Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

quy chế pháp lý hành chính đối với các tổ chức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.53 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT

BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN: LUẬT HÀNH CHÍNH
Chủ đề : Quy chế pháp lí hành chính của các tổ chức xã hội

Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp

: Phan Thị Chiên

: 11150633
: Luật kinh doanh k57

Giảng viên hướng dẫn : Đỗ Kim Hoàng


NỘI DUNG.

I/ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI

1.

KHÁI NIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI.

2.

ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI.


3.

SỰ KHÁC NHAU GIỮA CẤC TỔ CHỨC XÃ HỘI VỚI

CÁC TỔ CHỨC KHÁC.
II/ PHÂN LOẠI TỔ CHỨC XÃ HỘI.
III/ QUY CHẾ PHÁP LÍ HÀNH CHÍNH CỦA TCXH

1.

KHÁI NIỆM CỦA QUY CHẾ PHÁP LÍ HÀNH CHÍNH

CỦA TCXH.
2.

NỘI DUNG CỦA QUY CHẾ PHÁP LÍ HÀNH CHÍNH

CỦA TCXH.


I/ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TỔ CHỨC XÃ HỘI.
1. Khái niệm của tổ chức xã hội

Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt
Nam có chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều
lệ, không vì lợi nhuần mà nhằm đáp ứng các lợi ích chính đáng của các
thành viên và tham gia vào quản lí Nhà nước và xã hội.
Cùng với quá trình dân chủ hóa, các quyền con người ở Việt Nam được
pháp luật bảo vệ ngày càng toàn diện hơn. Điều 25 Hiến pháp 2013 quy
định: “ Công dân Việt Nam có quyền lập hội theo quy định của pháp

luật.” Đây là cơ sở pháp lí vững chắc để các tổ chức xã hội ra đời, tồn tại
và phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang tiến hành công
cuộc “ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa thì quyền tự do, dân chủ của công dân càng được chú
trọng, mở rộng và bảo vệ. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập quốc tế đang là
tác nhân thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các tổ chức xã hội ở Việt
Nam.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của tổ chức xã hội có ý nghĩa quan trọng
đối với đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Về chính trị, tổ
chức xã hội là chỗ dựa của chính quyền nhân dân. Với vai trò hội tụ sức
mạnh đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tổ chức xã
hội góp phần làm ổn định chính trị, tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện
quản lí xã hội. Tổ chức xã hội đại diện cho nhiều tầng lớp, giai cấp trong
xã hội Việt Nam, thay mặt cho quần chúng nhân dân thực hiện
quyền lực chính trị đồng thời giúp cho từng cá nhân phát huy tính tích
cực chính trị thông qua việc tuyên truyền giáo dục nhân dân nghiêm
chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, thu hút nhân dân tham gia quản lí Nhà nước, quản lí xã hội. Ngoài
ý nghĩa chính trị, sự tồn tại và phát triển của tổ chức xã hội còn có ý


nghĩa trong việc tăng cường khả năng hoạt động kinh tế-xã hội của công
dân. Thông qua các tổ chức xã hội, công dân có điều kiện hơn trong việc
thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Là bộ phận của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to
lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân dân lao động.
2.Các đặc điểm của các tổ chức xã hội.
Mỗi tổ chức xã hội đều có những hoạt động đặc thù phản ánh vị trí, vai
trò của mình trong hệ thống chính trị. Mặt khác, các tổ chức chính trị xã

hội đều có đặc điểm chung nhất định, phân biệt với các cơ quan Nhà
nước và các tổ chức kinh tế. Các đặc điểm đó là :
- Các tổ chức xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện của
những thành viên chung một lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp,
sở thích,..
Yếu tố tự nguyện thể hiện rõ nét trong việc nhân dân được quyền tự do
lựa chọn và quyết định tham gia hay không tham gia vào một tổ chức xã
hội nào đó. Không ai có quyền ép buộc người khác phải tham gia hay
không tham gia vào các tổ chức xã hội nhất định. Tuy nhiên, mỗi tổ chức
xã hội đều đặt ra những tiêu chuẩn nhất định đối với người muốn trở
thành thành viên của tổ chức xã hội nào đó. Ví dụ: Điều 5 Điều lệ Công
đoàn năm 2013 quy định : “ Người lao động là người Việt Nam làm việc
trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và
hoạt động công đoàn.”
Yếu tố tự nguyện còn biểu hiện trong việc kết nạp hay khai trừ các
thành viên của tổ chức xã hội hoàn toàn do tổ chức xã hội đó và những
người muốn tham gia quyết định. Nhà nước không can thiệp và cũng
không sử dụng quyền lực của mình để chi phối hoạt động đó.
Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp những thành viên có cùng chung dấu hiệu
đặc điểm. Ví dụ, cùng chung mục đích, lí tưởng như Đảng Cộng sản Việt


Nam, cùng giai cấp như Hội nông dân Việt Nam, cùng chung giới tính
như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cùng chung nghề nghiệp như Hội
nhà báo, hội nhà văn Việt Nam, cùng chung sở thích như Hội những
người yêu thích môn thể thao, thậm chí có thể cùng chung một dấu hiệu
khuyết tật như Hội người mù,.... Tất cả họ liên kết lại với nhau, tìm tiếng
nói chung trong hình thức tổ chức xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu và bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình.
- Các tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt

