia. Thật vậy bằng những số liệu nầy,
chúng ta có thể giải thích được các câu hỏi đặt ra như: Việc trở thành một nhà xuất khẩu
lớn sẽ tác động đến nền kinh tế của một quốc gia như thế nào? Việc lệ thuộc vào nguồn
hàng nhập khẩu sẽ tác động như thế nào đến nền kinh tế?
I.1.2 Hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thể hiện sự dịch chuyển vốn ra hải ngoại để
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các quốc gia đã công nghiệp hóa đã đầu tư
với một tỷ trọng rất lớn vào các quốc gia đã công nghiệp hóa khác và với một tỷ trọng
nhỏ vào các nước kém phát triển, hoặc các nước mới công nghiệp hóa. Các số liệu trong
thời gian qua cho thấy phần lớn vốn đầu tư trực tiếp tập trung vào Hoa Kỳ, Cộng đồng
Châu Âu, và Nhật Bản. Ví dụ: vào năm 1990, Hoa kỳ đã tiếp nhận một lượng vốn đầu tư
xấp xỉ 1.500 tỷ USD và nó đã đầu tư ra nước ngoài khoảng 1.200 tỷ USD. Các nhà đầu tư
lớn nhất tại Hoa Kỳ vào năm 1992 bao gồm Nhật Bản, Anh, Hà Lan, Canada, và Đức;
vốn đầu tư của 5 nước nầy chiếm trên 70% tổng lượng vốn đầu tư mà Hoa Kỳ tiếp nhận.
Trong số những nhà đầu tư nầy, tốc độ đầu tư của Nhật Bản là nhanh nhất, tuy nhiên tổng

vốn đầu tư của Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EC) thì lớn gấp 3 lần so với Nhật Bản. Đồng
thời Hoa Kỳ cũng là một nhà đầu tư lớn trên thế giới nhưng nó chỉ đầu tư tập trung vào
EC, Canada, và Nhật Bản.
Khi các quốc gia đã phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn, họ thường tiến hành
đầu tư tại những khu vực có tiềm năng tăng trưởng. Chẳng hạn Nhật Bản trong những
năm gần đây đã đầu tư rất nhiều vào thị trường của EC, cụ thể trong thập niên 1980 họ đã
gia tăng tỷ trọng đầu tư lên gấp 3 lần so với những năm đầu. Trong cơ cấu đầu tư theo
ngành thì tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực sản xuất là lớn nhất, tuy nhiên họ vẫn đầu tư đáng
kể vào các lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm. Một trong những lý do khiến Nhật Bản gia
tăng đầu tư tại đây là do họ dự báo rằng sẽ có một sự tăng trưởng lớn của nền kinh tế EC
trong thập niên 1990, một lý do khác đó chính là rào cản thuế quan và phi thuế quan tại


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.4

EC rất chặt chẽ và điều nầy sẽ đảm bảo một lợi nhuận đáng kể cho các công ty khi đầu tư
trực tiếp vào đây.

I.2 Lý do tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc tế
Thông thường nhiều người cho rằng các công ty tiến hành quốc tế hóa hoạt động kinh
doanh của nó đều dựa trên một lý do duy nhất đó là việc tìm kiếm và khai thác lợi nhuận
từ các cơ hội kinh doanh trên thị trường hải ngoại. Tuy nhiên trong thực tế có rất nhiều
động lực dẫn đến hoạt động quốc tế hoá hoạt động kinh doanh của các công ty. Các động
lực nầy có thể được phân chia thành hai dạng: chủ động và thụ động. Trong từng dạng
như vậy người ta còn phân ra thành các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài.
I.2.1 Phản ứng chủ động
A. Nhân tố bên trong
 Vấn đề quản trị: Có lẽ một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho

một công ty đi vào hoạt động kinh doanh quốc tế đó chính là sự tìm kiếm những thị
trường mới để kinh doanh nhằm thỏa mãn những động cơ về quản trị; điều nầy không chỉ
diễn ra đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn mà còn là một động lực quan trọng đối
với những doanh nghiệp vừa và nhỏ nơi những người quản lý, đồng thời cũng là người
chủ luôn có một tinh thần mạo hiểm, chấp nhận rủi ro của một nhà doanh nghiệp.
 Hiệu quả kinh tế theo quy mô: Quá trình mở rộng các hoạt đông kinh doanh
quốc tế có lẽ là một con đường nhanh nhất để gia tăng doanh số, và như vậy nó sẽ tác
đông đến quy mô sản xuất của đơn vị. Trong một số ngành công nghiệp có tầm quan
trọng của hiệu quả kinh tế theo quy mô rất lớn thì việc đạt được điều nầy sẽ giúp cho
công ty hạ thấp phí tổn cho một đơn vị sản phẩm, làm gia tăng khả năng cạnh tranh của
công ty không những tại thị trường nội địa mà còn cả ở thị trường hải ngoại. Hiệu quả
kinh tế theo quy mô không chỉ diễn ra trong lĩnh vực sản xuất mà còn bao trùm sang
những chức năng khác của công ty. Ví dụ: chi phí nghiên cứu và phát triển phân bổ cho
một đơn vị sản phẩm sẽ nhỏ đi, các hoạt động quảng cáo trên tivi có thể sử dụng không
chỉ cho một thị trường.
 Hiệu quả kinh tế theo phạm vi: Thậm chí trong trường hợp hiệu quả kinh tề
theo quy mô không thể đạt được do công ty tiến hành hoạt động kinh doanh quốc tế phải
điều chỉnh sản phẩm nhằm thích nghi với yêu cầu riêng của từng quốc gia thì họ vẫn có
thể đạt hiệu quả kinh tế theo phạm vi bởi vì họ có thể sử dụng các nguồn lực, kỹ năng của
nhân công và kỹ thuật hiện có để tạo ra sản phẩm mới cho thị trường nước ngoài. Tuy
nhiên hiệu quả kinh tế theo phạm vi đôi lúc không xác thực một khi công ty mở rộng hoạt
động kinh doanh ra thị trường nước ngoài nó phải đầu tư mới hoàn toàn vào các nguồn
lực và kỹ năng.
 Hiệu ứng kinh nghiệm: Sự cần thiết để phát triển kỹ năng mới để có thể thành
công trên thị trường nước ngoài cũng có thể là một lợi thế của quá trình quốc tế hoá hoạt
động kinh doanh quốc tế nếu như những kỹ năng mới nầy có thể chuyển giao cho các đơn
vị hoạt động tại thị trường trong nước. Đối với một số công ty việc học tập kinh nghiệm


Quản trị Kinh doanh Quốc tế


CI.5

từ thị trường hải ngoại đôi khi lại là một nhân tố chủ yếu quyết định hành vi quốc tế hoá
hoạt động kinh doanh.
B. Nhân tố bên ngoài
 Cơ hội sinh lợi: Một lý do cổ điển khiến các công ty đi vào hoạt động kinh
doanh quốc tế đó là việc có thể bán thêm nhiều hàng hoá ở thị trường nước ngoài với một
mức sinh lợi cao. Vì thế nếu công ty nhận định rằng thị trường hải ngoại có rất nhiều
thuận lợi cho phép công ty gia tăng thêm lợi nhuận từ việc bán hàng (khách hàng triển
vọng, mức độ cạnh tranh không gay gắt, rào cản khi gia nhập dễ dàng vượt qua) thì động
lực nầy sẽ tác động mạnh mẽ đến quá trình quốc tế hoá hoạt động kinh doanh.
 Cơ hội gia tăng sản lượng: Bên cạnh cơ hội sinh lợi cao của thị trường nước
ngoài việc có cơ hội gia tăng sản lượng cũng là một nhân tố quyết định hành vi mở rộng
thị trường hải ngoại của MNC. Nếu hiệu quả kinh tế theo quy mô và phạm vi rất lớn thì
MNC sẵn lòng mở rộng thị trường ở hải ngoại thậm chí trong trường hợp tỷ suất lợi
nhuận cho đơn vị ở mức thấp.
 Phục vụ các khách hàng đã quốc tế hoá: Với tư cách là những khách hàng
quốc tế, các khách hàng nầy thường mua cùng loại sản phẩm hay dịch vụ một cách độc
lập với các quốc gia mà họ đang hoạt động. Ví dụ các nhà sản xuất xe hơi khi thiết lập chi
nhánh tại nước ngoài họ thường yêu cầu các nhà cung cấp các bộ phận, chi tiết cung cấp
nguồn lực đầu vào cho các nhà máy ở hải ngoại của họ. Tương tự như vậy, các công ty
quốc tế thường thích làm việc với cùng một cơ quan quảng cáo tại mọi quốc gia mà nó
hoạt động. Các công ty không sẵn lòng quốc tế hoá với các khách hàng của mình thì họ
có thể mất những khách hàng trung thành của mình vào những đối thủ cạnh tranh chào
mời những dịch vụ đa quốc gia.
 Lợi thế của việc phân bố địa lý: Sự hấp dẫn của thị trường hải ngoại không
chỉ ở chỗ nó cho phép các công ty kinh doanh quốc tế một cơ hội gia tăng doanh số, bên
cạnh đó nó còn cho phép các công ty nầy một lợi thế trong việc sử dụng các nguồn lực
đặc biệt rẻ tiền (con người, cơ sở vật chất, cơ sở vật chất cho hoạt động nghiên cứu, sự hỗ

trợ của nhà nước, các nguồn lực tự nhiên khác..). Nếu những nguồn lực ở hải ngoại nầy
tương đối không dịch chuyển trong khi việc sử dụng nó có thể dẫn đến một sự cải thiện
đáng kể về phương diện chi phí hoặc chất lượng sản phẩm của công ty thì việc quốc tế
hoá một số chức năng của công ty (thường là chức năng sản xuất và đôi khi là chức năng
nghiên cứu và phát triển) cần phải được xem xét.
 Kiểm soát đối thủ cạnh tranh: Thị trường hải ngoại bên cạnh việc chào mời
những cơ hội kinh doanh mới còn đặt ra những mối đe dọa đối với các đơn vị kinh doanh
hải ngọai. Hơn thế nữa thị trường hải ngọai còn là quê nhà của những đối thủ cạnh tranh
rất mạnh của MNC tại thị trường quốc tế. Do đó việc tiến hành thiết lập những chi nhánh
kinh doanh tại quê nhà của đối thủ cạnh tranh còn là một hành vi nhằm kiểm soát đối thủ
cạnh tranh ngay chính thị trường của họ. Bằng cách nầy họ có thể nhận định những
phương thức cạnh tranh mà đối thủ sẽ thực hiện để có thể đưa ra các đối sách phù hợp


