Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tại sao sống ở thành phố càng đông dân bạn càng cô đơn và cô lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.83 KB, 3 trang )

Tại sao sống ở thành phố càng đông dân
bạn càng cô đơn và cô lập?

access_timeNov 13, 2016 personHannibal folder_open Kiến Thức Tâm
Lý Nhận Thức

Nhìn sâu hơn vào dữ liệu có được về việc giúp đỡ mọi người ở các
thành phố của Mĩ, nhà tâm lý Levine và các đồng nghiệp đã phát
hiện ra rằng mật độ dân số là một trong nhưng yếu tố dự đoán tốt
nhất về sự giúp đỡ.
Nhìn sâu hơn vào dữ liệu có được về việc giúp đỡ mọi người ở các thành
phố của Mĩ, nhà tâm lý Levine và các đồng nghiệp đã phát hiện ra rằng mật
độ dân số là một trong nhưng yếu tố dự đoán tốt nhất về sự giúp đỡ. Tại
sao mật độ dân số cao hơn lại dẫn đến ít sự giúp đỡ hơn? Theo một giả
thuyết được phát triển bởi Milgram, người dân ở các thành phố đông dân
có vẻ phải trải nghiệm quá nhiều “cảm giác quá tải“. Họ liên tục bị “dội
bom” thông tin từ những người khác, từ thiết bị di động, phương tiện giao
thông và quảng cáo. Kết quả là họ hành động cũng giống như điều mà tất
cả các hệ thống máy móc cũ thực hiện khi nhận được quá nhiều thông tin –
họ lựa chọn ưu tiên và dành ít thời gian xử lý các nguồn cố gắng thu hút


được sự chú ý của họ. Milgram tin rằng điều này khiến mọi người đi qua
những người cần sự giúp đỡ, và chuyển trách nhiệm giúp đỡ những cá
nhân này lên những người khác. Điều này tạo ra một nghịch lý,càng nhiều
người ở trong một khoảng không gian, thì họ lại càng có cảm giác cô
đơn và cô lập.
Nhưng Levine không chỉ tò mò về mối quan hệ giữa quy mô của một thành
phố và sự giúp đỡ của người dân. Ông tự hỏi việc giúp đỡ hay không giúp
đỡ liệu có được xác định bởi nhịp độ cuộc sống trong thành phố không.
ĐO NHỊP ĐỘ CUỘC SỐNG


Mong muốn đặt các con số vào những yếu tố dường như khó nắm bắt này,
Lavine và các đồng nghiệp đã đến thăm 31 quốc gia trên thế giới, đo ba chỉ
số tốc độ của cuộc sống.
Ông đo tốc độ đi bộ trung bình của người đi bộ được lựa chọn ngẫu nhiên
trên một đoạn vỉa hè dài khoảng 18m, ghé thăm các bưu điện và bí mật tính
xem họ mất bao lâu để phục vụ một khách hàng mua một con tem duy nhất,
và ghi lại tính chính xác của đồng hồ trong 15 ngân hàng ở trung tâm thành
phố được lựa chọn ngẫu nhiên.
Công trình nghiên cứu này được tiến hành rất cẩn thận. Khi đo tốc độ đi bộ,
các nhà nghiên cứu đảm bảo rằng tất cả các địa điểm đều bằng phẳng,
không có vật cản, và đặc biệt là không đông đúc. Trẻ em, những người
khuyết tật, những người đi xem hàng chứ không mua được loại khỏi các
phân tích. Khi tính thời gian tốc độ của dịch vụ tại các bưu điện, những
người tiến hành thí nghiệm đã trao cho các thư kí một tờ giấy viết bằng
ngôn gữ bản địa, để giúp giảm thiểu bất kì sự nhầm lẫn văn hoá nào. Các
phân tích cho thấy rằng ba phương pháp đo đều liên quan đến nhau, và
chúng đã thực sự cung cấp chỉ số về tốc độ cuộc sống của một thành phố.
Levine đã kết hợp các chỉ số khác nhau vào một thước đo tốc độ duy nhất.
Kết quả cho thấy, Thuỵ Sĩ có tốc độ cuộc sống nhanh nhất trên thế giới
(đồng hồ ngân hàng của họ chênh lệch mười chín giây), Ireland đứng thứ
hai và thúw ba là Đức. Điều thú vị là, tám trong số chín nước có nhịp độ


nhanh nhất là các quốc gia ở Tây Âu. Nhật Bản xếp thứ tư…Ba nước có tốc
độ chậm nhất là Brazil, Indonesia và Mexico. Tám vị trí dưới cũng thuộc về
các nước ở châu Phi, châu Á, Trung Đông và Mỹ Latinh.
Levine tìm được một số bằng chứng cho thấy các thành phố có nhịp độ
cuộc sống chậm hơn sẽ hay giúp đỡ mọi người hơn. Cũng như dự đoán về
thuyết “cảm giác quá tải” của Milgram, mọi người càng vội vàng, thời gian
họ dành cho những nhân tố không quan trọng càng ít.

Đây không phải là nhược điểm duy nhất của việc sống trong một xã hội với
nhịp độ cuộc sống nhanh. Vào cuối những năm 1980, Levine và nhóm của
ông đã đến thăm 36 thành phố trên khắp nước Mĩ, và so sánh nhịp độ cuộc
sống với tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch vành ở thành phố này. Giả thuyết
này rất đơn giản. Người dân sống ở các thành phố có nhịp độ nhanh nhiều
khả năng có sự tương đồng trong cái gọi là tính cách nhóm A. Những đặc
trưng của nhóm tính cách này nhấn mạnh nhiều về tính cấp thiết, khả năng
cạnh tranh, và nói chung là vội vàng để đạt được một thoả thuận rất lớn
trong thời gian rất ngắn. Những người nhóm A có xu hướng nói nhanh và
ngắt lời người khác. Họ thường là những người ăn xong đầu tiên, và
thường xuyên nhìn đồng hồ hơn so với hầu hết những người khác. Một số
nhà nghiên cứu tin rằng tình trạng này gây ra rất nhiều căng thẳng và áp
lực lên cơ thể. Công trình cuat Levine đã cho thấy cuộc sống ở các thành
phố có nhịp độ nhanh có số người hút thuốc cao hơn, và làm tăng tỷ lệ mắc
bệnh tim mạch vành. Phân tích sâu hơn cho thấy rằng tốc độ đi bộ và tỷ lệ
những người đeo đồng hồ ở mỗi thành phố là yếu tố dự báo tốt đối với vấn
đề này. Tại sao lại có một mối quan hệ không lành mạnh như vậy giữa các
yếu tố này? Có lẽ nhóm A bị thu hút đến những thành phố có nhịp độ sống
nhanh. Có lẽ việc sống ở những nơi nhịp độ nhanh chóng như vậy khiến
người ta trở thành Nhóm A. Hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố. Dù lời
giải thích là gì, thì thông điệp cũng rõ ràng. Ngoài việc khiến mọi người ít
giúp đỡ người khác hơn, nhịp độ nhanh còn giết chết họ.



×