động quản lí Nhà nước.
Các tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt
động quản lí Nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy
định, tổ chức xã hội mới hoạt động nhân danh Nhà nước. Đặc điểm này
của tổ chức xã hội xuất phát từ nguyên nhân tổ chức xã hội không phải là
bộ phận trong cơ cấu bộ máy Nhà nước. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ
sự tồn tại của các tổ chức xã hội bằng việc cho phép tổ chức xã hội được
thành lập đồng thời quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lí của các tổ
chức đó. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí này, các tổ chức xã
hội nhân danh của tổ chức mình; ví dụ như trong các trường hợp khi thực
hiện quyền đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, thực hiện quyền khiếu
nại,... các tổ chức xã hội sẽ phải nhân danh của tổ chức mình. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp nhất định được quy định bởi pháp luật, Nhà
nước trao quyền cho các tổ chức xã hội, cho phép các tổ chức này thay
mặt Nhà nước quản lí một số công việc nhất định, lúc này tổ chức xã hội
mới được phép nhân danh Nhà nước và sử dụng quyền lực Nhà nước, các
quyết định do các tổ chức xã hội đưa ra mới mang tính chất quyền lực
Nhà nước. Ví dụ Điều 14 của Luật Công đoàn quy định tổ chức công
đoàn có quyền : “ Tham gia, phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách,
pháp luật về lao động, công đoàn, cán bộ, công chức, viên chức, bảo hiểm


xã hội, bảo hiểm y tế và chế độ, chính sách, pháp luật khác có liên quan
đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; điều tra tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp.” Khi tham gia phối hợp thanh kiểm tra, giám sát, công đoàn
có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan cung cấp
các thông tin, tài liệu và giải trình các vấn đề có liên quan. Trong những
trường hợp này, quyết định của tổ chức xã hội có hiệu lực đối với các
thành viên bên ngoài tổ chức đó. Khi không được trao quyền lực Nhà

nước, các quyết định của tổ chức xã hội chỉ có tính bắt buộc trong nội bộ
tổ chức của mình.
- Các tổ chức xã hội hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và
theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng.
Dù tổ chức xã hội hoạt động theo điều lệ hay theo quy định của pháp
luật thì hoạt động của tổ chức vẫn mang tính tự quản. Nhà nước không
trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức xã hội. Các hoạt
động nội bộ trong tổ chức xã hội được thực hiện theo điều lệ của tổ chức.
Điều lệ của tổ chức xã hội do các thành viên trong tổ chức xã hội xây
dựng thông qua đại hội đại biểu đại hội toàn thể các thành viên. Điều lệ
hoạt động của các tổ chức xã hội không được trái pháp luật và phải được
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Việc Nhà nước phê
chuẩn điều lệ hoạt động của tổ chức xã hội là kiểm tra, đánh giá tính
hợphiến, hợp pháp của các điều lệ đó, cho phép các tổ chức xã hội tồn tại
và hoạt động theo điều lệ. Điều lệ của các tổ chức không phải là các văn
bản pháp luật, các quy định trong điều lệ không mang tính pháp lí, chúng
chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nội bộ của tổ chức xã hội đó và
chỉ có hiệu lực đối với các thành viên trong tổ chức. Mặt khác, điều lệ
hoạt động của các tổ chức xã hội cũng không quy định quyền và nghĩa vụ
pháp lí của các tổ chức xã hội, không xác định năng lực chủ thể của các
tổ chức xã hội trong các quan hệ quản lí Nhà nước.


Năng lực chủ thể của các tổ chức xã hội để tham gia vào các quan hệ
pháp luật do Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan.
Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ pháp lí
của tổ chức xã hội trong lĩnh vực hành chính Nhà nước tạo thành quy chế
pháp lí hành chính của tổ chức xã hội. Trong quá trình hoạt động, các tổ
chức xã hội tự giải quyết các công việc nội bộ của mình, Nhà nước sẽ
không can thiệp vào hoạt động của tổ chức nếu hoạt động ấy không trái

pháp luật quy định.
Phần lớn các tổ chức xã hội đều có điều lệ hoạt động, tiêu biểu như
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ việt Nam,... Tuy nhiên có
một số tổ chức không có điều lệ hoạt động riêng mà hoạt động theo quy
định của Nhà nước như Ban thanh tra Nhân dân, tổ hòa giải,... Ngoài ra
còn một số tổ chức vừa hoạt động theo quy định của pháp luật vừa tuân
theo điều lệ riêng của tổ chức như tổ chức Công đoàn,..
Tóm lại, cho dù tổ chức xã hội hoạt động theo điều lệ hay quy định của
Nhà nước thì những hoạt động nội bộ của tổ chức vẫn mang tính tự quản.
Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của các tổ chức
này cũng như không sử dụng quyền lực Nhà nước để sắp xếp thành viên
hay cách chức thành viên của tổ chức đó.
- Các tổ chức xã hội hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Đặc điểm này là yếu tố phân biệt tổ chức xã hội với các tổ chức kinh tế
như : công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ,...
Các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức
pháp luật cho nhân dân, mà trước hết là cho các thành viên ở trong tổ
chức đó. Thông qua những quy định trong điều lệ hoạt động, thông qua


hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với các
thành viên; các tổ chức xã hội luôn hướng tới mục đích nâng cao ý thức
pháp luật cho nhân dân. Đồng thời, các hoạt động của tổ chức xã hội còn
nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên
trong chính tổ chức. Khi có hành vi xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp
của các thành viên hay của những người khác, các tổ chức xã hội sẽ tạo ra
dư luận xã hội rộng rãi để phản đối những hành vi vi phạm đó đồng thời

yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khôi phục các
quyền và lợi ích bị xâm hại.
Ngoài ra, một số tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động nhằm thỏa
mãn các nhu cầu về văn hóa, giải trí,... của các thành viên hay để trao đổi
các kinh nghiệm sản xuất, tăng gia,... ví dụ như: hội làm vườn, hội những
người chơi cây cảnh,... Các tổ chức xã hội cũng có thể làm kinh tế từ
những hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch hoặc kinh doanh để gây quỹ
hoạt động hội nhưng đây không được coi là mục đích hoạt động của
chính của tổ chức xã hội.
Trên thực tế có một thuật ngữ cần phân biệt với các tổ chức xã hội đó là
thuật ngữ “ tổ chức phi chính phủ ”. Đây là một thuật ngữ được sử dụng
để chỉ một số tổ chức không thuộc khu vưc Nhà nước, hoạt động tương
đối độc lập với Nhà nước. Các tổ chức này hoạt động đa dạng
trong các lĩnh vực du lịch, văn hóa, khoa học kĩ thuật, nhân đạo,... với
mục đích phi lợi nhuận, hướng đến sự phát triển lành mạnh, bình đẳng vì
tiến bộ của xã hội. Các tổ chức phi chính phủ không bao gồm các đảng
phái chính trị và các tổ chức tôn giáo. Các tổ chức phi chính phủ hoạt
động độc lập tương đối với Chính phủ; được hình thành theo nguyên tắc
tự nguyện; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, phi lợi nhuận và không
nhằm mục đích chính trị. Với các đặc điểm này, tổ chức phi chính phủ
được hiểu là cách gọi khác của tổ chức xã hội.


3.Sự

khác biệt giữa tổ chức xã hội với một số cơ quan tổ chức

khác.
3.1 Phân biệt tổ chức xã hội với các cơ quan hành chính Nhà nước
- Khái niệm:

+ Cơ quan hành chính Nhà nước là bộ phận hợp thành của bộ máy Nhà
nước, được thành lập để thực hiện chức năng quản lí hành chính Nhà
nước
+ Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức
Việt Nam có chung mụch đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và điều
lệ nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào
quản lí Nhà nước và xã hội.
- Đặc điểm:
+ Cơ quan hành chính Nhà nước có quyền nhân danh Nhà nước khi tham
gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ
pháp lí với mụch đích hướng tới lợi ích công. Còn các tổ chức xã hội chỉ
được nhân danh Nhà nước trong một số trường hợp nhất định theo quy
định của pháp luật.
+ Các cơ quan hành chính Nhà nước được thành lập và hoạt động trên
những quy định của pháp luật còn các tổ chức xã hội ngoài quy định của
pháp luật ra, các tổ chức này còn hoạt động dựa trên điều lệ của tổ chức
đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

+ Các cơ quan hành chính Nhà nước là cơ quan có chức năng quản lí
hành chính Nhà nước. Các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện hoạt
động chấp hành-điều hành ( đó là những hoạt động được tiến hành trên cơ
sở luật và để thi hành pháp luật ) nhằm thực hiện chức năng quản lí Nhà
nước. Như vậy hoạt động chấp hành-điều hành hay còn gọi là hoạt động
quản lí hành chính Nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà
nước. Còn đối với tổ chức xã hội thì hoạt động nhằm mục đích chính đó


là bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên và nâng cao ý thức pháp
luật cho người dân.
+ Nguồn nhân sự chính của các cơ quan hành chính Nhà nước là đội ngũ

cán bộ, công chức, được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử
theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Đối với các tổ chức xã
hội, sự hình thành được dựa trên nguyên tắc tự nguyện của các thành
viên, nhân dân có quyền tự do lựa chọn có hoặc không tham gia vào một
tổ chức xã hội nào đó, tuy nhiên, đối với mỗi tổ chức xã hội lại đặt ra
những tiêu chuẩn nhất định đối với mỗi cá nhân muốn trở thành thành
viên của tổ chức.
+ Mối quan hệ giữa các thành viên của tổ chức xã hội là mối quan hệ
bình đẳng, khác với các cơ quan hành chính Nhà nước đó là mối quan hệ
quyền lực-phục tùng.
3.2 Sự khác nhau giữa tổ chức xã hội với tổ chức kinh tế và đơn vị sự
nghiệp.
- Tổ chức kinh tế bao gồm các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
theo Luật doanh nghiệp; hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập
theo luật hợp tác xã; các tổ chức kinh tế thành lập theo luật đầu tư,... lợi
nhuận là mục đích sau cùng của các tổ chức này. Khác với các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội hoạt động nhằm hướng tới mục đích phi lợi nhuận,
nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên và nâng
cáo ý thức pháp luật cho cộng đồng. Mặc dù vẫn có một số tổ chức xã hội
làm kinh tế từ những hoạt động văn hóa, thể thao,... hoặc kinh doanh để
gây quỹ hoạt động hội nhưng đây không được xem là mục đích hoạt động
chính của tổ chức xã hội.
-Đơn vị sự nghiệp là bộ phận cấu thành cơ cấu tổ chức của các cơ quan
hành chính Nhà nước, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập
nên, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng, thực hiện chức
năng phục vụ quản lí Nhà nước hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ công