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.6

trong hoạt động cạnh tranh không những tại thị trường quốc tế mà ngay chính tại thị
trường quê nhà của đối thủ cạnh tranh.
I.2.2 Phản ứng thụ động
A. Nhân tố bên trong
 Tác động kéo: Nếu như sự thúc đẩy của những động cơ về quản trị ở phần nêu
trên thể hiện một hành vi chủ động khi tham gia vào thị trường quốc tế của MNCs thì tác
động kéo thể hiện một hành vi thụ động của nhà quản trị. Một khi họ nhận thấy có rất
nhiều công ty trong ngành đi vào thị trường quốc tế thì nhiều nhà quản trị cũng cố gắng
làm theo để không phải mang tiếng là người lỗi thời hay là người đi sau các đơn vị khác
 Tồn kho quá mức : Là một lý do khá phổ biến ở nhiều công ty. Thật vậy, chỉ
có một số ít công ty thì hiếm khi đối đầu với việc thặng dư tồn kho, nhưng trong một số
ngành, tình trạng nầy luôn luôn phổ biếnở nhiều công ty. Thật vậy, những công ty với

chu kỳ sản xuất ngắn, ví dụ như ngành sản xuất quần áo thời trang hay sản phẩm điện tử
gia dụng, thường cố gắng tránh tình trạng sản phẩm của mình trở nên lỗi thời (bởi vì điều
nầy có thể huỷ hoại thị phần và danh tiếng của nó) do đó các nhà sản xuất cố gắng xuất
khẩu các hàng hóa trở nên lỗi thời sang thị trường nước khác. Mặt khác, trong một số
ngành mà chất lượng sản phẩm khó lòng đạt được sự ổn định trong quá trình sản xuất thì
họ sẽ cố gắng bán số sản phẩm không đạt chất lượng cao vào các thiị trường các nước
không có yêu cầu cao về phương diện chất lượng. Điều nầy cũng nhằm bảo vệ tiếng tăm
và mức giá ở các thị trường chủ yếu hay thị trường mục tiêu của họ.
 Dư thừa công suất : Để đối phó với vần đề tồn kho quá mức, nhiều công ty đã
chọn giải pháp hoạt động dưới mức công suất thiết kế; tuy nhiên giải pháp nầy là một giải
pháp kém hiệu quả bởi vì chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm sẽ cao. Ngoài giải
pháp nầy, MNC có thể chọn lựa cách giảm quy mô, sa thải công nhân. Tuy nhiên, có lẽ
giải pháp có lợi nhất chính là việc sử dụng phần công suất dư thừa cho thị trường hải
ngoại. Giải pháp nầy thường được ưa thích bởi các công ty mà việc giảm quy mô sản
xuất dẫn đến việc gia tăng chi phí kinh tế và xã hội. Đây cũng là một cách mà các công ty
có tình trạng dư thừa công suất theo mùa vụ thường sử dụng
 Phân tán rủi ro: Một số công ty thường quan niệm trong kinh doanh rằng
không nên đặt tất cả trứng vào một rổ vì như vậy sẽ gặp rất nhiều rủi ro. Để né tránh rủi
ro, các công ty có thể đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bằng cách đa dạng hóa chủng
loại sản phẩm hay đa dạng hóa thị trường theo khu vực hay quốc gia. Những công ty nào
muốn tập trung duy nhất vào một lĩnh vực kinh dooanh thì họ thường chọn giải pháp né
tránh rủi ro bằng cách quốc tế hóa hoạt động kinh doanh của mình.
B. Nhân tố bên ngoài
 Đơn hàng gia công đột xuất: Trong nhiều tình huống, ban đầu một công ty nào
đó không có ý định đi vào thị trường quốc tế nhưng vì một dịp tình cờ nào đó, họ nhận
được đơn hàng từ khách hàng nước ngoài và sản phẩm của họ được thị trường chấp nhận.
Từ đó họ bắt đầu xem thị trường nước ngoài như là một bộ phận chiến lược của nó.


Quản trị Kinh doanh Quốc tế


CI.7

 Sự không hấp dẫn của thị trường trong nước: Nhiếu nhà kinh doanh quốc tế
cho rằng nếu như cơ hội kinh doanh có hiệu quả ở thị trường nước ngoài gây nên tác
động “kéo” một công ty đi vào thị trường quốc tế thì việc thiếu những cơ hội gia tăng
doanh số tại thị trường nội địa là một nhân tố gây tác động “đẩy” công ty đi vào thị
trường nước ngoài. Sự không hấp dẫn của thị trường trong nước có thể do nhiều nguyên
nhân thuộc về cấu trúc của thị trường, ví dụ như: thị trường quá nhỏ, có rất ít cơ hội tăng
trưởng; hoặc nhu cầu tại thị trường nội địa bị giảm sút; hoạt động cạnh tranh rất gay gắt;
rào cản vào ngành rất thấp; đối thủ cạnh tranh rất nhiều; áp lực rất mạnh của tổ chức công
đoàn…. Sự không hấp dẫn của thị trường bị gây ra bởi những nhân tố nầy đã làm tăng
động cơ đi vào thị trường quốc tế của các công ty.
 Phản công trước đối thủ cạnh tranh: Thông thường khi một công ty bị tấn
công bởi công ty cạnh tranh nước ngoài họ sẽ hành động theo hai cách: phòng thủ hoặc
phản công. Chiến lược phòng thủ bao hàm việc tìm cách bảo vệ thị phần, né tránh cạnh
tranh trực diện…. Tuy nhiên cách phòng thủ tốt nhất chính là việc tấn công đối thủ ngay
trên quê hương của đối thủ. Theo cách nầy công ty nội địa sẽ tiến hành quốc tế hóa hoạt
động kinh doanh và cạnh tranh, sẽ tiến hành trận chiến ngay trên quê hương của đối thủ.
 Áp lực chính trị: Trong một số quốc gia, công ty còn bị áp lực của chính phủ
trong quá trình quốc tế hóa hoạt động kinh doanh quốc tế. Sự can thiệp nầy có thể xuất
phát từ những mục tiêu kinh tế ví dụ như chính phủ nầy mong muốn có nhiều ngoại tệ để
thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế thông qua xuất khẩu. Tuy nhiên nhiều công ty bị
áp lực quốc tế hóa hoạt động kinh doanh vì những lý do như tạo công ăn việc làm, hoặc
mục tiêu chính trị (địa vị và quyền lực quốc gia trên bình diện quốc tế).

I.3 Các hình thức quốc tế hóa hoạt động kinh doanh quốc tế
Quá trình quốc tế hóa hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty không những
khác biệt với nhau về phương diện lý do mà còn ở hình thức mà các công ty đó tiến hành
các hoạt động kinh doanh quốc tế. Một số công ty chỉ quốc tế hóa một số hoạt động tạo

giá trị gia tăng, trong khi đó một số khác thì quốc tế hóa toàn bộ các hoạt động của mình.
Điều nầy có thể được hình dung qua việc khảo sát các nội dung của các hình thức quốc tế
hóa hoạt động kinh doanh quốc tế như: Cho thuê bản quyền, xuất khẩu gián tiếp, trực
tiếp, và sản xuất tại chỗ.
I.3.1 Cho thuê bản quyền
Theo hình thức nầy công ty cho thuê bản quyền sẽ cho phép một công ty ở nước
ngoài sử dụng tên tuổi, nhãn hiệu sản phẩm để sản xuất và kinh doanh tại một khu vực
địa lý, hay quốc gia trong một thời gian nhất định. Những công ty tiến hành quốc tế hóa
hoạt động kinh doanh theo hình thức cho thuê bản quyền thì hiếm khi trở thành một đơn
vị kinh doanh quốc tế trọn vẹn theo ý nghĩa thực của nó, bởi vì hầu như không có hoạt
động chủ yếu nào của nó cần phải điều chỉnh cho thích hợp với điều kiện ở thị trường
nước ngoài. Nhìn chung lợi thế của hình thức cho thuê đó là nhu cầu thay đổi của tổ chức
thì tốt hơn, rủi ro thấp vì không cần phải tiến hành hoạt động đầu tư mới, tốc độ sản sinh
lợi nhuận cũng có thể nhanh hơn. Hình thức nầy được sử dụng khi chính phủ ở nước