trong các ngành hoặc lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Sự khác biệt
rõ ràng nhất của đơn vị sự nghiệp với tổ chức xã hội đó là đơn vị sự

nghiệp là bộ phận trong cơ cấu của Nhà nước, chịu sự tác động của phía
Nhà nước tới hoạt động nội bộ của mình.
II/ PHÂN LOẠI TỔ CHỨC XÃ HỘI.
Tổ chức xã hội có rất nhiều tên gọi khác nhau. Thông thường các tên
gọi của tổ chức xã hội sẽ phản ánh dấu hiệu chung nhất và là tiêu chí tập
hợp các thành viên của tổ chức. Từ góc độ nghiên cứu, dựa vào tính chất
hoạt động của các tổ chức xã hội, có thể phân chia tổ chức xã hội thành 9
nhóm sau:
1. Tổ

chức chính trị

Tổ chức chính trị là tổ chức mà thành viên gồm những người cùng hoạt
động với nhau vì một khuynh hướng chính trị nhất định. Sự tồn tại công
khai và hợp pháp của các tổ chức chính trị chỉ được thừa nhận khi quyền
lực Nhà nước thuộc về một lực lượng xã hội nhất định và việc thành lập
các cơ quan quyền lực Nhà nước được tiến hành bằng phương thức bầu
cử dân chủ. Tổ chức chính trị tập hợp những người tiên phong, đại diện
cho giai cấp hay lực lượng xã hội nhất định, thực hiện những hoạt động
có liên quan tới mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các tầng
lớp xã hội mà hạt nhân của những vấn đề này là giành và giữ chính
quyền.
Trước năm 1988, nước ta tồn tạ ba tổ chức chính trị với ba ý nghĩa là ba
đảng phái chính trị tồn tại hợp pháp. Đó là Đảng dân chủ, Đảng xã hội và
Đảng Lao động Việt Nam ( nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ). Đảng dân
chủ thành lập vào ngày 30/6/1944, Đảng xã hội thành lập vào ngày
27/2/1946. Kể từ khi thành lập, Đảng Dân chủ và Đảng xã hội đã góp
phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ghi nhận công lao to lớn đó, Hội đồng



nhà nước đã trao tặng hai Đảng huân chương sao vàng. Năm 1988, Đảng
Xã hội và Đảng Dân chủ đã giải thể, kết thúc hơn 40 năm hoạt động vẻ
vang của mình. Hiện nay, tại Việt Nam chỉ có một đảng chính trị được tồn
tại và hoạt động hợp pháp đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng
sản Việt Nam hoạt động với mục đích chính trị là mở rộng hơn nữa khối
đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giữa hai giai cấp nông dân với giai cấp
công nhân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, nhằm đạt mục tiêu giữ vững
độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh. Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản là học thuyết MacLenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định, Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Hoạt động
quản lí Nhà nước dựa trên nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Các đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng là kim chỉ nam cho hoạt động của Nhà
nước và xã hội. Nhiều chính sách của Đảng được thể chế hóa thành pháp
luật.
Với cơ chế chính trị một Đảng cầm quyền, hoạt động quản lí hành
chính Nhà nước dựa trên nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lí hành
chính Nhà nước; nguyên tắc này được biểu hiện cụ thể ở các hình thức và
phương pháp hoạt động của Đảng:
+ Trước hết Đảng lãnh đạo trong quản lí Nhà nước bằng việc đưa ra
những đường lối chủ trương, chính sách hoạt động của mình về các lĩnh
vực hoạt động khác nhau của quản lí hành chính Nhà nước. Các vấn đề
quan trọng của hoạt động quản lí Nhà nước nói chung và quản lí hành
chính nói riêng cần phải có đường lối chủ trương của các tổ chức Đảng có
trách nhiệm.
+ Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản lí hành chính Nhà nước
thể hiện trong công tác tổ chức cán bộ. Các tổ chức Đảng bồi dưỡng, đào
tạo các Đảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực để gánh vác những
nhiệm vụ trong bộ máy hành chính nhà nước.



+ Thứ ba, Đảng lãnh đạo trong quản lí Nhà nước không chỉ bằng đường
lối, chủ trương, chính sách, bằng công tác tổ chức cán bộ mà còn bằng
hình thức kiểm tra. Hoạt động kiểm tra ở đây có nghĩa là kiểm tra việc
chấp hành, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Như vậy, tuy lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng Đảng không can thiệp
trực tiếp vào công việc của Nhà nước mà định ra phương hướng hoạt
động và kiểm tra việc thực hiện đường lối của mình trong bộ máy Nhà
nước.Mọi hoạt động của Đảng đều nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp
và pháp luật.
2. Tổ chức chính trị xã hội
Tổ chức chính trị xã hội là các tổ chức được thành lập bởi những thành
viên đại diện cho lực lượng xã hội nhất định, thực hiện các hoạt động
rộng rãi và có ý nghĩa chính trị nhưng các hoạt động này không nhằm tới
mục đích giành chính quyền. Do quy mô và tính chất hoạt động của các
tổ chức chính trị xã hội mà các tổ chức này thường tồn tại và hoạt động
bên cạnh các tổ chức chính trị với tính chất hỗ trợ hoạt động của các tổ
chức chính trị, cụ thể là trợ giúp cho hoạt động của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Các tổ chức xã hội hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ, được chia thành nhiều cấp để hoạt động trong
phạm vi cả nước. Các tổ chức này có điều lệ hoạt động do đại hội toàn thể
hoặc đại hội đại biểu các thành viên thông qua. Các tổ chức chính trị xã
hội đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân.
Một số tổ chức chính trị tiêu biểu ở Việt Nam là Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh.
2.1.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.



Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, là cơ sở của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng,
tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành
viên góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ. văn
minh. Mặt trận Việt Nam thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã
hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mặt trận Việt Nam được thành lập nhằm mục đích tập hợp, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân, tuyên truyền và động viên nhân dân phát huy quyền làm
chủ, thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp thống nhất và hành động.
Các cá nhân tiêu biểu và các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức
xã hội khác nếu nhất trí điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có đơn tự
nguyện gia nhập và được Mặt trận Tổ quốc đồng ý thì sẽ trở thành thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2.2 Công đoàn.
Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân
và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên



trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công
nhân và những người lao động khác, cùng với cơ quan nhà nước chăm lo
và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động; tham
gia quản lí Nhà nước, quản lí kinh tế xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra,
giám sát các cơ quan hoạt động của Nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp; tuyên truyền và vận động người lao động học tập nâng cao trình
độ, kĩ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công đoàn có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và được phân cấp để hoạt động
trong phạm vi cả nước. Công đoàn tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của công đoàn đều do bầu cử lập ra và cơ
quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp là đại hội công đoàn cấp đó. Giữa hai
kì đại hội cơ quan lãnh đạo là ban chấp hành công đoàn do đại hội bầu ra.
Hệ thống tổ chức công đoàn gồm có Liên đoàn lao động Việt Nam và
công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ công đoàn Viêt Nam.
2.3 Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội lớn
nhất của thanh niên Việt Nam, do Đảng cộng sản và chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập,lãnh đạo và rèn luyện; là tổ chức thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; tổ chức được hình thành nhằm thu hút thế hệ trẻ vào
những hoạt động của xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức
pháp luật với thanh niên. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là đại hội đại biểu
toàn quốc. Các tổ chức của đoàn thanh niên được hình thành trên phạm vi
cả nước, có mặt hầu như ở tất cả các tổ chức, đơn vị, cơ quan từ trung
ương đến địa phương.
2.4 Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị-xã hội của phụ
nữ Việt Nam,mục đích hoạt động vì sự bình đẳng,phát triển của phụ nữ.



Đồng thời hội cũng là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,có chức
năng chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, đấu tranh
chống phân biệt đối xử, vận động phụ nữ thực hiện đường lối chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện
bình đẳng giới.
Cơ quan lãnh đạo Hội liên hiệp phụ nữ các cấp do bầu cử lập ra. Hệ
thống của hội được tổ chức từ cấp trung ương đến cơ sở. Cơ quan lãnh
đạo cao nhất của hội là Đại hội đại biều phụ nữ toàn quốc.
2.5 Hội nông dân Việt Nam.
Hội nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp nông
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và lãnh đạo. Hội là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mục đích thành lập của tổ chức là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, phản ánh tâm tư nguyện vọng của giai cấp nông dân Việt Nam.
2.6 Hội cựu chiến binh Việt Nam.
Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức đại diện cho ý chí và quyền lợi
của cựu chiến binh, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Hội cựu chiến binh được thành lập và hoạt động nhằm mục đích phát
huy truyền thống “ Bộ đội cụ Hồ ” tham gia bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội
viên, giúp đỡ lẫn nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó
tình bạn chiến đấu.
3.Các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp



Tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp gồm các TCXH xác lập một nghề
nghiệp riêng biệt được Nhà nước thừa nhận, thành viên là những người
có chức danh nghề nghiệp của tổ chức đó do Nhà nước quy định, hỗ trợ
và phối hợp cùng các cơ quan Nhà nước giải quyết một số công việc xã
hội. Hoạt động nghê nghiệp được tiến hành theo pháp luật chuyên biệt và
đặt dưới sự quản lí của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Ví dụ tiêu biểu cho các tổ chức này là Hội luật gia Việt Nam. Hội luật
gia Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
thống nhất, tự nguyện của các luật gia trong cả nước. Hội là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và sự quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(quyết định 1004/2010/QĐ-BNV ). Hội Luật gia Việt Nam hoạt động vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam,... mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các tổ chức luật gia trên
thế giới và các tổ chức khác theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước vì mục đích chung là hòa bình hợp tác
và phát triển.
Nhiệm vụ và quyền hạn của hội được quy định tại điều 3, nghị định số
1004/2010/CĐ-BNV của Bộ nội vụ, trong đó nổi bật các nhiệm vụ và
quyền hạn như tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp
lí, tham gia tuyên truyền phổ biến pháp luật tới các đối tượng trong xã
hội; tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lí theo quy định của pháp luật;
cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lí miễn phí cho người nghèo và các đối
tượng chính sách, thành lập các tổ chức tư vấn pháp lí theo quy định của
pháp luật.
Hệ thống tổ chức của Hội Luật gia Việt Nam cũng được tổ chức từ Trung
ương đến cơ sở. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là đại hội đại biểu
luật gia toàn quốc.