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.8

ngoài áp đặt những giới hạn về nhập khẩu, hoặc chi phí vận chuyển làm cho hoạt động
xuất khẩu của MNC trở nên khó khăn hơn.
Hạn chế của hình thức nầy đó là việc thương lượng cho thuê bản quyền có thể kéo dài
trong khi đó những thỏa thuận về việc cho thuê bản quyền thì rất khó khăn để quản lý.
Hơn thế nữa, người thuê bản quyền có thể làm tổn hại đến người cho thuê ở một số khía
cạnh như: làm rò rỉ bí quyết công nghệ hay làm tổn hại đến uy tín của người cho thuê khi
họ sử dụng tên tuổi nhãn hiệu sản phẩm một cách không khôn ngoan; người thuê nhãn
hiệu sản phẩm có thể trở thành một đối thủ cạnh tranh tiềm năng với người cho thuê.
I.3.2 Xuất khẩu
Đặc trưng của hình thức xuất khẩu đó là sản phẩm vật chất sẽ vượt ra khỏi biên giới

quốc gia trong quá trình kinh doanh quốc tế. Phạm vi, mức độ xâm nhập vào thị trường
nước ngoài cũng như việc những hoạt động chủ yếu của công ty cần phải điều chỉnh cho
phù hợp với thị trường nước ngoài lệ thuộc vào hình thức xuất khẩu mà công ty lựa chọn.
Trong trường hợp xuất khẩu gián tiếp, phần lớn các nhiệm vụ hoạt động quốc tế được
thực hiện bởi đối tượng thứ ba (các đơn vị trung gian xuất khẩu) và công ty kinh doanh
nầy không thể nào biết được sản phẩm của mình được tiêu thụ như thế nào tại thị trường
hải ngoại. Trong trường hợp xuất khẩu trực tiếp, công ty sẽ tiến hành các chức năng
marketing và bán hàng sẽ được thực hiện trực tiếp với đối tác nước ngoài. Điều nầy đòi
hỏi cơ cấu tổ chức và chiến lược của công ty phải thay đổi cho phù hợp, và đáp ứng với
nhu cầu riêng biệt của thị trường hải ngọai. Đối với công ty nhỏ, sự hấp dẫn của hình
thức nầy xuất phát từ chỗ đây là một hình thức quốc tế hóa hoạt động kinh doanh đơn
giản, ít tốn kém, và mang tính chất tuần tự trong phát triển. Đối với những công ty lớn,
với kinh nghiệm quốc tế rộng khắp, nó có thể thực hiện việc tập trung hóa sản xuất tại
quốc gia phù hợp nhất. Tuy nhiên bản thân hình thức nầy có những nhược điểm của riêng
nó: nó rất nhạy cảm đối với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và những rào cản mậu dịch khác;
mặt khác sự thay đổi của tỷ giá hối đoái cũng gây ra những tác động bất lợi cho hoạt
động xuất khẩu. Hơn thế nữa, sự cách biệt về khoảng cách địa lý giũa hai địa điểm sản
xuất sẽ gia tăng chi phí vận chuyển, gây khó khăn cho việc phân phối hàng hóa; việc
khác biệt về triết lý, văn hóa sẽ dẫn đến việc khó khăn trong việc đáp ứng những nhu cầu
của thị trường địa phương.
I.3.3 Sản xuất tại chỗ
Đặc trưng cơ bản của hình thức nầy đó là cơ sở sản xuất được dịch chuyển ra nước
ngoài chứ không chỉ là sản phẩm. Có rất nhiều hình thức để tiến hành hoạt động sản xuất
tại chỗ, chúng bao gồm:
 Sản xuất theo dự án (Projects): Trong trường hợp nầy công ty kinh doanh
quốc tế sẽ phái những đơn vị di động đến nước ngoài để thực hiện những hợp đồng
ngắn hạn


Quản trị Kinh doanh Quốc tế


CI.9

 Hợp đồng sản xuất tại chỗ (Contract product) : Đối với dạng nầy, công ty
kinh doanh quốc tế sẽ tiến hành hợp đồng với một công ty nội địa để sản xuất các
mặt hàng mang nhãn hiệu và tên tuổi của mình.
 Thiết lập cơ sở sản xuất mới tại nước ngoài: Đơn vị mới nầy có thể thuộc sở
hữu 100% vốn của công ty kinh doanh quốc tế hoặc ở dạng liên doanh.
 Mua cổ phần: Theo hình thức nầy, công ty kinh doanh quốc tế sẽ tiến hành
việc mua cổ phần của một công ty nội địa hiện đang có sẵn. Thông qua việc nắm cổ
phần chi phối, công ty kinh doanh quốc tế có thể đưa dần việc sản xuất các mặt hàng
của mình đến thị trường của công ty nội địa.
Trong hình thức sản xuất tại chỗ, hàng loạt các hoạt động tạo giá trị gia tăng được
thực hiện tại nước ngoài, điều nầy đòi hỏi công ty kinh doanh quốc tế phải có những sự
thay đổi thích hợp trong cơ cấu tố chức. Thuận lợi của hình thức nầy chính là việc giảm
chi phí vận chuyển, rút ngắn thời gian phân phối, né tránh được các rào cản đối với mậu
dịch, tạo lập được mối quan hệ với khách hàng và các kênh phân phối hàng hóa tại địa
phương…. Tuy nhiên nhược điểm cơ bản của hình thức nầy đó là sự phức tạp của cơ cấu
tổ chức để thực hiện việc quản lý ra khỏi phạm vi quốc gia, hiệu quả kinh tế theo quy mô
có thể thấp, mức độ rủi ro trong đầu tư có thể cao hơn.

I.4 Lợi thế cạnh tranh quốc tế:
I.4.1 Lợi thế cạnh tranh và nguồn lực tạo lợi thế cạnh tranh
Sự thành công của một công ty bất kể ở thị trường trong hay ngoài nước sẽ lệ thuộc
rất lớn vào việc nó có tạo dựng và duy trì lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ của nó hay
không. Theo Michael Porter, có hai loại lợi thế cạnh tranh cơ bản: lợi thế dựa vào việc
duy trì một chi phí sản xuất thấp và lợi thế dựa trên việc khác biệt hóa sản phẩm so với
đối thủ cạnh tranh; trên cơ sở của việc khác biệt hóa đó, công ty có thể đặt một giá cao để
bù đắp cho việc tạo ra sự khác biệt đó. Một công ty tồn tại và phát triển trên thị trường
quốc tế có thể dựa vào một trong hai lợi thế nầy hoặc sở hữu cả hai loại lợi thế cạnh tranh

đó.
Để thông hiểu về lợi thế cạnh tranh của công ty kinh doanh quốc tế, điều quan trọng
nhất theo De Wit và Mayer (1994) đó là việc một mặt phải xác định cho được vị thế cạnh
tranh tương đối của công ty so với ngành mà nó đang hoạt động (triển vọng về vị trí), mặt
khác phải xác định những nguồn lực bên trong để phát triển vị thế cạnh tranh nầy. Các
nguồn lực bên trong bao gồm tài sản, tài năng (competences), và năng lực (capabilities).
Tài sản của công ty được hiểu ở đây bao gồm các loại tài sản vô hình và hữu hình mà
nhà quản trị có thể sử dụng được. Những loại tài sản nầy được thể hiện trên bản tổng kết
tài sản của công ty; các loại tài sản hữu hình sẽ bao gồm: máy móc thiết bị, tiền bạc, nhà
xưởng, vật tư,…. Và tài sản vô hình sẽ bao gồm: nhãn hiệu, sự độc quyền về phát minh,
tên tuổi công ty…. Những loại tài sản nầy có thể xác định giá trị thị trường của nó và có
thể bán cho những công ty khác.


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.10

Riêng đối với yếu tố tài năng của công ty, ngược lại, nó bao gồm những tài sản vô
hình mà việc chuyển giao chúng cho một công ty khác thì rất khó khăn. Yếu tố tài năng ở
đây bao gồm tất cả những bí quyết về kỹ thuật, công nghệ, và kỹ năng mà công ty đang
sở hữu. Ví dụ Công ty Honda thì rất nỗi tiếng về việc am hiểu các bí quyết trong ngành
sản xuất xe gắn máy, Sony thì sở hữu các bí quyết kỹ thuật trong sản xuất các sản phẩm
điện tử thu nhỏ, Phillips thì rất nỗi tiếng trong lĩnh vực điện tử cảm quang. Những yếu tố
thuộc về tài năng nầy của một công ty không thể nào trao đổi hay mua bởi hai lý do: ( i)
Chỉ có một số ít tài năng nầy thuộc về một vài con người nào đó trong công ty, trong khi
đó phần lớn tài năng nầy được gắn liền với một tập thể lao động, với cấu trúc và quy trình
của hệ thống sản xuất.
(ii) Những yếu tố tài năng thông thường dựa trên một khối lượng kiến thức ngầm
được tích lũy lâu dài, chúng không thể mã hóa hay phân loại được, và cũng không thể

nào diễn đạt ra bằng văn bản được, do đó việc bán chúng là một điều rất khó khăn.
Cũng tương tự như yếu tố về tài năng, yếu tố về năng lực cũng là một yếu tố không
thể mua bán được. Nếu như yếu tố tài năng thể hiện những kỹ năng về phương diện kỹ
thuật, thì yếu tố thể hiện các kỹ năng về phương diện quản trị; yếu tố nầy thể hiện khả
năng quản trị quy trình kinh doanh của công ty. Ví dụ như công ty Mc Donald thì rất nỗi
tiếng trong lĩnh vực quản trị hệ thống đại lý độc quyền của mình, Honda thì nỗi tiếng
trong việc thực hiện và giới thiệu các sản phẩm của mình một cách nhanh chóng. Những
yếu tố thuộc về năng lực nầy thậm chí còn khó chuyển đổi, mua bán hơn cả yếu tố tài
năng bởi vì chúng được hình thành gắn liền với phong cách, văn hóa của công ty. Do đó
việc bắt chước một hệ thống quản lý mới và thành công của một công ty khác sẽ đòi hỏi
công ty đang xem xét phải thay đổi cách tiếp cận trong vấn đề kinh doanh và đây là một
quá trình vô cùng khó khăn.
I.4.2 Nhân tố tác động đến việc hình thành lợi thế cạnh tranh
Để có thể sử dụng các nguồn lực bên trong nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của
mình trên thị trường quốc tế, các công ty không những cần phải cố gắng phát triển hay sở
hữu cho được những nguồn lực đặc thù riêng biệt từ đó mới có thể tạo lợi thế trên cơ sở
phí tổn thấp hay sự khác biệt về sản phẩm mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực
học tập và cải tiến. Về nguyên tắc, mỗi công ty hình như đều có một cơ hội ngang bằng
nhau trong trong việc cải tiến và phát triển lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên thực tế cho thấy
trong mỗi ngành công nghiệp chỉ tồn tại một vài công ty thành công và chúng ít khi nào
phân tán một cách ngẫu nhiên trên thế giới. Thật vậy, trong nhiều ngành công nghiệp, các
công ty thành công thường phát sinh chỉ từ một số ít quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực nầy
trên thế giới. Ví dụ như ngành công nghiệp điện ảnh thì tập trung cao độ tại Hollywood,
việc sản xuất máy ghi hình thường tập trung vào một vài công ty hàng đầu của Nhật Bản,
và gần như 75% sản lượng hoa xuất khẩu thì xuất phát từ Hà lan. Điều nầy đã tạo nên
một giả thuyết đó là chỉ có một vài quốc gia hay khu vực thì thích hợp cho việc phát triển
lợi thế cạnh tranh đặc biệt cho một ngành nào đó so với các quốc gia và khu vực còn lại.


Quản trị Kinh doanh Quốc tế


CI.11

Theo quan điểm truyền thống của các nhà kinh tế cổ điển, họ thường nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của các nhân tố sản xuất như là một nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh.
Họ thường coi trọng đến sự sẵn có của các yếu tố sản xuất như đất đai, vốn, và lao động
(những yếu tố thuộc về tài sản hữu hình). Tuy nhiên, sự khác biệt trong việc phân bố trên
bình diện quốc tế các yếu tố nầy chỉ lý giải một phần rất nhỏ hoạt động mậu dịch quốc tế
và lợi thế cạnh tranh. Rõ ràng Hollywood không có những yếu tố thuận lợi cho việc sản
xuất phim ảnh, và chúng ta cũng rất khó khăn để giải thích tại sao Nhật Bản lại thành
công trong việc sản xuất máy ghi hình nếu xét theo sự thuận lợi về việc phân bố các yếu
tố sản xuất truyền thống. Càng khó khăn hơn nữa khi giải thích sự thành công của ngành
công nghiệp trồng hoa tại Hà lan bởi vì đất đai và lao động tại Hà Lan thì không rẻ nếu so
sánh với những nơi khác.
Để giải thích hiện tượng này, Michael Porter (1990) cho rằng chi phí và sự sẵn có của
các yếu tố sản xuất chỉ là một trong nhiều nguồn lực tại chỗ quyết định lợi thế cạnh tranh,
và không phải là một yếu tố quan trọng so với các yếu tố khác. Năng lực cạnh tranh của
công ty phụ thuộc nhiều vào khả năng cải tiến một cách liên tục, ông nhấn mạnh đến tác
động của môi trường quốc gia đến việc thực hiện các cải tiến liên tục của công ty thông
qua các điều kiện của một quốc gia. Các điều kiện đó bao gồm các nhân tố như sau:
 Điều kiện về các nhân tố sản xuất: các nhân tố sản xuất thì không bao giờ
đồng nhất, chính vì sự không đồng nhất đó nó sẽ giúp cho một công ty tại quốc gia
nào đó sẽ có lợi thế cạnh tranh về phương diện chi phí hoặc do sự sẵn có của nguồn
lực tài nguyên đó. Ví dụ như một quốc gia có hệ thống giáo dục tốt có thể sẽ gia tăng
được năng lực cải tiến chất lượng của lao động, trong khi đó một hệ thống cơ sở hạ
tầng phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các hệ thống kinh doanh mới. Nói tóm
lại, một tình trạng hoàn hảo của các yếu tố sản xuất sẽ có một tác động tích cực vào
năng lực cải tiến của một quốc gia.
 Điều kiện về nhu cầu: Tình trạng hoàn hảo của khách hàng và các kênh phân
phối cũng có một tác động tích cực đến việc tạo lợi thế cạnh tranh cho một ngành

công nghiệp tại một quốc gia. Nhu cầu của khách hàng càng phức tạp và càng đặc thù
thì càng thúc đẩy các công ty phải gia tăng cải tiến; nếu khách hàng càng có những
phản ảnh về sản phẩm, hệ thống phân phối … của công ty thì công ty càng có điều
kiện không những nhận dạng những điểm yếu của mình để khắc phục mà còn xác
định được nhu cầu mới trong tương lai tại thị trường nội địa và hải ngoại.
 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan: Năng lực thực hiện cải tiến
của các công ty luôn được hỗ trợ và khuyến khích bởi tình trạng hoàn hảo của các nhà
cung cấp. Một công ty có quan hệ cùng phối hợp hoạt động với những nhà cung cấp
hàng đầu tại địa phương thì càng có điều kiện và cơ hội thực hiện các cải tiến của
mình. Ví dụ những hãng sản xuất phim tại Hollywood luôn có những cải tiến trong
phim ảnh bởi vì nó có mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các đơn vị cung cấp các
phương tiện hoạt động hàng đầu tại địa phương, đội ngũ những diễn viên đóng thế, và
các công ty xây dựng chuyên thiết kế phim trường theo những yêu cầu đặc biệt khác;
hoặc các nhà trồng hoa Hà Lan có thể đạt được vị thế dẫn đầu nhờ vào một mối quan
hệ rất tốt với các nhà cung cấp giống mới, các nhà xây dựng nhà kính để trồng hoa,


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.12

các công ty sản xuất thuốc diệt côn trùng. Bên cạnh những nhà cung cấp (hay các
ngành công nghiệp hỗ trợ), sự phát triển của các ngành có liên quan cũng tạo động
lực cho việc thực hiện các cải tiến liên tục, ví dụ trong trường hợp ngành công nghiệp
giải trí tại California đã được hỗ trợ rất nhiều bởi các ngành có liên quan như: các
công viên văn hóa, hệ thống các ban nhạc rock, hệ thống trò chơi điện tử.
 Chiến lược công ty, cấu trúc ngành, mức độ cạnh tranh: Mức độ cạnh tranh
mà một công ty phải đối đầu tại thị trường trong nước cũng là một động lực thúc đẩy
các công ty cải tiến không ngừng. Nếu công ty phải tiến hành một cuộc đấu tranh lâu
dài với các đối thủ đầy tiềm năng và năng động thì tình huống nầy đòi hỏi công ty

phải thực hiện mọi nỗ lực tốt nhất để thực hiện các cải tiến, thậm chí một công ty vẫn
có thể có lợi ích từ những cải tiến của các đối thủ cạnh tranh khác nếu như công ty có
thể kiểm soát chặt được những đối thủ cạnh tranh của mình. Ngoài ra công ty có thể
thu được những ích lợi từ cách thức tiến hành các hoạt động kinh doanh tại một quốc
gia nào đó nếu như phương thức quản trị và cấu trúc tổ chức tại các quốc gia đó phù
hợp với nhu cầu của ngành đó. Ví dụ các nhà trồng hoa của Hà Lan thường hoạt động
với một quy mô nhỏ và linh hoạt, tuy giữa họ có sự cạnh tranh với nhau nhưng họ lại
phối hợp hoạt động với nhau trong một tổ chức bán đấu giá và điều nầy đã đảm bảo
chất lượng và danh tiếng của ngành trồng hoa tại Hà Lan
 Các cơ may và chính sách của Nhà Nước: Những cơ may đột xuất trong lịch
sử và các chính sách của Nhà nước không những có tác động vào năng lực của công
ty trong việc cải tiến năng lực cạnh tranh mà còn tác động đến các nhân tố khác đã
nêu ở trên. Ví dụ trong ngành trồng hoa của Hà Lan, người ta nhận thấy rằng hoa có
nguồn gốc xuất phát từ Thỗ Nhĩ Kỳ và được đưa đến Hà Lan chỉ bằng một sự tình cờ
nhưng người Hà Lan đã giành lấy lợi thế cạnh tranh quốc tế trong việc sản xuất loại
hoa nầy nhờ vào sự phức tạp và đa dạng của nhu cầu tại địa phương và sự năng động
của các nhà sản xuất hoa tại đây. Tương tự như vậy, nhà nước, bằng qua những chính
sách của mình, có thể tăng cường lợi thế cạnh tranh của quốc gia thông qua việc đầu
tư nhằm tạo ra các yếu tố sản xuất có chất lượng ngày càng cao hơn, thông qua việc
tác động đến mục tiêu của các nhà kinh doanh, các công ty, thông qua vai trò của nhà
nước với tư cách là một người mua hay là người tác động đến nhu cầu của người
mua, thông qua những chính sách khuyến khích cạnh tranh hay trong việc định hướng
phát triển những ngành công nghiệp có liên quan và hỗ trợ cho ngành có lợi thế cạnh
tranh….

II. Công ty đa quốc gia (MNC)
II.1 Bản chất cuả MNC
MNC thường được hiểu là một công ty đặt trụ sở tại một nước nhưng lại có những
hoạt động sản xuất kinh doanh tại những nước khác. Đôi lúc người ta sẽ băn khoăn không
biết một công ty nào đó có phải là MNC hay không bởi vì thuật ngữ đa quốc gia bao hàm

một ý nghĩa công ty đó phải có phần sở hữu của nước ngoài. Để có thể thông hiểu vấn đề
nầy, chúng ta cần khảo sát các đặc điểm của MNC ở phần sau.