4.Các

tổ chức xã hội

Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam là một tổ chức đại diện cho nhóm tổ
chức xã hội này. Là tổ chức thanh niên lớn nhất tại Việt Nam, Hội Liên
hiệp thanh niên quy tụ nhiều tổ chức thanh niên thành viên, bao gồm cả
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Hội là thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và Liên đoàn thanh niên Dân chủ thế giới. Hội có chức
năng đoàn kết tập hợp mọi đối tượng tầng lớp thanh niên Việt Nam, đại
diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, thanh niên và tổ chức
thành viên. Quyền hạn và nghĩa vụ của hội được quy định rõ tại điều 5,
quyết định số 1176/2010/QĐ-BNV của Bộ nội vụ.
5.Tổ

chức xã hội nghề nghiệp

Tổ chức xã hội nghề nghiệp là loại hình tổ chức xã hội do Nhà nước
sáng kiến thành lập và được hình thành theo quy định của Nhà nước,
nhằm hỗ trợ và phối hợp với nhà nước giải quyết một số vấn đề quan
trọng trong xã hội; hoạt động dưới sự quản lí của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội nghề nghiệp
này, các cá nhân phải hoạt động nghề nghiệp trong các tổ chức hành nghề
do Nhà nước quy định. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong nhóm này,
trong phạm vi pháp luật quy định có thể thực hiện những tác động quản lí
đối với hoạt động nghề nghiệp của các thành viên. Ví dụ, có thể tác động
trong việc công nhận chức danh nghề nghiệp là điều kiện để hành nghề và
trở thành thành viên của tổ chức.

Đoàn luật sư là tổ chức thể hiện rõ nét những đặc tính căn bản của tổ
chức xã hội nghề nghiệp thuộc nhóm đặc thù. Đoàn luật sư là hội nghề
nghiệp của các luật sư được hình thành nhằm mục đích tập hợp, hướng
dẫn, giám sát và bênh vực quyền lợi cho các luật sư, duy trì uy nghề
nghiệp và nâng cao hiệu quả hành nghề của các luật sư thành viên. Người
có chứng chỉ hành nghề luật sư phải gia nhập Đoàn luật sư do mình lực


chọn để hành nghề luật sư. Tổ chức luật sư toàn quốc cấp thẻ luật sư cho
các thành viên theo sự đề nghị của Đoàn luật sư. Ngoài ra, có thể xếp một
số tổ chức thuộc nhóm này như Hiệp hội trọng tài, liên đoàn bóng đá Việt
Nam,...
6.Các

hội nghề nghiệp

Các hội nghề nghiệp là các tổ chức xã hội được thành lập theo dấu hiệu
nghề nghiệp, thành viên của tổ chức là các cá nhân, tổ chức yêu ngành
nghề đó và tự nguyện tham gia. Hoạt động nghề nghiệp của các hội nghề
nghiệp không xác lập riêng biệt, không có chức danh nghề nghiệp riêng
của tổ chức dành cho thành viên. Việc thành lập, đăng kí hoạt động của
các hội nghề nghiệp được tiến hành theo các quy định chung về quản lí
hội. Các tổ chức xã hội thuộc nhóm này, ví dụ : hiệp hội
thủy sản, hội họa sỹ, hội ca sỹ nhạc sỹ,...
7.Hội

nhân đạo từ thiện

Là tổ chức gồm những thành viên có chung khuynh hướng phục vụ cho
một lợi ích nhất định của cộng đồng, mang mục đích phi lợi nhuận.

Ví dụ các tổ chức thuộc nhóm này như : Hội chữ thập đỏ, hội vì người
chất độc màu da cam,...
Hội chữ thập đỏ Việt Nam là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, thành viên của phong trào Chữ thập đỏ-Trăng lưỡi liềm đỏ
quốc tế, là tổ chức xã hội của quần chúng, hoạt động vì mục tiêu nhân
đạo, hòa bình, hữu nghị; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hội hoạt động trong phạm vi
cả nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Điều lệ hội và 7 nguyên tắc cơ bản của phong trào
chữ thập đỏ đó là : Nhân đạo, vô tư, trung lập, độc lập, tự nguyện, thống
nhất, toàn cầu.


8.Các tổ chức tự quản cơ sở
Các tổ chức tự quản cơ sở được hình thành từ nhu cầu của cộng đồng
nhằm góp phần ổn định an ninh, trật tự, ... tại cơ sở. Các tổ chức tự quản
cơ sở là các tổ chức của nhân dân lao động được thành lập theo sáng kiến
của Nhà nước, hoạt động theo quy định của Nhà nước. Các tổ chức này
thành lập theo một nguyên tắc tự quản trong một phạm vi nhất định đối
với các công việc mà nhà nước không trực tiếp quản lí.
Các tổ chức tự quản thường được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ,
không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, giữa các tổ chức cùng loại không có
mối quan hệ đoàn thể. Hoạt động của tổ chức tự quản được đặt dưới sự
quản lí trực tiếp của các cơ quan nhà nước hữu quan tại địa phương. Các
tổ chức tự quản rất đa dạng. Một số ví dụ cho các tổ chức thuộc nhóm
này như: tổ dân phố, tổ dân phòng, ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải cơ
sở,...
Tổ hòa giải ở khu phố, thôn xóm, các cụm dân cư do nhân dân cử ra để
kịp thời giải quyết các xích mích, tranh chấp nhỏ nhặt trong nhân dân,
giúp nhân dân xây dựng nếp sống văn hóa mới, tuân thủ pháp luật.

Các cụm dân cư còn được tổ chức thành tổ dân phố,... Trưởng thôn,
trưởng bản, tổ trưởng dân phố,... có nhiệm vụ giúp cơ quan nhà nước
trong việc quản lí hộ tịch, hộ khẩu; tuyên truyền và phổ biến về chế độ
chính sách của Nhà nước. Các tổ chức tự quản ở cơ sở có điều kiện gần
dân,trực tiếp với dân, nắm chắc tình hình an ninh trật tự xã hội ở địa
phương giúp cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương thực hiện tốt
hơn hoạt động quản lí hành chính ở địa phương.
9.Các

hội quần chúng được thành lập cục bộ theo một dấu hiệu

khác.
Đây là các hội được thành lập cục bộ, chỉ ở một vài địa phương hoặc
một vài vùng trên cả nước, tập hợp các thành viên có những điểm chung


nhất định. Các tổ chức này rất đa dạng, phong phú, số lượng đông đảo và
ngày càng có dấu hiệu phát triển mạnh hơn nữa. Điều lệ hoạt động của
hội quần chúng do các tổ chức dự thảo và quyết định, khi đăng kí thành
lập hội phải báo cáo điều lệ hoạt động để các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xem xét và phê duyệt.
Một vài ví dụ về các hội này như: hội đồng hương, hội những người
thích chơi cây cảnh,...
III/ QUY CHẾ PHÁP LÍ HÀNH CHÍNH CỦA TỔ CHỨC XÃ HỘI.
1.Khái

niệm quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã hội.

Quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã hội là tổng thể các quy phạm
pháp luật nhằm đảm bảo quá trình hình thành, tồn tại, phát triển và hoạt

động của tổ chức xã hội là hợp pháp, được Nhà nước và xã hội bảo
vệ. Quyền và nghĩa vụ pháp lí của tổ chức xã hội trong quản lí hành chính
là nội dung quan trọng trong quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã
hội.
Do tính chất đặc biệt, Đảng Cộng sản Việt Nam và một số tổ chức chính
trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam,
Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam có các
quyền và nghĩa vụ pháp lí theo quy chế riêng do Hiến pháp, luật quy
định. Các tổ chức xã hội khác được tổ chức và hoạt động theo Nghị định
của Chính phủ số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động
và quản lí hội.
Nhà nước quy định các quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội tham gia vào quản lí Nhà nước,
quản lí xã hội. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, xác định vị trí pháp lí cũng như
năng lực chủ thể để các tổ chức xã hội khi tham gia vào hoạt động quản lí


Nhà nước, quản lí xã hội. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong
quy chế pháp lí hành chính khác với quyền và nghĩa vụ được quy định
trong các điều lệ của tổ chức. Các quyền và nghĩa vụ được quy định trong
điều lệ tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội xác định mối liên hệ giữa
các thành viên của tổ chức và giữa các bộ phận cơ cấu của của tổ chức xã
hội. Quyền và nghĩa vụ này không mang tính pháp lí.
Các tổ chức xã hội khác nhau thì có các quyền và nghĩa vụ khác nhau.
Sự khác biệt đó bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí, vai trò và phạm vi
hoạt động của các tổ chức xã hội. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ ,
trách nhiệm pháp lí của các tổ chức xã hội, đồng thời đề ra những đảm
bảo pháp lí nhằm ngăn ngừa các hành vi cản trở hoạt động của tổ chức xã

hội. Những người có hành vi vi phạm pháp luật cản trở các tổ chức xã hội
thực hiện nhiệm vụ thì tùy theo mức độ của hành vi vi phạm sẽ bị truy
cứu trách nhiệm pháp lí.
2.Nội

dung quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã hội.

2.1 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội trong mối quan hệ với cơ
quan Nhà nước.
Các tổ chức xã hội khác nhau, có các quyền và nghĩa vụ khác nhau
trong mối quan hệ với cơ quan Nhà nước, tùy thuộc vào vị trí, vai trò của
mỗi loại tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị. Mối quan hệ đó là mối
quan hệ tương tác giữa tổ chức xã hội và bộ máy nhà nước. Cụ thể, Nhà
nước đảm bảo môi trường pháp lí để tổ chức xã hội hoạt động và phát
triển, xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho các tổ
chức xã hội thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Ngược lại, các tổ
chức xã hội có trách nhiệm phải tuân thủ pháp luật đồng thời các tổ chức
xã hội có những quyền cụ thể trong việc thể hiện tiếng nói của quần
chúng nhân dân trong việc hình thành cơ quan Nhà nước, giám sát hoạt
động của cơ quan Nhà nước. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội trong


mối quan hệ với cơ quan Nhà nước được chia làm ba nhóm, gồm: nhóm
quyền và nghĩa vụ trong sự hình thành cơ quan Nhà nước và tổ chức xã
hội; nhóm quyền và nghĩa vụ nhằm duy trì, bảo đảm sự tồn tại và phát
triển của tổ chức xã hội; nhóm quyền và nghĩa vụ trong việc phối hợp
hoạt động trong quản lí hành chính Nhà nước.
- Nhóm quyền và nghĩa vụ trong sự hình thành cơ quan nhà nước và tổ
chức xã hội
Trong nhóm này phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của Đảng Cộng