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.13

II.1.1 Đặc điểm của MNC
Cho đến hiện nay các số liệu thống kê về MNCs thì có nhiều khác biệt, điều nầy tùy
vào tiêu thức phân loại, tuy nhiên các số liệu về 500 MNC hàng đầu thì đều được mọi
người thừa nhận. Những công ty nầy chi phối khoảng 80% lượng đầu tư trực tiếp của thế
giới. Trong số đó có 414 công ty thuộc về các cường quốc kinh tế (Hoa Kỳ, Nhật Bản, và
EC). Theo số liệu của tạp chí Fortune vào ngày 26/7/1993 sự phân bố của MNCs nầy như
sau: 161 công ty thuộc Hoa Kỳ, 128 thuộc Nhật Bản, và 125 công ty thuộc 12 nước thành
viên của EC. Tổng doanh số hàng năm của các công ty nầy (số liệu 1992) chiếm trên
5.000 tỷ USD và chúng sử dụng trên 25 triệu lao động. Những công ty nầy hoạt động trên
các lĩnh vực như ô tô, hóa chất, computer, hàng hóa tiêu dùng, thiết bị công nghiệp, dầu
hỏa và sản xuất sắt thép.
Một trong những phương thức được sử dụng để nhận dạng các đặc điểm của MNC
chính là việc nhìn vào môi trường mà chúng hoạt động. Môi trường hoạt động nầy có thể
được xem xét theo sơ đồ sau:
Nước chủ nhà

Cổ đông

Nước khách

1. Đối thủ cạnh tranh


MNC

1. Đối thủ cạnh tranh

2. Khách hàng

2. Khách hàng

3.Chi nhánh trong nước

3. Chi nhánh nước ngoài

4. Nhà cung ứng
5. Nhà nước

Các ngân hàng

4. Nhà cung ứng
5.Nhà nước

Đối với một MNC chúng ta cần xem xét hai địa bàn quan trọng: nước chủ nhà là nơi
mà MNC ra đời và đặt trụ sở chính tại đó, và nước khách là nơi mà MNC tiến hành hoạt
động kinh doanh. Riêng các cổ đông không thể hiện ở hai khu vực/địa bàn nêu trên bởi vì
những cổ đông nầy có thể đến từ bất kỳ nơi nào trên thế giới. Ví dụ, một nhà đầu tư tại
Thụy Sĩ có thể mua cổ phần của công ty Sears Roebuck mặc dù công ty nầy không hề
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Thụy Sĩ.
Một trong những đặc điểm của MNC chính là các chi nhánh của nó phải chịu tác
động của các áp lực môi trường quan trọng như các đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà
cung ứng, các tổ chức tài chính, và nhà nước kể cả trong và ngoài nước. Trong một số
trường hợp, các áp lực tương tự nhau cùng hiện hữu tại nước nhà và nước khách. Ví dụ,

rất nhiều đối thủ cạnh tranh của công ty GMC tại thị trường Hoa Kỳ thì cũng tương tự
như tại thị trường Châu Âu: Ford, Chrysler, Honda, Volkswagen, và Volvo. Tương tự
như vậy, các công ty thường sử dụng cùng một nhà cung ứng kể cả cho thị trường trong
và ngoài nước.
Một đặc điểm thứ hai của MNC đó là các chi nhánh của chúng cùng sử dụng một
nguồn lực chung, các nguồn lực nầy bao gồm các tài sản hữu hình, sáng chế, nhãn hiệu,
thông tin, và nhân lực. Do các chi nhánh là một bộ phận của MNC cho nên nó được
quyền sử dụng những tài sản mà các đơn vị bên ngoài không được quyền sử dụng. Ví dụ,


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.14

cả Ford và GMC cạnh tranh với nhau rất quyết liệt tại thị trường EC và rất nhiều kiểu
dáng được thiết kế và phát triển tại thị trường EC cũng đã được sử dụng tại thị trường
Hoa Kỳ. Mặt khác dòng thông tin hai chiều giữa thị trường EC và Hoa Kỳ do các chi
nhánh thực hiện đã góp phần phát triển một thị trường thế giới hoàn chỉnh. Tương tự như
vậy, nếu một chi nhánh tại Nhật Bản cần mở rộng ngân quỹ, MNC sẽ xem xét khả năng
vay nguồn ngân quỹ nầy tại thị trường địa phương có thấp hay không, nếu không thì
MNC sẽ sử dụng nguồn lực từ công ty để cho chi nhánh nầy sử dụng.
Một đặc điểm thứ ba của MNC chính là các chi nhánh của MNC được liên kết với
nhau bởi một sứ mệnh chiến lược chung. Mỗi MNC sẽ xây dựng một kế hoạch chiến lược
để phối hợp hoạt động của các chi nhánh một cách đồng bộ và có hiệu quả nhất. Tùy theo
đặc điểm của từng MNC, các kế hoạch chiến lược nầy sẽ được xây dựng một cách tập
trung hay phân quyền từ cơ sở. Một số MNC kết hợp cả hai phương thức nầy trong việc
xây dựng kế hoạch chiến lược, tiêu biểu cho sự kết hợp nầy đó là cách làm của GMC.
II.1.2 Vì sao một công ty kinh doanh nội địa mong muốn trở thành một MNC?
Có nhiều lý do khiến một công ty kinh doanh mong muốn trở thành một MNC. Lý do
đầu tiên chính là việc bảo vệ cho chính nó trước những rủi ro và sự không ổn định của

của chu kỳ kinh doanh trong nước. Bằng cách thiết lập các cơ sở kinh doanh ở hải ngoại
họ có thể tránh được những rủi ro khi chỉ kinh doanh ở một thị trường, đây chính là hình
thức đa dạng hóa hoạt động kinh doanh.
Lý do thứ hai chính là việc nắm bắt và chinh phục các thị trường đang tăng trưởng
trên thế giới. Đây chính là một bộ phận của quá trình toàn cầu hóa. Rất nhiều MNC hiện
nay đang chọn Hoa Kỳ là một thị trường mục tiêu bởi dân số của quốc gia nầy thì đông
và quan trọng hơn nữa là thu nhập bình quân đầu người thì rất cao. Cũng với một lý do
tương tự như vậy, các MNC của Hoa Kỳ thì nhắm vào thị trường của EC và Châu Á như
là một thị trường mục tiêu kể từ những năm 1990, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, một
thị trường lớn và có nhu cầu đa dạng.
Lý do thứ ba chính là việc phản ứng trước những áp lực cạnh tranh ngày càng gia
tăng từ những đối thủ cạnh tranh bên ngoài và bảo vệ thị phần của mình trên thị trường
thế giới. Sử dụng chiến lược “theo đuổi các đối thủ cạnh tranh”, MNCs sẽ thiết lập các
chi nhánh của mình tại quê hương của đối thủ cạnh tranh. Cách tiếp cận nầy nhằm hai
mục đích: (i) Giành lấy thị phần từ đối thủ cạnh tranh; (ii) Cảnh báo cho đối thủ cạnh
tranh rằng nếu họ tấn công MNC tại thị trường nội địa của MNC thì đối thủ cạnh tranh sẽ
bị một hành động trả đũa tương tự tại quê nhà của nó.
Lý do thứ tư xuất phát từ động cơ muốn giảm phí tổn. Bằng cách đặt những cơ sở
kinh doanh gần với khách hàng, MNC có thể giảm chi phí vận chuyển, tránh được những
chi phí phát sinh cho những kênh phân phối trung gian, đáp ứng được những thay đổi về
thị hiếu của khách hàng, và cuối cùng là việc sử dụng được những nguồn lực rẻ tiền tại
địa phương.
Lý do thứ năm xuất phát từ mục tiêu vượt qua rào cản thuế quan. Thị trường của EC
là một ví dụ rất tốt cho lý do nầy. Thật vậy, các công ty không hoạt động sản xuất tại EC


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.15


luôn là một đối tượng chịu thuế cao và một hạn ngạch nhập khẩu nghiêm ngặt nhưng nếu
công ty nầy hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp tại EC thì nó có thể vận chuyển hàng
hóa dễ dàng sang các nước khác thuộc EC mà không vấp phải một rào cản nào. Tình hình
tương tự như vậy tại thị trường Bắc Mỹ với khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ ( gồm Hoa
Kỳ, Canada, và Mehico)
Lý do thứ sáu khiến một công ty mong muốn trở thành MNC xuất phát từ việc muốn
nắm lấy lợi thế về phương diện kỹ thuật và công nghệ bằng cách sản xuất hàng hóa một
cách trực tiếp ở nước ngoài thay vì cho phép người khác làm việc đó thông qua việc cho
thuê bản quyền về công nghệ. Một thỏa thuận cho thuê bản quyền là một dạng hợp đồng
mà ở đó người cho thuê sẽ cho phép người đi thuê được sử dụng bản quyền về nhãn hiệu,
phát minh, hoặc công nghệ để sản xuất và họ sẽ thu một lệ phí đối với người đi thuê.
Khoản lệ phí nầy là một khoản thu cố định, hoặc một khoản thu tính theo một tỷ lệ phần
trăm so với doanh thu phát sinh và có thể kéo dài trong một thời gian thông thường từ 5 –
7 năm, sau thời gian đó hợp đồng cho thuê có thể được xem xét để kéo dài thêm. Mặt dù
ích lợi của hình thức cho thuê bản quyền thì rất rõ ràng, nhưng trong thời gian gần đây,
các MNC nhận thấy rằng việc cho thuê nầy có thể gây một nguy cơ lớn đó là việc tạo ra
các đối thủ cạnh tranh tiềm năng
II.1.3 Triết lý chiến lược của MNC
MNCs thì hoàn toàn khác biệt với những coông ty nội địa, là những công ty giới hạn
hoạt động của mình chỉ ở thị trường nội địa, ở chỗ MNC không bao giờ giới hạn hoạt
động của mình trên cơ sở thị trường nội địa. MNC đưa ra quyết định dựa trên cơ sở vì lợi
ích của nó hơn là lợi ích quốc gia. Thậm chí MNC sẵn sàng chuyển giao ngân quỹ và tạo
ra công ăn việc làm tại hải ngoại thay vì tại quốc gia nó ra đời nếu như nó tìm được lợi
nhuận hấp dẫn hơn ở thị trường nước ngoài. Ví dụ IBM đã biệt phái khoảng 120 chuyên
gia và 10 tỷ USD sang EC để đầu tư cho hoạt động kinh doanh viễn thông tại đây trong
vòng một năm (Robert B. Reich, “Who is them?” Harvard Business review, March-April
1991, p.77) thay vì đầu tư tại Hoa Kỳ.
Chiến lược nầy không chỉ được một mình IBM áp dụng. Nhiều công ty khác trong
qúa trình đầu tư của mình đã tạo nên nhiều công ăn việc làm tại thị trường hải ngoại. Ví
dụ tại Nhật Bản, Xerox đã có trên 12.000 lao động, Texas Instrument có hơn 5.000 lao