sản Việt Nam và các tổ chức chính trị là thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo Nhà nước, lãnh
đạo xã hội. Đường lối lãnh đạo của Đảng được Nhà nước thể chế
thành pháp luật. Đảng có quyền giới thiệu các Đảng viên ưu tú vào các cơ
quan nhà nước. Các tổ chức xã hội khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ,
Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,... được giới thiều
thành viên của mình ra ứng cử vào cơ quan quyền lực của Nhà nước.
Những cán bộ chủ chốt của các tổ chức này có thể được Nhà nước bổ
nhiệm giữ các chức vụ trong cơ quan Nhà nước.
Ngược lại, Nhà nước tạo mọi điều kiện để các tổ chức xã hội được
thành lập khi có đủ điều kiện do pháp luật quy định. Các tổ chức xã hội
( không bao gồm ĐCSVN và các tổ chức chính trị-xã hội) sẽ được thành
lập nếu đáp ứng đủ các điều kiện do Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy
định. Cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập,chia tách, sát nhập, hợp
nhất, giải thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hội gồm: Bộ trưởng bộ nội vụ,
chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và chủ tịch ủy ban nhân dân cấp quận
khi được ủy quyền, cụ thể như sau:
Bộ trưởng bộ nội vụ cho phép thành lập chia tách, sát nhập, hợp nhất,
giải thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hội đối với các hội có phạm vi trên
cả nước hoặc liên tỉnh ( trừ các trường hợp pháp luật quy định khác).


Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép thành lập, chia tách, sát
nhập, hợp nhất giải thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hoạt động hội đối với
các hội có phạm vi hoạt động trong cấp tỉnh. Căn cứ vào tình hình thực tế
của địa phương, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền để chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quyền này đối với hội có phạm
vi hoạt động trong xã. Việc lập hội được tiến hành theo trình tự :
+ Những hội quần chúng hoạt động trên phạm vi cả nước phải được Thủ
tướng Chính phủ cấp giấy phép.

+ Những hội quần chúng hoạt động ở Tỉnh, Thành phố hoặc cấp tương
đương phải do Chủ tịch tỉnh, thành phố hoặc cấp tương đương cấp giấy
phép và phải báo cho thủ tướng Chính phủ biết.
+ Những tổ chức quần chúng hoạt động có tính chất tương thế, phúc lợi ở
xã, phường, thôn,... do chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường cho phép
nhưng phải báo cáo cho chủ tịch huyện, quận được biết.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hay bác bỏ đề nghị xin
thành lập tổ chức xã hội đồng thời có quyền chấm dứt hoạt động của các
tổ chức xã hội trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ xin phép thành lập, cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền phải xem xét quyết định cho phép thành
lập hội. Trường hợp không đồng ý phải có văn bản trả lời và nêu rõ lí do.
Các tổ chức xã hội có thể chấm dứt hoạt động khi có các cơ sở sau:
+ Đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử và tuyên bố tự giải thể. Pháp luật quy
định sau khi tự tuyên bố giải thể, chậm nhất một tháng phải nộp lên cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép toàn bộ hồ sơ, con dấu, tài
liệu thanh quyết toán tài sản chuyển giao theo hướng dẫn của cơ quan tài
chính Nhà nước.
+ Hoạt động của tổ chức đó vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệ, uy tín
của tổ chức đó một cách nghiêm trọng. Trong ba trường hợp nêu trên, cơ


quan có thẩm quyền cho phép hoạt động có quyền thu hồi giấy phép hoạt
động.
+ Tổ chức xã hội tự ý không hoạt động mà không có lí do chính đáng.
Trong trường hợp này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định
giải thể tổ chức đó.
- Nhóm quyền và nghĩa vụ nhằm duy trì, bảo đảm cho sự tồn tại và phát
triển của tổ chức xã hội.
Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện để các tổ chức xã hội hoạt động

và phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi làm cản trở hoạt động hợp pháp
của các tổ chức xã hội. Những hội có tính chất đặc thù do thủ tướng quy
định tại các điều 33,34,35 của nghị định số 45/2010/NĐ-CP được cấp
kinh phí hoạt động theo số biên chế được giao; bảo đảm kinh phí để thực
hiện nhiệm vụ nhà nước giao và hỗ trợ cơ sở vật chất và phương tiện hoạt
động; được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia thực hiện một số hoạt
đông quản lí Nhà nước, các dịch vụ công; thực hiện tư vấn, phản biện và
giám định xã hội; thực hiện các đề tài, dự án.
Bộ nội vụ, bộ tài chính và các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân
cấp tỉnh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm quy
định hướng dẫn, tạo điều kiện về cấp kinh phí hoạt động theo số biên chế
được giao, hỗ trợ kinh phí hoạt động gắn với nhiệm vụ Nhà nước và hỗ
trợ cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động.
Nhìn chung, các tổ chức xã hội nói chung đều được nhà nước hỗ trợ
kinh phí đối với những hoạt động gắn liền với nhiệm vụ của nhà nước
được giao.
- Nhóm quyền và nghĩa vụ trong việc phối hợp hoạt động trong quản lí
hành chính Nhà nước.
Nhóm quyền và nghĩa vụ này chủ yếu được xác định lồng ghép trong
các quyền và nghĩa vụ tham gia quản lí Nhà nước, quản lí kinh tế xã hội
như: quyền tham gia xây dựng các chính sách pháp luật về kinh tế-xã hội,


×