động, Hewlett – Parkard có trên 3.000 lao động. Nói chung nhiều công ty Hoa Kỳ đã thuê
một lực lượng lao động là người Nhật một cách đáng kể. Tình trạng của các công ty
ngoại quốc kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ cũng đã nói lên một điều tương tự. Cụ thể,
năm 1990 có khoảng 640 công ty tại Hoa Kỳ thuộc sở hữu hoàn toàn, hoặc một phần bởi
người Nhật, và những công ty nầy đã sử dụng khoảng 160.000 công nhân là người Mỹ,
và hơn 100 liên doanh Nhật – Mỹ cũng đã thiết lập trong năm 1990. Một dự báo cho rằng
đến cuối thế kỷ thứ 20 sẽ có trên 800.000 nhân công Hoa Kỳ sẽ làm việc tại các công ty
Nhật Bản. Nếu xét tổng quát thì các công ty có nguồn gốc nước ngoài cho đến năm 1989
đã sử dụng khoảng 3 triệu nhân công người Mỹ. Cũng trong năm 1989, số lượng công
việc được tạo ra bởi các công ty sản xuất có nguồn gốc nước ngoài đã cao hơn số lượng
công việc được tạo ra bởi các công ty có nguồn gốc Hoa Kỳ.


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.16

Đôi khi một số dự án kinh doanh quốc tế lại sử dụng nhân công từ hàng loạt nước
khác. Ví dụ, một loại xe hơi thể thao của Mazda, loại MX – 5 Miata, được thiết kế tại
California, nhưng chi tiết được tạo ra tại Anh, lắp ráp tại Michigan và Mehico, loại xe hơi
nầy lại sử dụng các bộ phận điện tử được sáng chế tại New Jersey và được chế tạo tại
Nhật Bản. Tương tự như vậy, loại xe ăn khách của Chevrolet – Geo Metro – được thiết kế
tại Nhật Bản, và chế tạo tại Canada bởi một nhà máy do công ty Suzuki sở hữu. Hoặc
trong trường hợp của Boeing thì loại máy bay nầy được thiết kế tại bang Washington và
Nhật Bản, nhưng lắp ráp tại Seatle với chóp đuôi làm từ Canada, một số chi tiết phần
đuôi lại được sản xuất tại Trung Quốc và Italy, và đầu máy thì được làm từ Anh. Nói
cách khác, MNC sẽ tiến hành các hoạt động và thoả thuận sao cho nó có lợi nhất, thậm
chí điều nầy sẽ dẫn đến sự hợp tác của nhiều công ty thuộc từ 3 cho đến 4 quốc gia khác
nhau. Điều nầy là một thực tế hiển nhiên được tiến hành bởi các MNC bất kể quy mô của
nó là lớn hay nhỏ.


II.2 Các hình thức hoạt động của MNC
Để tiến hành quá trình đầu tư trực tiếp và kinh doanh tại hải ngoại, MNCs có nhiều
cách lựa chọn hình thức sở hữu, từ việc sở hữu 100% vốn cho đến việc mua cổ phần từ đa
số đến thiểu số. Với sự cạnh tranh quốc tế ngày càng mãnh liệt, rủi ro khi bước vào thị
trường, sự phát triển sản phẩm ngày càng đa dạng…, nhiều công ty xem xét việc hợp tác
hay liên minh quốc tế giữa các công ty như là một cứu cánh để giảm thiểu rủi ro. Các
hình thức hoạt động đó sẽ được phân tích sau đây.
II.2.1 Sở hữu 100% vốn
Đối với nhiều MNC giải pháp lập một chi nhánh 100% vốn là một giải pháp được
nghĩ đến đầu tiên khi tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp. Điều nầy xuất phát từ một số
lý do: (i) Tư tưởng vị tộc khi định hướng chiến lược kinh doanh quốc tế; (ii) Vấn đề tài
chính. Ví dụ, một số quản trị gia của IBM cho rằng nếu họ chia sẻ một phần sở hữu của
họ cho phía đối tác nước ngoài, họ sẽ tạo ra một tiền lệ cho việc chia sẻ quyền sở hữu và
kiểm soát với đơn vị kinh doanh bản xứ và điều nầy thường dẫn đến một sự gia tăng phí
tổn cao hơn là những lợi ích có thể có được.
Để có thể có một quyết định hợp lý khi quyết định mức độ mở rộng quyền sở hữu,
quản trị gia của các MNC thường phải xem xét một mức độ kiểm soát như thế nào là cần
thiết cho sự thành công của công ty trong hoạt động kinh doanh và marketing quốc tế.
Thông thường việc sở hữu 100% vốn là một điều mong đợi nhiều nhất nhưng không phải
lúc nào cũng nhất thiết như vậy. Thật ra việc sở hữu 100% vốn thật sự cần thiết khi có
một mối liên hệ rất mật thiết tồn tại giữa các đơn vị trong một MNC.
Tuy nhiên một điều mà các MNC cần lưu ý đó là hình thức 100% vốn có thể gặp một
số trở ngại xuất phát từ sự không thiện cảm của môi trường quốc tế: Nhà nước có thể giới
hạn hoạt động kinh doanh trong một số lĩnh vực, có chính sách phân biệt trong đối xử,
hạn chế việc chuyển giao lợi nhuận trở về nước….


Quản trị Kinh doanh Quốc tế


CI.17

II.2.2 Liên minh chiến lược
Liên minh chiến lược là một hình thức hợp tác – chính thức hay phi chính thức – giữa
hai hay nhiều hơn hai công ty có cùng một mục tiêu kinh doanh. Liên minh chiến lược có
thể thực hiện theo các mức độ từ phi chính thức cho đến việc cùng tham gia cổ phần.
Lý do để thực hiện một liên minh chiến lược cũng rất đa dạng: (i) Mong muốn xâm
nhập và mở rộng thị trường: tại Nhật Bản, Motorola đã phối hợp hoạt động với Toshiba
trong việc sản xuất chip điện tử nhằm giành lấy một thị phần lớn hơn; (ii) Nhằm bảo vệ
thị trường nội địa: Ví dụ, do không có những đơn hàng xây dựng các nhà máy năng lượng
hạt nhân, Bechtel Group đã liên kết với Siemens của Đức để cung cấp các dịch vụ cho
các nhà máy hiện hữu tại Hoa Kỳ; (iii) Chia sẻ các rủi ro trong những nỗ lực sản xuất và
phát triển: Texas Instrument và Hitachi đã thành lập chung một nhóm phát triển những
loại chip bộ nhớ thế hệ mới; (iv) Thực hiện liên minh chiến lược nhằm ngăn chặn và vượt
qua đối thủ cạnh tranh: Ví dụ, Caterpillar đã thiết lập một liên doanh với Mitsubishi trong
việc sản xuất các thiết bị trong công nghiệp nặng để phản công lại đối thủ cạnh tranh chủ
yếu trên toàn cầu của mình là công ty Komatsu ngay trên quê hương của nó.
Các hình thức của liên minh chiến lược bao gồm:
Hợp tác phi chính thức: Theo hình thức nầy các đối tác sẽ làm việc với nhau theo
một thỏa thuận ràng buộc. Thỏa thuận nầy có thể diễn ra theo hình thức trao đổi thông tin
về sản phẩm mới, công nghệ, kỹ thuật, trao đổi chuyên gia. Sự hợp tác theo hình thức nầy
thường thích hợp cho những đối tác thực sự không đe dọa lẫn nhau tại thị trường của mỗi
nước và quy mô của những đối tác nầy ở dạng trung bình.
Hợp tác theo hợp đồng: Theo hình thức nầy, các đối tác có thể ký các hợp đồng hợp
tác trên lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu và phát triển, marketing…. Nestle và General Mills
đã ký một thỏa thuận để sản xuất hai loại sản phẩm Honey Nut Cheerios và Golden
Grahams tại nhà máy của General Mills tại Hoa Kỳ, các sản phẩm nầy sẽ được vận
chuyển không đóng thành bao đến Châu Âu để đóng gói ở nhà máy của Nestle và sau đó
sẽ được bán tại Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha bởi hãng Nestle. Thỏa thuận nầy cho
phép cả hai có thể thực hiện được các mục tiêu của cả đôi bên. Các công ty cũng có thể

thực hiện các thỏa thuận hai chiều để mỗi bên có thể khai thác thị trường lẫn nhau. Ví dụ,
AT & T và Olivetti đã có những thỏa thuận về marketing chéo cho nhau tại cả hai thị
trường Hoa Kỳ và Châu Âu. Trong lĩnh vực dịch vụ, các hãng hàng không đã có những
thỏa thuận cho phép đối tác sử dụng các trung tâm bay của nhau, phối hợp lịch bay, và sử
dụng chung loại vé.
Mua cổ phần: Nhiều MNC đã thực hiện việc mua cổ phần thiểu số tại những công ty
có tầm quan trọng chiến lược với họ nhằm đảm bảo việc gắn bó lợi ích với những nhà
cung cấp. Ví dụ IBM đã mua 12% cổ phần của Intel; Ford đã mua 25% cổ phần của
Mazda. Các đối tác nầy vẫn tiếp tục hoạt động một cách riêng lẻ như một thực thể độc lập
nhưng sẽ thụ hưởng thế mạnh được cung cấp từ đối tác của mình. Ví dụ, nhờ vào sự hợp
tác với Mazda, Ford đã có một sự hỗ trợ rất tốt trong việc thiết kế và sản xuất các loại xe,
trong khi đó Mazda đã gia tăng khả năng xâm nhập thị trường tại Hoa Kỳ. Tương tự như


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.18

vậy, trong lĩnh vực xe hơi, Mitsubishi Motor đã sở hữu 10.2% cổ phần của Chrysler,
Honda sở hữu 20% cổ phần của Rover (Anh)
II.2.3 Liên doanh
Liên doanh là một hình thức mà hai hay nhiều hơn hai công ty cùng góp vốn để hình
thành nên một đơn vị kinh doanh, mức độ kiểm soát của mỗi bên tùy thuộc vào mức độ
góp vốn của họ và họ sẽ chia sẻ rủi ro trong phạm vi phần góp vốn của mình. Các lý do
khiến một MNC phải thực hiện hình thức liên doanh là do: (i) Luật pháp của nước sở tại
buộc MNC phải thực hiện hình thức liên doanh trong một số ngành; (ii) Một phía đối tác
phải cần đến kỹ năng hoặc các tài sản hữu hình và vô hình của phía bên kia; (iii) việc
thực hiện liên doanh cho phép các đối tác có thể thực hiện được mục tiêu chiến lược của
mình thông qua việc tận dụng lợi thế lẫn nhau. Ví dụ liên doanh giữa GMC (Hoa Kỳ) và
Toyota trong việc thành lập nhà máy New United Motor đã cho phép Toyota có thể thâm

nhập vào thị trường của Hoa Kỳ, ngược lại GMC có thể tận dụng được kỹ thuật và các
cách tiếp cận trong quản trị từ phía đối tác Nhật Bản.
Một liên doanh chỉ được xem là có hiệu quả một khi sự hợp nhất nguồn lực của các
đối tác có thể tạo ra một kết quả cao hơn so với năng lực riêng lẻ của từng đối tác. Ví dụ
một công ty có thể có những tiến bộ kỹ thuật mới nhưng lại thiếu vốn để đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài có thể dùng hình thức liên doanh để áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nầy
nhanh hơn hoặc xâm nhập thị trường một cách dễ dàng hơn. Hình thức liên doanh cũng
cho phép một công ty nước ngoài có thể thiết lập một mối quan hệ tốt hơn với Nhà nước
và các tổ chức sở tại (ví dụ như công đoàn, hoặc các tổ chức tài chính); đặc biệt nếu một
liên doanh được thiết lập giữa một MNC và đối tác sở tại là một doanh nghiệp thuộc sở
hữu Nhà nước thì liên doanh nầy càng có những thuận lợi như được hưởng những ưu đãi
về tài chính, sự hỗ trợ của chính phủ. Mối quan hệ giữa một đối tác trong nước với các tổ
chức tài chính địa phương cũng cho phép liên doanh có thể tiếp cận với thị trường tài
chính tại chỗ. Ngoài những thuận lợi nêu trên, hình thức liên doanh còn cho phép các
MNC có thể chia sẻ rủi ro khi tiến hành kinh doanh tại một thị trường mới.
Tuy nhiên, trong thực tiễn nhiều liên doanh đã bị thất bại. Các nguyên nhân gây ra
thất bại thường là: sự mâu thuẩn về quyền lợi, sự bất đồng trong việc phân phối lợi
nhuận, mối quan hệ truyền thông giữa các đối tác không tốt, tầm nhìn chiến lược khác
nhau, sự mâu thuẩn về phương diện văn hóa… Để tiến hành thiết lập và quản lý một liên
doanh thành công, nhiều nhà quản lý đã đề ra một số khuyến cáo như trong quá trình
thương lượng để lập liên doanh như sau: (i) Phải tìm đúng đối tác để thiếp lập liên doanh;
(ii) Xác định rõ mục tiêu của liên doanh và thời gian kéo dài của nó; (iii) Giải quyết và
xác định rõ ràng vấn đề quyền sở hữu, kiểm soát, và quản lý; (iv) Xác định rõ cấu trúc tài
chính và các chính sách tài chính; (v) Xác định chính sách sử dụng nhân sự và đào tạo;
(vi) Xây dựng nhiệm vụ sản xuất rõ ràng; (vii) Xác định các nội dung, quan điểm của
hoạt động marketing; (viii) Xác định hoạt động chuyển giao công nghệ theo mức độ nào
và các ràng buộc của hoạt động nầy; (ix) vấn đề hạch toán và kiểm soát; (x) Việc giải
quyết các tranh chấp và bất đồng; (xi) Vấn đề bảo hộ trong ngành và lĩnh vực kinh doanh;
(xii) Xác định rõ các hỗ trợ từ phía Nhà Nước (nếu có).



Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.19

II.3 Quy trình quản trị chiến lược của MNC
Nhận dạng nhiệm vụ của công ty
Phân tích môi trường kinh doanh
Thiết lập mục tiêu và kế hoạch tổng thể
Thực hiện kế hoạch
Đánh giá và kiểm soát hoạt động

III Đầu tư trực tiếp của MNC
III.1 Động lực quyết định dòng đầu tư trực tiếp
Lý thuyết về đời sống sản phẩm quốc tế
Các khiá cạnh về quản trị
Nhân tố thị trường
Nhân tố chi phí
Nhân tố mậu dịch quốc tế
Các yếu tố chính trị xã hội

III.2 Thái độ của nước khách trong việc tiếp nhận đầu tư quốc tế
III.2.1 Thái độ tích cực:
Thừa nhận sự đóng góp của FDI trên các lĩnh vực:


Vốn




Công nghệ



Kỹ năng quản trị



Việc làm



Phát triển vùng và khu vực



Tăng trưởng kinh tế

III.2.2 Thái độ tiêu cực:
Cho rằng FDI có những tác động tiêu cực đến quốc gia tiếp nhận trên các lĩnh vực:


Tác động đến cơ cấu kinh tế quốc gia



Tạo một sự hay đổi về văn hoá




Sự lệ thuộc về kỹ thuật, công nghệ, vốn….



Sự tác động của nước chủ nhà thông qua MNCs


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CI.20

III.3 Đo lường mức độ hấp dẫn của một nước khi ra quyết định đầu tư
III.3.1 Môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế của nhà nước


Những xu hướng về quy mô và kết cấu của thị trường



GNP & GDP trên đầu người



Tăng trưởng của GDP



Mức độ cạnh tranh




Chính sách tiền tệ và tài chính



Xu hướng về sức mua



Nhân tố tác động đến mức phí tổn



Chính sách về tỷ giá hối đoái



Lạm phát



Lãi suất

III.3.2 Rủi ro kinh tế và chính trị


Sự ổn định của các chính sách kinh tế và xã hội
* Rủi ro do nguy cơ quốc hữu hoá
* Sụ biến động về tỷ giá hối đoái




Những giới hạn về tiền tệ (liên quan đến việc chuyển giao ngân quỹ và tính chất
chuyển đổi của đồng tiền)
* Cán cân thanh toán
* Quy mô và cấu trúc của nợ
* Hệ số hoàn trả nợ
* Dự trữ ngoại tệ



Hành vi và phương thức trả nợ



Những yếu tố thuộc về xã hội
* Mật độ dân số, mức độ phân phối tài sản, hành vi xã hội
* Sự phân chia quốc gia thành các nhóm chính trị, ngôn ngữ, tôn giáo…
* Thái độ dân cư đối với đầu tư nước ngoài, vấn đề chủ nghĩa dân tộc



Những đe doạ về môi trường chính trị thế giới

III.3.3 Các định chế về thương mại và môi trường đầu tư


Các định chế về thương mại




Thuế quan nhập khẩu


Quản trị Kinh doanh Quốc tế



Hàng rào phi thuế quan



Giấy phép nhập khẩu



Vấn đề thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng riêng



Các điều khoản quy định về marketing và bán hàng



Các điều khoản về phân phối hàng hoá



Quan hệ về mậu dịch giữa nước chủ nhà và nước khách




Môi trường đầu tư



Trợ cấp cho đầu tư hoặc cho sản xuất



Những ưu đãi về tài chính



Chính sách bảo hộ hàng sản xuất nội địa



Các quy định về ngành nghề và lĩnh vực được phép đầu tư

III.3.4 Điều kiện về thị trường của các nhân tố sản xuất


Thị trường lao động và phí tổn sử dụng nhân công
* Sự sẵn có của nguồn nhân lực không có kỹ năng
* Nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ giáo dục
* Nguồn lực nhân viên có kỹ năng quản trị
* Chi phí nhân công và xu hướng thay đổi về tiền lương
* Năng suất lao động
* Sức mạnh mặc cả của tổ chức công đoàn




Các yếu tố sản xuất khác
* Sự sẵn có và giá cả của các nguồn vật tư, nguyên liệu
* Sự sẵn có và chi phí sử dụng vốn
* Khả năng tiếp nhận và ứng dụng kỹ thuật
* Chất lượng của cơ sở hạ tầng và truyền thông

III.3.5 Cơ sở hạ tầng về kinh tế


Sự sẵn có của những đối tác tốt



Sự sẵn có của những nhà cung ứng hàng hoá và dịch vụ



Sự sẵn có của những đối tượng tiêu thụ



Sự khuyến khích cạnh tranh của nhà nước

III.3.6 Các yếu tố vật chất và văn hoá xã hội


Phân bố địa lý khu vực


CI.21


Quản trị Kinh doanh Quốc tế



Khí hậu



Vận chuyển nội địa/ quốc tế và chi phí truyền thông



Các yếu tố về văn hoá:
* Đạo đức lao động
* Đúng giờ

CI.22


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CII.1

CHƯƠNG 2: MÔI TRƯỜNG THƯƠNG MẠI - KINH TẾ QUỐC TẾ
I. CÁC LÝ THUYẾT VỀ MẬU DỊCH QUỐC TẾ .........................................................................................2
I.1 Chủ nghĩa trọng thương: ........................................................................................................................2

I.2 Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)..........................................................................................2
I.3 Lý thuyết về lợi thế tương đối (David Ricardo) .....................................................................................2
I.4 Lý thuyết về sự dồi dào của các nhân tố sản xuất (Lý thuyết Heckscher-Ohlin-Samuelson).................3
I.5 Lý thuyết về đời sống sản phẩm quốc tế ................................................................................................4
I.5.1 Giai đoạn sản phẩm mới..................................................................................................................4
I.5.2 Giai đoạn sản phẩm đã bão hoà.......................................................................................................4
I.5.3 Giai đoạn sản phẩm đã được tiêu chuẩn hoá ...................................................................................4
I.6 Những yếu tố khác cần xem xét trong mậu dịch quốc tế........................................................................5
II. Các rào cản đối với mậu dịch......................................................................................................................5
II.1 Lý do thiết lập rào cản đối với mậu dịch...............................................................................................5
II.2 Các rào cản mậu dịch thông thường......................................................................................................6
II.2.1 Rào cản thuế quan..........................................................................................................................6
II.2.2 Rào cản phi thuế quan....................................................................................................................7
III. Môi trường kinh tế - chính trị ....................................................................................................................8
III.1 Sự thay đổi trong hệ thống chính trị ngày nay:....................................................................................8
III.1.1 Hệ tư tưởng chính trị và hệ thống kinh tế ngày nay......................................................................8
III.1.2 Sự kiểm soát về tài sản của Nhà Nước. ........................................................................................9
III.1.3 Sự hợp tác của Nhà nước và giới kinh doanh .............................................................................10
III.2 Sự hợp nhất kinh tế............................................................................................................................10
III.2.1 Vấn đề tạo lập mậu dịch và chệch hướng mậu dịch ...................................................................10
III.2.2 Các mức độ của sự hội nhập kinh tế ...........................................................................................11
III.2.3 Sự hợp nhất kinh tế: Một triển vọng trong tương lai ..................................................................12
IV. Hợp nhất kinh tế và chiến lược hoạt động của MNCs.............................................................................13
IV.1 Liên doanh và mua lại công ty ..........................................................................................................13
IV.2 Địa phương hoá hoạt động kinh doanh..............................................................................................14
IV.2.1 Địa phương hoá sản phẩm ..........................................................................................................14
IV.2.2 Địa phương hoá lợi nhuận. .........................................................................................................14
IV.2.3 Địa phương hoá sản xuất ............................................................................................................15
IV.2.4 Địa phương hoá quản trị.............................................................................................................15



Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CII.2

I. CÁC LÝ THUYẾT VỀ MẬU DỊCH QUỐC TẾ
I.1 Chủ nghĩa trọng thương:
Phổ biến vào thế kỷ 18, các nhà lý luận theo lý thuyết nầy chủ trương khuyến
khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu; họ cho rằng bằng cách đó họ có thể gia tăng của
cải cho quốc gia (chú ý: trong giai đoạn nầy vàng được xem là một phương tiện thanh
toán quốc tế và sự giàu có của quốc gia được đo lường bằng số lượng vàng mà quốc gia
đó chi phối)

I.2 Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)
Theo lý thuyết nầy thì các quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu
những mặt hàng nào mà nó có lợi thế tuyệt đối; nhờ vào sự xuất khẩu nầy. nó sẽ nhập
khẩu những mặt hàng mà nó không có lợi thế tuyệt đối.
Lợi thế tuyệt đối của một quốc gia về một mặt hàng nào đó được đo lường bằng
năng suất lao động để sản xuất ra mặt hàng đó so với quốc gia còn lại. Một mặt hàng của
một quốc gia nào đó được coi là có lợi thế tuyệt đối nếu như năng suất lao động để sản
xuất ra mặt hàng đó là cao hơn so vơí quốc gia còn lại (hay nói cách khác thời gian lao
động hao phí để sản xuất ra mặt hàng đó là nhỏ nhất). Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối được
đề ra theo giả định chỉ có một yếu tố sản xuất duy nhất đó là lao động.
Mặc dù lý thuyết lợi thế tuyệt đối có nhiều hạn chế - ví dụ như nó không giải
thích được cơ sở của mậu dịch quốc tế giữa những nước đã phát triển và đang phát triển (vì năng suất lao động của các nước đã phát triển thường cao hơn các nước đang phát
triển cho nên không có cơ sở cho mậu dịch giữa các quốc gia nầy) nhưng nó vẫn có một ý
nghĩa trong thực tiễn. Cụ thể: (i) Nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất
một mặt hàng nào đó thì nó sẽ có một tiềm năng chuyên môn hoá và xuất khẩu mặt hàng
đó; (ii) Nếu một quốc gia có lợi thế tuiyệt đối cho nhiều mặt hàng thì nó càng có nhiều
tiềm năng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu; (iii) Trong phạm vi một quốc gia lợi ích từ

mậu dịch không phải lúc nào cũng phân phối công bằng cho mọi thành viên ở những
ngành nghề và lĩnh vực khác nhau (xuất khẩu – thay thế nhập khẩu) do đó Nhà nước chỉ
có thể bù đắp cho bộ phận thiệt thòi thông qua chính sách thuế.

I.3 Lý thuyết về lợi thế tương đối (David Ricardo)
Theo Ricardo, một quốc gia nào đó dù không có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt
hàng so với quốc gia còn lại thì vẫn tồn tại cơ sở cho mậu dịch quốc tế, tức là cả hai quốc
gia nầy vẫn có lợi từ mậu dịch. Cơ sở cho mậu dịch trong trường hợp nấy xuất phát từ lợi
thế tương đối.
Lợi thế tương đối của một quốc gia về một mặt hàng nào đó được lý giải một cách
rõ rệt nhất nếu chúng ta dùng khái niệm về chi phí cơ hội để sản xuất ra mặt hàng đó. Chi
phí cơ hội để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá nào đó được đo lường bằng số lượng đơn
vị hàng hoá còn lại mà chúng ta phải hy sinh khi sử dụng nguồn lực (ở đây là lao động)
để sản xuất mặt hàng mà chúng ta đang xem xét. Như vậy một quốc gia sẽ có lợi thế


Quản trị Kinh doanh Quốc tế

CII.3

tương đối về một mặt hàng nào đó nếu như chi phí cơ hội để sản xuất ra mặt hàng đó thì
thấp hơn so với quốc gia còn lại; lúc đó quốc gia nầy sẽ chuyên môn hoá mặt hàng mà nó
có lợi thế tương đối.
Ta xem xét một mô hình mậu dịch quốc tế giản đơn trong đó chỉ có hai quốc gia
A vàB; có hai hàng hoá X và Y. Năng suất lao động năm tại từng quốc gia trong việc sản
xuất hai mặt hàng nầy được cho bởi biểu sau:

Quốc gia A
Quốc gia B


Hàng X
50
200

Hàng Y
100
250

Nếu theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì sẽ không có cơ sở cho
mậu dịch vì quốc gia B có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai mặt hàng. Nhưng
theo lý thuyết lợi thế tương đối ta thấy chi phí cơ hội để sản xuất ra mặt hàng X tại quốc
gia A sẽ là 100 / 50 = 2 (Điều nầy có nghĩa la để sản xuất thêm một đơn vị hàng X, quốc
gia A phải hy sinh hai đơn vị hàng Y). Trong khi đó chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị
hàng X tại quốc gia B chỉ là: 250 / 200 = 1.25 ( Điều nầy có nghĩa là để sản xuất ra một
đơn vị hàng X quốc gia B chỉ hy sinh 1.25 đơn vị hàng Y). Do chi phí cơ hội để sản xuất
ra một đơn vị hàng X tại quốc gia B nhõ hơn quốc gia A cho nên quốc gia B có lợi thế
tương đối trong việc sản xuất ra mặt hàng X.
Bằng lập luận tương tự như trên ta thấy chi phí cơ hội để sản xuất ra một đơn vị
hàng Y tại quốc gia A nhỏ hơn quốc gia B ( 0.5 so với 0.8) cho nên quốc gia A sẽ có lợi
thế tương đối trong việc sản xuất ra hàng Y.
Với kết quả nêu trên ta có thể kết luận quốc gia A có thể chuyên môn hoá sản xuất
và xuất khẩu mặt hàng Y, trong khi đó quốc gia B có thể chyên môn hoá sản xuất và xuất
khẩu hàng X. Cả hai quốc gia nầy đếu có lợi từ mậu dịch quốc tế nếu như tỷ giá trao đổi
quốc tế nằm trong khoảng 1.25 – 2.00 ( tỷ giá nầy nói lên một đơn vị hàng Y có thể đổi
được bao nhiêu đơn vị hàng X) hoặc nằm trong khoảng 0.5 – 0.8 ( nếu tỷ giá nầy nói lên
một đơn vị hàng X có thể đổi được bao nhiêu đơn vị hàng Y )

I.4 Lý thuyết về sự dồi dào của các nhân tố sản xuất (Lý thuyết HeckscherOhlin-Samuelson)
Theo lý thuyết nầy các sản phẩm sản xuất ra trong nền kinh tế thế giới được phân
ra thành hai loại: sản phẩm thâm dụng về lao động và sản phẩm thâm dụng về vốn; đồng

thời các quốc gia cũng được chia thành hai nhóm: các quốc gia dồi dào về vốn và quốc
gia dồi dào về lao động. Ở các quốc gia dồi dào về lao động thì chi phí về nhân công sẽ
thấp cho nên những sản phẩm thâm dụng về lao động sẽ có giá phí thấp và như vậy quốc
gia đó sẽ có lợi thế cạnh tranh về mặt hàng nầy. Tương tự như vậy các quốc gia dồi dào
về vốn sẽ có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất những mặt hàng thâm dụng về vốn.


×